Tứ diệu đế được biết đến trong vai trò tổng thể như là một cấu trúc nền  		tảng của Phật giáo. Tất cả các phần giáo lý và thực hành của đạo Phật  		đều được trình bày trong phạm vi nội dung của bốn chân lý này, cụ thể là  		sự thực về khổ đau, sự thực về các nguồn gốc của khổ đau, sự thực về  		chấm dứt khổ đau và những nguyên nhân tiềm ẩn của nó, và cuối cùng là sự  		thực về con đường để đạt tới sự chấm dứt đó. Những lời dạy của đức Phật  		về bốn chân lý này là: người ta nên nhận biết được sự thực về khổ đau,  		loại trừ các nguồn gốc của khổ đau, hoàn tất sự chấm dứt khổ đau, và  		nương theo con đường dẫn tới sự chấm dứt hoàn toàn mọi khổ đau.
Phật giáo nhận diện hai loại khổ đau: thể xác và tinh thần. Hai loại này  		không đồng nhất, bởi vì về mặt thể nghiệm rõ ràng là người ta có thể khó  		chịu về thể xác – chẳng hạn như trong lúc tham gia rèn luyện thể chất  		rất căng thẳng – nhưng lại phấn khởi về mặt tinh thần; và ngược lại,  		người ta cũng có thể bấn loạn tinh thần trong lúc đang được thoải mái về  		thể xác. Điều này lập tức gợi lên vấn đề về mối quan hệ giữa thân thể và  		tâm thức. Chúng ta có các nền tảng chắc chắn để không đánh giá một cách  		đơn giản các mức độ lành mạnh của tinh thần và thể chất là như nhau; và  		sự thật đó hàm ý một kiểu nhị nguyên cảm tính giữa thân và tâm. Chủ  		trương nhị nguyên như vậy được Phật giáo chấp nhận một cách rõ ràng và  		không có nguyên do nào được trình bày trong hội nghị này về việc tại sao  		điều đó lại bị bác bỏ bởi khoa thần kinh học hiện đại.
Nhị nguyên cảm tính có thể được bao gồm trong phạm trù rộng lớn hơn của  		cái khả dĩ được cho là nhị nguyên kinh nghiệm: Những kinh nghiệm của  		chúng ta về các hiện tượng vật lý khách quan hoàn toàn khác với những  		kinh nghiệm về các hiện tượng tinh thần chủ quan. Một sự kiện như quả  		táo rơi xuống từ trên cây, hay một sự vật như bản thân trái táo, có vẻ  		như hoàn toàn khác hẳn với sự thất vọng hay kinh nghiệm tự tin. Tương  		tự, có sự khác biệt đáng kể về mặt kinh nghiệm giữa việc quan sát các  		tiến trình não một cách khách quan với việc theo dõi các tiến trình tinh  		thần một cách chủ quan. Việc quan sát tiến trình não có những vị trí cụ  		thể và bao gồm các thực thể vật chất có hình dáng, màu sắc, khối lượng,  		và nhiều thuộc tính vật lý khác. Các tiến trình tinh thần dường như  		thiếu hẳn các thuộc tính vật lý đó, trong khi lại có một số tính chất  		riêng biệt không thấy rõ trong các tiến trình não. Các nhà tu hành Phật  		giáo đã quan sát tâm thức trong nhiều thế kỉ nhưng không hình thành lý  		thuyết nào về não bộ, sự thật đó hàm ý rằng tri kiến quán chiếu nội tâm  		không cần thiết phải soi rọi bất cứ chút ánh sáng nào vào não bộ. Cũng  		vậy, việc nghiên cứu riêng về não bộ – độc lập với tất cả các khoản thể  		nghiệm về ngôi danh xưng thứ nhất của các trạng thái tinh thần – không  		nhất thiết tạo ra bất cứ hiểu biết nào về hiện tượng tinh thần. Như vậy,  		chủ trương nhị nguyên kinh nghiệm bảo lưu rằng các hiện tượng tinh thần  		và vật lý dường như là khác nhau về mặt thể nghiệm. Điều này được chấp  		nhận bởi Phật giáo cũng như bởi ít nhất một số nhà khoa học trong hội  		nghị này.
Chủ trương nhị nguyên kinh nghiệm cũng bao gồm điều có thể được gọi là  		nhị nguyên nhân quả, bởi vì hệ thống thân-tâm, theo cách nói của Allan  		Hobson, “rõ ràng là chấp nhận hai kiểu can thiệp khác nhau: sự can thiệp  		về mặt sinh học và sự can thiệp về mặt nhận thức”. Lewis Judd tán thành  		như vậy khi nhận xét rằng “có bằng chứng là có thể có một hiệu ứng tổng  		hợp giữa tâm lý dược học và các dạng đặc biệt của tâm lý trị liệu”. Bởi  		vì với sự kết hợp của cả hai phương pháp, tỉ lệ giảm nhẹ của trạng thái  		suy nhược lâm sàng là cao hơn so với người chỉ được điều trị riêng bằng  		thuốc. Thêm vào đó, Phật giáo cho rằng tâm thức chịu ảnh hưởng và cũng  		đồng thời tạo ra ảnh hưởng đối với cả hiện tượng tinh thần và hiện tượng  		vật lý.
Ta sẽ làm gì với chủ trương nhị nguyên thân-tâm được công nhận rộng rãi  		trong Phật giáo và khoa học hiện đại? Quan điểm của Trung quán tông,  		được ngài Dalai Lama tán thành và được xem là đỉnh cao của triết học  		Phật giáo Tây Tạng, cho rằng con người có xu hướng bẩm sinh cụ thể hóa  		cả nội dung của kinh nghiệm cũng như chính mình như là chủ thể đang kinh  		nghiệm. Theo quan điểm này, trong khi việc nhận biết sự khác biệt hiển  		nhiên giữa các sự kiện tinh thần và vật lý là hữu ích trong các cách  		thức trên, thì việc kết luận rằng thiên nhiên tự nó – không phụ thuộc  		vào các cấu trúc nhận thức của chúng ta – đã tạo ra một ranh giới tuyệt  		đối nào đó giữa các hiện tượng tinh thần và vật lý lại là một sai lầm  		sâu sắc. Do đó, quan điểm Trung quán dứt khoát bác bỏ chủ trương nhị  		nguyên thực thể của Descartes, là chủ trương đã từng bị các nhà thần  		kinh học đương thời công khai phê phán. Những người theo Trung quán tông  		hoặc những người ủng hộ quan điểm này nêu rõ rằng: Nếu tâm và thân mỗi  		cái đều tự nó tồn tại – không phụ thuộc vào các danh xưng theo khái niệm  		– thì hẳn chúng đã không bao giờ tương tác với nhau. Do đó, có sự không  		tương hợp sâu sắc giữa những gì được nhìn thấy và thực tại: trong khi  		tâm thức và vật chất dường như vốn dĩ là hai kiểu khác nhau của “dạng”  		tồn tại độc lập, thì những vẻ ngoài như vậy lại là sai lệch; điều này  		chỉ trở nên rõ ràng qua sự phân tích bản thể học về bản chất của cả hai  		loại hiện tượng.[99]
Sự khó khăn trong việc đưa ra bất cứ giải thích nào về sự tương tác nhân  		quả giữa thân và tâm nếu cả hai được xem là những “sự vật” thực hữu và  		tách biệt đã được nêu ra một cách rõ ràng trong hội nghị này, và đó là  		lý do chủ yếu giải thích tại sao đại đa số các nhà thần kinh học đã chấp  		nhận một quan điểm vật lý về tâm thức. Từ cách nhìn của Phật giáo, trong  		khi bước này giải tỏa được sự cần thiết của bất kỳ một cơ chế nhân quả  		nào liên hệ giữa một tâm thức phi vật thể với não bộ, thì nó lại có  		khuyết điểm là không soi rọi được chút ánh sáng nào vào bản chất thực sự  		hay những nguồn gốc của ý thức. 
Quả thực, dù thần kinh học hiện đại đã khám phá nhiều thành tố của bộ  		não và các tiến trình thần kinh cần thiết cho việc tạo ra các tiến trình  		ý thức cụ thể, nhưng khoa học này không những không đưa ra được sự giải  		thích thuyết phục nào về bản chất của ý thức, mà họ cũng không có bất cứ  		phương thức khoa học nào để nhận biết được sự hiện hữu hay vắng mặt của  		ý thức trong bất kì một loài sinh vật nào cả. Nhiều năm sau cuộc hội  		nghị này, tôi vẫn không nghe có thêm sự giải thích sáng tỏ nào của các  		nhà duy vật về ý thức, ngoài những gì đã nêu ra ở đây, nói rõ hơn, họ  		cho rằng đó chỉ hoàn toàn là một điều kiện tự nhiên của bộ não được hoạt  		hóa. Tôi cũng không nghe được gì thêm về nguồn gốc của ý thức ngoài phát  		biểu rằng ý thức là một cái gì đó sinh khởi khi có đủ các tế bào thần  		kinh cùng với các nối kết đủ phức tạp để hỗ trợ hoạt động nhận thức.  		Những trình bày đó không thực sự giải thích được gì, và hầu như không  		thể xem là các lý thuyết khoa học, vì chúng không thích hợp cho cả việc  		kiểm nhận hay bác bỏ kinh nghiệm.
Trung quán tông không chỉ bác bỏ quan điểm rằng tâm thức là một cái gì  		đó tự hữu, mà họ cũng phủ nhận một cách tương tự việc cho rằng các hiện  		tượng vật lý như ta thể nghiệm và nhận thức về chúng là các sự vật tự  		tồn; thay vì vậy, các hiện tượng vật lý được cho là tồn tại trong mối  		quan hệ với các nhận thức và quan niệm của ta. Những gì ta nhận thức  		chắc chắn có quan hệ với các kiểu cách cảm nhận của ta trong việc quan  		sát, và các cách thức ta nhận hiểu về các hiện tượng chắc chắn có liên  		hệ tới những quan niệm và ngôn ngữ của ta. 
Khi phủ nhận sự tồn tại độc lập của tất cả mọi hiện tượng làm nên thế  		giới kinh nghiệm của chúng ta, quan điểm Trung quán tách rời khỏi cả chủ  		nghĩa nhị nguyên thực thể của Descartes lẫn chủ nghĩa đơn nguyên thực  		thể – tức là chủ nghĩa duy vật – đó là đặc tính của khoa học hiện đại.  		Chủ nghĩa duy vật đề xuất bởi nhiều nhà khoa học đương thời dường như  		khẳng định rằng thế giới thực được cấu thành bởi các thực thể vật lý tự  		hữu, trong khi tất cả các hiện tượng tinh thần được xem như chỉ hoàn  		toàn là những sự trình hiện, không có bất kì thực thể nào trong đó và  		thuộc về chúng. Rất nhiều luận điểm được hình thành từ sự khác biệt này  		giữa các trình hiện và thực tại.
Quan điểm Trung quán cũng nhấn mạnh sự khác biệt giữa các trình hiện và  		thực tại, nhưng theo một cách hoàn toàn khác. Quan điểm này cho rằng tất  		cả các hiện tượng tinh thần và vật lý mà ta kinh nghiệm xuất hiện như  		thể là chúng tồn tại trong nhau và thuộc về nhau, hoàn toàn không phụ  		thuộc vào kiểu cách hay nhận thức và quan niệm của chúng ta. Chúng có vẻ  		như là những sự vật tự hữu, nhưng trong thực tại chúng tồn tại như là  		các sự kiện có liên hệ phụ thuộc. Sự phụ thuộc của chúng có 3 tầng: 	  
1. Các hiện tượng khởi lên trong sự phụ thuộc vào các ảnh hưởng nhân quả  		ngay trước đó, 
2. Chúng tồn tại phụ thuộc vào các thành phần và (hoặc là) các thuộc  		tính của riêng chúng, 
3. Các hiện tượng tạo nên thế giới kinh nghiệm của chúng ta phụ thuộc  		vào sự định danh ngôn ngữ và quan niệm của chúng ta về chúng.
Về mặt trực giác, sự phụ thuộc ba tầng này không rõ rệt, vì chúng bị che  		giấu bởi sự trình hiện của các hiện tượng như là có khả năng tự tồn và  		không phụ thuộc vào sự định danh theo khái niệm. Dựa trên những trình  		hiện sai lệch này, cũng là điều hoàn toàn tự nhiên khi nghĩ về các hiện  		tượng, hay nắm bắt chúng về mặt khái niệm, như là những sự vật tự xác  		định mình trong chính toàn thể ấy. Xu hướng này được biết tới như là sự  		vật thể hóa, và theo quan điểm Trung quán, đây là một sự sai lầm bẩm  		sinh tạo ra nền tảng cho vô số các phiền não tinh thần. Sự vật thể hóa  		tách rời mọi sự vật ra khỏi toàn cảnh, nhìn các hiện tượng mà không hề  		xem xét tới mối quan hệ nhân quả làm sinh khởi chúng, và cũng không xem  		xét tới những phương thức quan sát và hình thành khái niệm cụ thể được  		sử dụng để nhận biết chúng. Tên gọi Trung quán được hình thành là vì  		quan điểm này cố tránh khỏi hai phía cực đoan: một bên là vật thể hóa  		các hiện tượng và một bên là phủ nhận sự tồn tại của chúng.
Theo quan điểm Trung quán, các sự kiện tinh thần cũng có thực tính không  		khác gì so với các sự kiện vật lý. Trong kinh nghiệm tri giác thông  		thường của chúng ta, quả thật có những kiểu khác biệt giữa các hiện  		tượng vật lý và tinh thần. Trong khi các hiện tượng vật lý thường có  		khối lượng, vị trí, vận tốc, hình dáng, kích cở, và nhiều thuộc tính vật  		lý khác, thì những điều này nói chung không phải là đặc tính của các  		hiện tượng tinh thần. Chẳng hạn, ta thường không nhận biết được tình cảm  		yêu mến của một người đối với người khác như là có khối lượng hay vị  		trí. Những thuộc tính vật lý này cũng không hợp với các hiện tượng tinh  		thần khác như là sự buồn bã, một hình ảnh được nhớ lại từ thời thơ ấu,  		hình dung của một đóa hồng, hay ý thức về bất cứ điều gì. Do đó, các  		hiện tượng tinh thần không được xem như là vật thể, bởi lẽ đơn giản là  		chúng không có nhiều thuộc tính là đặc tính chỉ có ở các hiện tượng vật  		lý. Do đó, Phật giáo chưa từng chấp nhận các nguyên lý vật lý chỉ xem  		các vật thể vật lý mới là có thực. Trở lại với Chân lý thứ nhất, cả  		những khổ đau thể chất và tinh thần đều được thừa nhận, nhưng theo quan  		điểm Trung quán, chúng đều không tồn tại như là những sự kiện tự hữu, và  		do đó, tính nhị nguyên giữa chúng là một bản tính tương đối, không phải  		tuyệt đối.
