"Được sanh trong cảnh người thật là hy hữu.Tứ Vô Lượng Tâm
Đời sống của chúng sanh quả là khốn khổ.
Chớ để lỡ mất cơ hội nầy." -- Kinh Pháp Cú
Con người là một chúng sanh huyền bí có nhiều tiềm năng phi thường.
 Có hai năng lực trái ngược luôn luôn tiềm tàng ngủ          ngầm trong mỗi người. Một, hướng về trạng thái cao thượng         trong sạch, đặc tính của bậc thánh nhân và một, hướng         về những điều tội lỗi nhơ bẩn, của kẻ sát nhân tàn         bạo. Cả hai tiềm lực nầy đều có thể phát sanh bất         ngờ với một sức mạnh vô cùng hùng hậu. Xuất phát từ         đâu? Nào ai biết. Chỉ biết rằng nó luôn luôn nằm bên         trong ta, nhiều hay ít, mạnh hay yếu,tùy trường hợp. Trong guồng máy phức tạp của con người, có cái tâm vô         cùng dũng mãnh. Tâm chứa đựng một kho tàng đức hạnh và         một hầm tật xấu. Người biết vun bồi đức hạnh là         một phước lành cho nhân loại. Kẻ bị tật xấu chi phối         là một đại họa. Những ai có chí hướng trở thành bậc vĩ nhân cao thượng         và hữu ích, những ai muốn vượt lên trên đám đông quần         chúng để phục vụ nhân loại bằng cách nêu gương lành         trong sáng và ban bố những lời dạy hữu ích, những ai         muốn tận dụng cơ hội quý báu được sanh làm người, đều         cố gắng gia công gội rửa các tật xấu còn lại và phát         triển những đức hạnh đang ngủ ngầm trong tâm. Khi khai thác hầm mỏ là một điều khó. Để tìm mỏ kim         cương, mỏ dầu, hay một nhiên liệu quý báu khác, con người         phải tốn hao biết bao nhiêu tiền của và công lao, phải trãi         qua biết bao hiểm nguy gian khổ, đôi khi phải hy sinh cả          mạng sống, để đào sâu trong đất. Nhưng, để khai thác         kho tàng vô giá đang ngủ ngầm bên trong mình, chỉ cần kiên         trì cố gắng và nhẫn nại gia công. Mọi người, dầu trai         hay gái, sang hay hèn, đều có thể chuyên cần nỗ lực và         kiên tâm trì chí để thâu thập sự nghiệp quý báu kia, vì          đó không phải là một di sản do ông cha truyền lại. Thế thường, ta coi tật xấu của con người là thiên tánh         ngẩu nhiên bộc phát. Âu cũng là một điều lạ! Cũng lạ          thay, tuy rằng đối chiếu với mỗi tật xấu có một phẩm         hạnh xác thực mà mọi người đều có thể thọ hưởng,         ta lại không coi phẩm hạnh ấy là thông thường, phải có. Sân hận (Dosa) là một tật xấu có sức tàn phá vô cùng         khốc liệt. Đối diện với lòng sân, tâm Từ (Metta) là         một đức độ nhẹ nhàng êm dịu làm cho con người trở nên         cao thượng, tuyệt luân. Hung bạo (Himsa) là một tật xấu khác đã gây nên biết         bao tội ác và biết bao hành động bạo tàn trên thế gian.         Tâm Bi (Karuna) là vị thuốc công hiệu để tiêu trừ bệnh         hung bạo. Ganh tỵ (Issa) là chất độc cho cơ thể, vừa là động         lực thúc đẩy con người vào những cuộc ganh đua nhơ bẩn         và những hoàn cảnh tranh chấp hiểm nguy. Phương thuốc         trị liệu nhiệm màu và công hiệu nhất để trị bệnh         ganh tỵ là tâm Hỷ (Mudita). Bám níu vào những gì ưa thích, và bất toại nguyện         với những điều không vừa lòng làm cho tâm mất bình         thản. Do sự phát triển tâm Xả (Upekkha), hai tệ đoạn trên         sẽ bị tiêu diệt dần dần. Phạn ngữ "Brahma Vihara" có nghĩa là lối sống         cao thượng, trạng thái cao siêu, hoặc chổ nương tựa của         bậc thánh nhân. Ta gọi là Tứ Vô Lượng Tâm. Tứ Vô Lượng Tâm giúp con người trở nên toàn thiện và         có lối sống của bậc thánh, trong kiếp hiện tại. Tứ Vô         Lượng Tâm có khả năng biến đổi người thường ra bậc         siêu nhân, phàm ra thánh. Nếu mỗi người đều cố gắng công thực hành Tứ Vô Lượng         Tâm, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, nam nữ v.v...         quả địa cầu nầy sẽ trở thành một thiên đàng, trong đó         tất cả chúng sanh chung sống an vui trong tình huynh đệ, và         mỗi người sẽ là một công dân lý tưởng trong một thế          giới thanh bình an lạc. Bốn đức độ cao thượng ấy cũng được gọi là         "Appamanna", rộng lớn bao la, vì Từ, Bi, Hỷ, Xả không         bờ bến, không biên cương, không bị hạn định. Tứ Vô Lượng         Tâm bao trùm tất cả chúng sanh, không trừ bỏ một sanh linh         nhỏ bé nào. Từ, Bi, Hỷ, Xả là vô lượng, vô biên. Dầu theo tôn giáo nào hay hấp thụ văn hóa nào, mỗi người          đều có thể trau giồi bốn đức độ nhẹ nhàng êm dịu          ấy để trở nên một phước lành, cho mình và cho kẻ khác. 1. Tâm Từ (Metta) Trạng thái cao thượng đầu tiên là tâm "Từ ",          tiếng Pali là Metta, Sanskrit là Maitri. Nghĩa trắng của Metta là cái gì làm cho lòng ta êm dịu.         Metta là tâm trạng của người bạn tốt. Metta là lòng thành         thật ước mong rằng tất cả chúng sanh đều được sống         an lành hạnh phúc. Metta có khi cũng được định nghĩa là lòng         mong mỏi chân thành của người bạn hiền, thành thật         muốn cho bằng hữu mình được an vui hạnh phúc. "Tâm Từ phải được rãi khắp đồng đều cho           mọi chúng sanh, phải bao trùm vạn vật, phải sâu rộng và            đậm đà như tình thương của bà từ mẫu đối với người           con duy nhất, săn sóc, bảo bọc con, dầu nguy hiểm đến tánh           mạng cũng vui lòng." -- Metta Sutta (Kinh Từ Bi). So sánh tâm Từ với tình mẫu tử trong đoạn kinh Metta         Sutta (kinh Từ Bi), Đức Phật không đề cập đến lòng trìu         mến ít nhiều vị kỷ của người mẹ. Ngài chỉ nhắm vào         sự mong mỏi thành thật của bà mẹ hiền, mong muốn cho người         con duy nhất của mình được sống an lành. Tâm Từ (Metta) không phải sự yêu thương thiên về xác         thịt, cũng không phải lòng trìu mến, luyến ái một người         nào. Tình dục và luyến ái là nguyên nhân của bao nhiêu         phiền muộn. Tâm Từ (Metta) không phải là tình thương riêng biệt đối         với láng giềng, bởi vì người có tâm Từ không phân         biệt người thân, kẻ sơ. Tâm Từ (Metta) không phải chỉ là tình huynh đệ rộng rãi         giữa người và người, mà phải bao trùm tất cả chúng         sanh, không trừ bỏ sanh linh bé nhỏ nào, bởi vì loài cầm         thú, các người bạn xấu số của chúng ta, cũng cần         nhiều đến sự giúp đỡ và tình thương của ta. Tâm Từ (Metta) không phải là tình đồng chí, không phải         là tình đồng chủng, không phải là tình đồng hương, cũng         không phải là tình đồng đạo. Tình đồng chí chỉ biết những người cùng một chí hướng         chánh trị, một chủ nghĩa, hay một đảng phái như Dân         Chủ, Cộng Hòa, Xã Hội v.v... Tình đồng chủng chỉ giới hạn giữa những người cùng         một chủng tộc, một da màu. Tình đồng hương chỉ có giữa những người cùng một         quốc gia. Đôi khi vì tình đồng chủng con người nhẫn tâm         tàn sát đến đàn bà và trẻ con, chỉ vì những người vô         tội nầy không được diễm phúc có đôi mắt xanh và tóc vàng         như họ. Người da trắng có cảm tình riêng với người da         trắng. Người da đen có cảm tình riêng với người da đen,         người da vàng với người da vàng, người da đỏ với người         da đỏ v.v... Cũng có khi vì một mặc cảm nào, một dân         tộc đem lòng nghi kỵ và lo sợ một giống dân khác. Lắm lúc,          để chứng minh rằng dân tộc mình cao trổi hơn dân tộc khác,         con người không ngần ngại dùng những phương tiện tàn ác         như gây chiến tranh, dội bom, nhã đạn, tiêu hủy cả          triệu sanh linh. Nhân loại ngày nay vẫn không bao giờ có         thể quên những thảm trạng đã xảy diễn trong thời Thế          Chiến Thứ Nhì vừa qua. Cùng một quốc gia, cũng có những tâm trạng hẹp hòi,         hợp lại thành từng nhóm để gây nên cái mà chúng gọi là         tình huynh đệ giữa những người cùng một giai cấp xã         hội, một thứ tình thương chỉ nằm vỏn vẹn trong phạm         vi nhỏ hẹp của một số người có quyền thế, để đàn         áp một hạng người khác đến độ không cho phép họ hưởng         những nhân quyền sơ đẳng, chỉ vì những người nầy         rủi ro phải sanh trưởng trong một giai cấp hạ lưu. Chính         hạng người thượng lưu kia mới đáng thương hại, vì họ          là những người chỉ biết sống hẹp hòi bưng bít. Tâm Từ (Metta) cũng không phải là tình huynh đệ giữa         những người cùng một tôn giáo. Bởi sự hiểu biết hẹp         hòi, gọi là "tình đồng đạo", bao nhiêu đầu người          đã rơi, bao nhiêu vĩ nhân đã bị tù đày và đối xử          khắc nghiệt. Bởi tình đồng đạo hẹp hòi, bao nhiêu người         phải bị thiêu sống một cách tàn nhẫn chỉ vì thành         thật nói lên ý tưởng của mình. Bao nhiêu hành động hung         bạo, bao nhiêu chiến tranh tàn khốc, đã làm hoen ố lịch         sử nhân loại cũng vì tình đồng đạo hẹp hòi. Cho đến thế kỷ thứ hai mươi nầy mà người ta cho là         sáng suốt, nhân loại vẫn còn chứng kiến những vụ tranh         chấp võ trang, mà nguyên nhân chỉ vì những người theo tôn         giáo nầy không ép buộc được những người khác tư tưởng         như mình. Con người ghen ghét nhau, thù hận nhau, chém giết         lẫn nhau, chỉ vì không cùng chung sống được với nhau dưới         một nhãn hiệu. Nếu vạn nhất, vì không đồng tín ngưỡng mà những người         khác tôn giáo với nhau không thể nhìn nhau như anh chị em         trong một đại gia đình, thì sứ mạng của tất cả các         vị giáo chủ trên thế gian nầy hẳn thật đã thảm bại         chua cay. Tâm Từ êm dịu vượt hẳn lên trên các tình huynh đệ          hẹp hòi ấy. Phạm vi của tâm Từ không bờ bến, không biên         cương, không hạn định. Tâm Từ không có bất luận một         loại kỳ thị nào. Nhờ tâm Từ mà ta có thể xem tất cả          chúng sanh là bạn hữu, và khắp nơi trên thế gian như chỗ          chôn nhau cắt rún. Tựa hồ như ánh sáng mặt trời, bao trùm         vạn vật, tâm Từ cao thượng rãi khắp đồng đều phước         lành thâm diệu cho mọi người, thân cũng như sơ, bạn cũng         như thù, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, nam nữ, hư hèn         hay đạo đức, người hay thú. Người có tâm Từ vô lượng vô biên như thế ấy là Đức         Phật, Ngài đã tận tâm tạo an lành hạnh phúc cho tất cả          những người thân yêu kính mộ Ngài cũng như những người         ganh tỵ, oán ghét, và những người âm mưu ám hại Ngài. Tâm Từ của Đức Phật đối với Rahula (La Hầu La), con         Ngài, không có chút gì khác hơn là đối với Devadatta (Đề          Bà Đạt Đa), người đã coi Ngài là thù nghịch và với Đại          Đức Ananda (A Nan), vị thị giả thân tín rất kính mến Ngài... Tâm Từ bao la rộng rãi, đồng đều, đối với chính mình         cũng như đối với những người thân cận, những người         không quen biết, và những người có ác ý đối với mình.         Như chàng kia đi trong rừng với một người bạn, một người         không quen biết, và một người thù, gặp một tướng cướp         dữ tợn. Tên cướp quyết định phải giết một người.         Nếu anh chàng chịu hy sinh mạng sống để cứu các bạn đồng         hành thì ra anh thiếu tâm Từ đối với chính mình. Nếu anh         tính rằng một trong ba người kia đáng chịu hy sinh thì anh         lại không có tâm Từ đối với người ấy. Tâm Từ là như vậy. Có lòng từ ái đối với người khác         không có nghĩa là phải quên mình. Hy sinh mạng sống mình vì         một lợi ích nào là một đức độ cao thượng khác, và không         chấp ngã là một loại tâm cao thượng khác nữa. Đó là         quan điểm tế nhị mà ta không nên lầm lộn. Người thực hiện tâm Từ đến mức cùng tột sẽ thấy         mình đồng hóa với tất cả chúng sanh, không cón sự khác         biệt giữa mình và người. Cái gọi là "Ta" lần         lần mở rộng, lan tràn cùng khắp càn khôn vạn vật. Mọi         sự chia rẽ đều tiêu tan, biến mất như đám sương mờ          trong nắng sáng. Vạn vật trở thành một, đồng thể, đồng         nhất. Thật ra không có ngôn ngữ nào diễn tả đúng nghĩa chữ          "Metta" trong tiếng Pali. Thiện ý, từ ái, hảo tâm,         bác ái, là những danh từ tạm gọi là đồng nghĩa với         Metta mà thôi. Nghịch nghĩa với Metta là sân hận, ác ý, thù oán, ghen         ghét. Tâm Từ và sân hận không thể cùng phát sanh cùng         một lúc. Thù oán cũng không có thể chứa đựng Metta. Đức Phật dạy rằng: "Không thể lấy thù oán để diệt sân hận, chỉ có         tâm Từ mới dập tắt lòng sân." Không những dập tắt được lòng sân, tâm Từ (Metta) còn         diệt trừ các mầm tư tưởng bất thiện đối với người         khác. Người có tâm Từ (Metta) không bao giờ nghĩ đến làm         hại, làm giảm giá trị, hoặc bài xích ai, không bao giờ          sợ ai, cũng không bao giờ làm ai sợ. Kẻ thù gián tiếp thường mang lốt bạn của tâm Từ          một cách sâu ẩn bất ngờ là lòng trìu mến vị kỹ. Nếu         quan niệm không đúng, tâm Từ có thể dễ dàng trở thành         luyến ái. Kẻ thù gián tiếp nầy thật là tế nhị mà cũng         thật hiểm độc. Nó hành động như một người ẩn núp         trong rừng sâu hay ở sau một sườn núi để chờ cơ hợi         ám hại một người khác. Trìu mến đem lại đau khổ. Tâm         Từ chỉ tạo an lành hạnh phúc. Đây là điểm tế nhị mà ta không nên hiểu lầm. Cha         mẹ thương yêu trìu mến con, con trìu mến thương yêu cha         mẹ, vợ mến chồng, chồng mến vợ. Tình thương và tâm         luyến ái giữa những người thân yêu là lẽ thường, là         một sự kiện tự nhiên. Thế gian không thể tồn tại nếu         không có tình thương. Nhưng tình thương luyến ái luôn luôn         ích kỷ, hẹp hòi, không sánh được với tâm Từ là tình         thương đồng đều đối với tất cả chúng sanh trong vũ          trụ bao la. Do đó, tâm Từ không đồng nghĩa với tình thương         ích kỷ. Cố ý mong muốn làm cho kẻ khác được yên vui là đặc          điểm quan trọng của tâm Từ. Người có tâm Từ luôn luôn         cố gắng tạo an lành cho tất cả chúng sanh, chỉ thấy         những gì tốt đẹp nơi mọi người và không bao giờ nhìn         phần xấu xa hư hỏng của một ai. Tâm Từ đem lại nhiều quả phúc: 1. Người có tâm Từ luôn luôn ngủ được an vui. Ngủ            với tâm trạng thơ thới, không giận hờn, không lo âu           sợ sệt, tự nhiên giấc ngủ sẽ đến dễ dàng. Mỗi người            đều có thể kinh nghiệm. Người có tâm Từ nhắm mắt là           ngủ, và ngủ ngon lành. 2. Khi ngủ với tâm an lành, tự nhiên lúc tỉnh giấc,           thức dậy cũng với tâm an lành, với gương mặt vui vẽ. 3. Người có tâm Từ không chiêm bao mộng mị, thấy           những điều xấu xa, ghê tợn. Dầu có nằm mộng cũng           thấy điều lành. 4. Người có tâm Từ đối với kẻ khác, tất nhiên           sẽ gặt hái những tình cảm ưu ái của mọi người. Khi           nhìn vào gương, nếu mặt ta vui vẽ hiền lành, phản ánh           của nó sẽ hiền lành vui vẽ. Trái lại, nếu mặt ta cau           có quạu quọ, phản ảnh của nó ắt cũng cau có quạu           quọ. Cùng một thế ấy, thế gian bên ngoài là phản ánh           của những hành vi, tư tưởng thiện hay ác của con người.           Người hèn hạ xấu xa chỉ biết nhìn vào tội lỗi của           kẻ khác. Một thi hào người Anh đã viết ra những dòng thơ rất            đẹp đẽ và thâm thúy có nhiều ý nghĩa: Tôi nhìn anh tôi qua kính hiển vi của sự Chỉ Trích Trong con người tốt nhất cũng có những điểm khuyết,           mà trong con người xấu nhất cũng có những điểm tốt.           Tại sao ta chỉ nhìn phần xấu xa tội lỗi mà không để            ý đến phần tốt của người? Nếu mỗi người đều nhìn           vào phần tốt đẹp của nhau, nhân loại đã tìm được           nguồn hạnh phúc dồi dào vậy. 5. Người có tâm Từ chắc chắn là bạn thân của nhân           loại mà cũng là bạn thân của tất cả chúng sanh. Loài           cầm thú cũng lấy làm vui thích được sống gần những           bậc hiền nhân đạo đức. Càc vị tu sĩ sống đơn độc           một mình ở chốn rừng sâu, giữa đám sài lang hổ bao,           chỉ nhờ có tâm Từ để tự bảo vệ. Đức Phật có           lần nói rằng: "Như Lai sống trên một ngọn núi, giữa đám sư              tử, cọp, beo, nai hươu, các thứ, giữa rừng rậm cỏ              hoang. Không một con vật nào sợ Như Lai mà Như Lai cũng             không sợ con vật nào. Chính nhờ oai lực của tâm Từ nâng              đỡ, bảo vệ và giúp Như Lai sống yên ổn." 6. Khi thực hành đúng mức, tâm Từ có khả năng đổi           dữ ra lành. Thuốc độc không hại được người có tâm           Từ , ngoại trừ trường hợp người ấy phải trả một           nghiệp xấu đã tạo trong quá khứ. Tâm Từ giúp hành           giả thêm sức khỏe và ngăn ngừa những ảnh hưởng xấu           xa từ bên ngoài. Tư tưởng độc ác đầu độc con người.           Tư tưởng trong sạch giúp con người trở nên lành mạnh. Kinh sách có chép lại chuyện bà Suppiya, một tín nữ giàu           lòng bi mẫn và có tâm đạo nhiệt thành. Bà Suppiya mang           một vết thương nặng trên vế. Hôm nọ, Đức Phật đi bát            đến trước nhà, được chồng bà cho biết rằng bà đang           lâm bệnh không thể ra đảnh lễ Ngài. Đức Phật bảo           cứ đưa bà ra. Bà cố gắng đi lần ra cửa. Vừa thấy           mặt Đức Phật, vết thương bà bỗng dưng lành lại, bà           trở nên khỏe mạnh như thường. Chíng lòng thành kính           trong sạch của bà khi được diện kiến Đức Phật, hợp           với năng lực của tâm Từ mà Đức Phật rải đến, đã           cứu bà khỏi bệnh. Một đoạn kinh khác thuật rằng khi Đức Phật trở            về quê nhà lần đầu tiên, con Ngài là Rahula (La Hầu La),           lúc ấy vừa lên bảy, đến gần Ngài và bạch: "Bạch đức Xa Môn, chỉ cái bóng của Ngài cũng đủ            làm con mát mẽ lạ thường." Tâm Từ của Đức Phật bao trùm lấy cậu bé Rahula và           có một năng lực hấp dẫn mạnh mẽ làm cho cậu vô cùng           cảm kích. 7. Người có tâm Từ luôn luôn được chư Thiên hộ trì. 8. Tâm Từ được an trụ dễ dàng, vì không bị những           tư tưởng trái ngược khuấy động. Với tâm thanh bình an           lạc, người có tâm Từ sẽ sống ở cõi trời, và cõi           trời ấy chính ta tạo ta. Chí đến những ai lân cận           tiếp xúc với người có tâm Từ cũng chứng nghiệm được           phước lành ấy. Người có tâm Từ gương mặt tươi sáng vì gương mặt           là phản ánh của nội tâm. Lúc giận, máu trong cơ thể            chạy mau gấp đôi ba lần lúc bình thường, trở nên nóng,           dồn lên làm đỏ mặt tía tai. Tâm Từ trái lại làm           loại cho tinh thần vui vẽ, thân có cãm giác thoải mái an           lành, máu được thanh lọc trong sạch và gương mặt hiền           từ dễ mến. Kinh sách chép rằng sau khi Đức Phật thành           tựu Đạo Quả Phật, trong lúc ngồi tham thiền, suy luận           về pháp Nhân Quả Tương Quan (Patthana), tâm hoàn toàn an           trụ và máu trong cơ thể tuyệt đối thanh tịnh. Lúc ấy,           từ bên trong pháp thân Ngài phát tủa ra những ánh hào           quang xanh, vàng, đỏ, trắng, và màu cam, bao phủ lấy Ngài. 10. Người có tâm Từ đến lúc lìa đời cũng được           an vui, vì trong lòng không chứa chấp tư tưởng sân hận.           Sau khi tắt thở, gương mặt tươi tỉnh ấy là phản ánh           của sự ra đi vui vẽ an toàn. 11. Chết an vui, người có tâm Từ sẽ tái sanh vào           cảnh giới nhàn lạc. Nếu đã đắc Thiền (Jhana), người ấy sẽ tái sanh vào           cảnh giới của chư Phạm Thiên. Năng Lực Của Tâm Từ (Metta) Ngoài những lợi ích có tánh cách vật chất, tâm Từ còn         có năng lực hấp dẫn mạnh mẽ phi thường. Tâm Từ có         thể gieo những ảnh hưởng tốt đẹp từ xa đến một người         khác. Mọi người đều cảm thấy yên vui khi ở gần người         lành. Một hôm, Đức Phật đến chỗ nọ. Trong hàng các thân hào          đến đảnh lễ Ngài , có một trưởng giả tên Roja, trước         kia là bạn thân của Đức Ananda. Thấy Roja, Đại Đức         Ananda nói: "Sư lấy làm vui mà thấy Roja hôm nay đến đây          đảnh lễ ra mắt chào mừng Đức Phật." Roja liền         trả lời: "Thật ra tôi đến đây không phải tỏ lòng         thành kính Đức Phật. Sở dĩ chúng tôi đến đây hôm nay là         vì chúng tôi đánh cuộc với nhau rằng người nào không đến          đảnh lễ Đức Phật sẽ bị phạt năm trăm đồng vàng. Chính         vì sợ mất tiền mà tôi đến." Đức Ananda lấy làm thất vọng, đến bạch tự sự cho          Đức Phật rỏ và xin Ngài tế độ người bạn thân của mình.          Đức Phật liền rãi tâm Từ đến Roja, rồi trở về tịnh         thất. Lúc ấy Roja thấy khắp thân châu mình đượm nhuần một         luồng cảm xúc mát mẽ lạ thường, dường như từ Đức         Phật đưa đến. Bị cảm kích quá mạnh, chàng không thể cưỡng         kháng lại ý muốn gặp ngay Đức Phật. Không khác nào bò         con chạy theo mẹ, Roja chạy vào chùa, từ tịnh thất nầy          đến tịnh thất kia, để tìm Đức Phật. Được chỉ dẫn          đến nơi, Roja gỏ cửa. Cửa vừa mở, ông lật đật đảnh         lễ Đức Phật, rồi nghe Đức Phật giảng pháp và xin quy         y. Đó là một trường hợp cho thấy rằng tâm Từ có sức         hấp dẫn thật mạnh mà mỗi người đều có thể chứng         nghiệm, tùy theo khả năng của mình, vì cũng như các đức         tánh khác trong Tứ Vô Lượng Tâm, tâm Từ luôn luôn tiềm tàng         ngủ ngầm bên trong mọi người . Trong một tích chuyện khác, có người muốn hại Đức         Phật, cho voi uống rượu đến say rồi lùa chạy ngay lại         phía Ngài. Con voi hung tợn cắm đầu chạy đến Đức         Phật, định làm dữ. Thản nhiên, Đức Phật rải tâm Từ         đến con voi và chế ngự trong khoảnh khắc. Và sau đây là một mẩu chuyện cho thấy đến mức độ          nào một vị Bồ Tát có thể rải tâm Từ vô lượng đến         những người ở quanh mình, khi cha Ngài hạ lệnh giết Ngài.         Bồ Tát nghĩ như thế nầy: "Đây là cơ hội quý báu để ta thực hành tâm Từ.          Đứng trước đây là cha ta. Mẹ ta đang khóc than thê thảm.         Kìa là đao phủ sẵn sáng hành quyết ta, và ta đây là nạn         nhân đang đứng ở giữa. Ta phải rãi tình thương đồng đều          đến tất cả bốn người. Ngưỡng nguyện cha ta khỏi         phải chịu quả xấu do hành động hung ác nầy gây ra. Mong         cầu cha ta, mẹ ta, tên đao phủ, và ta, được hạnh phúc an         vui, không đau khổ, không bệnh tật, không gây oan trái.         Nhờ năng lực tâm Từ nầy, ngưỡng nguyện rằng ngày kia         ta sẽ thành Phật." Trong Vô Lượng Tiền Kiếp, một ngày kia, khi Đức Phật         còn là Bồ Tát, đang hành Nhẫn nhục Ba la mật trong ngự          uyển. Hôm ấy nhà vua say rượu. Muốn thử xem hạnh nhẫn         nhục của Ngài đến đâu, vua truyền lệnh cắt tay và chân         Ngài. Ngài vẫn điềm nhiên, lặng lẽ hành pháp nhẫn. Vua         lấy làm tức giận, dùng chân đá vào ngực Ngài . Ngài ngã         gục trên vũng máu, hoi hóp thở những hơi thở cuối cùng,         nhưng lòng vẫn bảo lòng: "Người như ta không bao giờ sân hận, thù oán." Một vị tỳ khưu xứng đáng phải có tâm Từ rộng rãi         bao la. Không đào đất cũng không bảo người đào, vì sợ          rủi ro làm chết côn trùng. Vị tỳ khưu chân chánh cũng không         uống nước chưa lọc. Lời dạy sau đây của Đức Phật         cho ta một ý niệm thế nào là một tâm Từ mà một vị          tỳ khưu nên có: "Nếu có bọn cướp hung tợn dùng cưa cưa con ra           từng mảnh và nếu con sanh tâm tức giận hoặc căm thù           kẻ cướp, chính lúc ấy con đã không thực hành lời           dạy của Như Lai." Quả thật rất khó chịu đựng và nhẫn nại đến mức          ấy. Nhưng đó là mức sống lý tưởng mà Đức Phật trông          đợi hàng đệ tử Ngài cố gắng thành đạt. Chính Đức         Phật đã nêu gương lành cao thượng. Ngài dạy: "Như đàn voi lâm trận không kể lằn tên mũi đạn,           ta phải can đảm chịu đựng những sự bất hạnh của đời.           Phần lớn nhân loại sống ngoài khuôn khổ giới luật. Ta           phải có thái độ của đàn voi lâm trận: mạnh tiến           giữa rừng gươm đao giáo mác, bình tĩnh hứng lấy những           nỗi chua cay của đời, và thản nhiên vững bước trên            đường phạm hạnh." Chúng ta đang sống trong một thế gian hỗn loạn, giữa         những tình thế căng thẳng và luôn luôn lo sợ hiểm họa         chiến tranh. Các quốc gia ngày nay ráo riết võ trang chống          đối lẫn nhau và nhân loại không ngớt phập phồng chờ đợi         một loại võ khí nguyên tử thình lình từ không trung rơi         xuống. Trong giờ phút nầy, thế gian ắt đang trông đợi một tâm          đại từ bi cứu khổ đễ mỗi người được sống an lành         trong cảnh thái bình và thuận hòa trong tình huynh đệ. Ta tự hỏi: "Trước sự hăm dọa của bom đạn, trên         thực tế có thế nào ta bình thản thực hành tâm Từ được         không?" Một người thường có thể làm gì để chống         lại đám mưa bom? Trong tay không có một món vũ khí, người         dân thường có thể làm gì để chặn đứng lằn tên mũi          đạn? Trước cái chết sắp đến, tâm Từ của Phật Giáo là         một khí giới ôn hòa và hữu hiệu để ngăn ngừa bom đạn. Nếu các quốc gia hiếu chiến khứng chịu đem tâm Từ          thay thế vũ khí để cai trị thế gian bằng công lý và tình         thương, thay vì bạo lực cường quyền, thì nhân loại ắt          được an cư lạc nghiệp và hạnh phúc lâu dài. Sau đây là một vài chỉ dẫn thực tế để thực hành tâm         Từ. Trước tiên, hành giả phải gieo trồng tâm Từ cho chính         mình. Muốn vậy, phải rãi khắp thân và tâm những tư tưởng         an vui hạnh phúc. Hành giả tưởng niệm: "Tâm tôi rất yên tĩnh, thân tôi rất an vui. Tôi không         bệnh họan, không phiền não, không lo âu, không sân hận. Tôi         thể hiện tâm Từ. Hào quang từ ái bao phủ chung quanh tôi,         dập tắt mọi tư tưởng ích kỹ, mọi xúc động thù         nghịch. Tôi không còn cảm xúc trước cơn xung nộ xấu xa         của kẻ khác. Tôi đáp lại cái xấu bằng cái tốt, sân         hận bằng tâm Từ." Hằng ngày rèn luyện tinh thần như thế, dần dần hành         giả trở nên vô cùng quãng đại, quên tất cả những điều         xấu xa của kẻ khác và giữ tâm hoàn toàn trong sạch, không         còn bợn nhơ sân hận, oán thù. Ánh sáng hạnh phúc tủa ra khắp thân châu, hành giả ban         rải hạnh phúc ấy đến người khác bằng những tư tưởng         an lành và bằng những hành động vị tha, thể hiện tâm         Từ, trong cuộc sống hằng ngày. Khi tâm được an vui và không bị những tư tưởng sân         hận làm chao động, hành giả sẽ dễ dàng rãi tâm Từ đến         cho kẻ khác. Ta không thể cho ai một vật mà chính ta không         có. Trước khi muốn làm cho người khác được an vui, chính         hành giả phải được an vui, phải biết làm thế nào cho mình          được an vui. Hành giả rãi tâm Từ đến thân bằng quyến         thuộc, riêng từng người, rồi đến toàn thể, và ước         mong mọi người đều lành xa phiền não, bệnh tật, lo âu,         sân hận. Hành giả cũng rãi tâm Từ đến bạn bè và những người         không quen biết và thành thật ước mong cho những người         nầy, như trước kia đã ước mong cho mình và thân bằng         quyến thuộc mình được an vui, hạnh phúc và lánh xa phiền         não, bệnh tật, lo âu, sân hận. Sau cùng, mặc dầu là khó, hành giả rãi tâm Từ đến         cho những người có ác ý với mình, nếu có. Rãi tâm Từ         đến những người coi mình là thù nghịch, lấy thái độ          ôn hòa đối lại những cử chỉ bất hòa là hành động         của bậc anh hùng quân tử, đáng được làm gương cho đời.          Đức Phật dạy: "Hãy giữ tâm luôn luôn trong sạch         giữa đám người đầy thù hận." Hành giả rãi tâm Từ đến tất cả chúng sanh, không phân         biệt chủng tộc, màu da, nam hay nữ, không trừ bỏ một loài         cầm thú nhỏ nhen câm điếc nào. Hành giả tự đồng hóa         với tất cả, tự mình chan hòa trong toàn thể, thấy vạn         vật và mình là một. Tâm không còn một điểm vị kỹ, hành         giả đã vượt lên mọi hình thức chia rẽ riêng tư. Không         bị giam hãm trong những tư tưởng hẹp hòi, không chịu          ảnh hưởng của tinh thần đấu tranh giai cấp, quốc gia,         chủng tộc, tôn giáo, hành giả nhìn tất cả mọi người là         bạn đồng hành trong đại trùng dương mà ta gọi là đời         sống của muôn loài vạn vật. 2. Tâm Bi (Karuna) Đức tánh thứ nhì giúp con người trở nên cao thượng là         tâm Bi. Bi là động lực làm cho tâm rung động trước sự đau         khổ của kẻ khác, là cái gì thoa dịu niềm khổ đau sầu         não của người. Đặc tánh của tâm Bi là ý muốn giúp người         khác thoát khỏi một cảnh khổ. Lòng người có tâm Bi thật là mềm dịu, hơn cả những         tai hoa. Ngày nào chưa cứu giúp được kẻ khác, tâm Bi không         hề thỏa mãn. Lắm khi, để làm êm dịu nỗi khổ đau của         kẻ khác, người có tâm Bi không ngần ngại hy sinh đến         cả mạng sống mình. Sự tích Túc Sanh Truyện Vyaghri Jakata         [1] đã nêu lên cho ta gương lành của một vị Bồ Tát hiế          thân để cứu một con cọp mẹ và bầy cọp con khỏi chết          đói. Chính do nhờ tâm Bi mà con người có thể hoàn toàn vị          tha trong khi phục vụ. Người có tâm Bi không sống riêng cho         mình, mà lúc nào cũng sống cho kẻ khác và luôn luôn tìm cơ          hội để giúp đời, nhưng không bao giờ mong được đền          ơn đáp nghĩa. Đối tượng của tâm Bi là gì? Những kẻ nghèo nàn đói rách, những người túng thiếu         cơ hàn, đau ốm, cô đơn, dốt nát, hư hèn, người có đời         sống bẩn thỉu buông lung, là hạng người cần đến tâm         Bi của những tấm lòng trắc ẩn cao thượng, không luận         nam nữ, không phân biệt chủng tộc, giai cấp hoặc tôn giáo. Phần đông người Á Châu và Phi Châu là dân tộc nghèo.          Ở Âu Châu, Úc Châu và Mỹ Châu, dân chúng sống tương đối         sung túc dễ dàng hơn. Có nhiều quốc gia giàu về vật         chất mà nghèo về tinh thần. Cũng có những dân tộc khác         nghèo về vật chất mà giàu về tinh thần. Chẳng luận tinh         thần hay vật chất, bổn phận cao cả của người giàu là         giúp đỡ kẻ nghèo. Biết bao nhiêu đàn ông, đàn bà, trẻ          em, đang sống trong cảnh cơ hàn, thiếu thốn đến cả          những vật dụng cần thiết. Nếu các địa phú gia đem         tiền của dư dả ra giúp đỡ cho hạng người nầy, công tác         từ thiện ấy không đến nổi làm tổn hao tài sản của         họ. Ngày kia, có chàng sinh viên trẻ tuổi về nhà xin phép         mẹ gỡ bức màn treo trên cửa để cho một người nghèo khó,          đói rách. Chàng nói rằng không có bức màn nầy, cái cửa         không đến nổi phải chịu lạnh, nhưng nếu thiếu quần áo         che thân, chắc chắn người nghèo kia phải khổ sở vì         lạnh. Lòng thương xót của chàng sinh viên nọ đáng làm         một gương tốt. Nhân loại lấy làm vinh hạnh ghi nhận rằng một vài         lục địa giàu có đã tổ hợp lại thành những cơ quan         từ thiện, tìm mọi cách giúp đỡ những dân tộc kém mở          mang. Trong hầu hết các quốc gia, nhiều tổ chức đủ          hạng - nam, nữ và sinh viên - đã hoạt động mạnh mẽ để          mang lại cho hạng người nghèo đói và túng thiếu những         sự giúp đỡ cần thiết. Các đoàn thể tôn giáo, trong         phạm vi khiêm tốn của mình, cũng tận dụng khả năng để          làm tròn phận. Các quốc gia kém mở mang đang cần trại dưỡng         lão, cô nhi viện và những tổ chức từ thiện tương tợ.          Ở Á Châu, nạn ăn xin vẫn còn là một vấn đề nan giải.         Trong nhiều quốc gia ở vùng nầy, ăn xin đã trở thành         nghề sinh sống. Đó là một sĩ nhục cho quốc thể, nên chánh         phủ nào cũng cần phải lưu tâm giải quyết. Người giàu tiền của có bổn phận giúp đỡ kẻ nghèo         về vật chất. Người giàu tinh thần đạo đức có bổn         phận giúp đỡ kẻ nghèo tinh thần, mặc dầu người ấy có         thể là một đại phú gia. Tiền rừng bạc bể một mình,         không đem lại hạnh phúc hoàn toàn. Kho tàng của báu không         tạo an vui tinh thần. Tâm trạng an lạc thanh bình chỉ do kho         tàng đạo đức tạo nên. Hạng người phóng đãng tội lỗi càng đáng được các         bậc đạo đức cao thượng xót thương hơn, vì họ là         những người bệnh hoạn về tinh thần. Không nên khinh rẽ          hoặc bài xích hạng người yếu đuối ấy vì họ đã lầm          đường lạc nẻo, trái lại, nên thương xót và dìu dắt         họ trở lại đường phải. Cha mẹ thương đồng đều các         con, nhưng đặc biệt chăm nom săn sóc những đứa ốm yếu         hoặc kém sút. Cũng dường thế ấy, tâm Bi của ta phải bao         trùm tất cả chúng sanh đau khổ. Nhưng riêng đối với         hạng người bệnh hoạn tinh thần, suy kém đạo đức, ta nên         có lòng thương xót đặc biệt và hết lòng giúp đỡ, dẫn         dắt họ trở lại đường lành. Như Đức Phật xưa kia, hết lòng thương hại và cứu độ          Ambapali người, phụ nữ lạc bước giang hồ, và tận tâm         tế độ Angulimala, tên sát nhân tàn ác, toan ám hại Ngài.         Về sau cả hai đều theo Ngài và hoàn toàn đổi tánh. Bên trong mỗi người, dầu là người xấu xa thế nào, đều         có tiềm tàng những đức tánh tốt đẹp. Đôi khi chỉ          một lời nói phải, đúng lúc, cũng có thể đổi hẳn con         người từ dữ ra lành. Như vua Asoka trước kia, tàn bạo đến          đổi người thời bấy giờ gọi là "Asoka con người         tội lỗi", thế mà khi nghe được lời nói phải của         một thầy sa di trẻ tuổi, Ngài đổi hẳn tánh tình, mạnh         tiến trên đường tự giác, và trở nên "Asoka con người         hiền đức", một đấng minh quân. Đức Phật khuyên nên xa lánh hạng người cuồng si. Như          vậy không cói nghĩa là ta không thể đến gần để cảm hóa         cùng khuyến thiện họ. Có những bệnh nhân mắc phải         chứng bệnh truyền nhiễm ngặt nghèo. Mọi người đều         sợ và lánh xa. Nhưng cũng có nhiều vị lương y hết lòng         thương hại, đến gần săn sóc và chữa trị cho họ khỏi         bệnh. Nếu không có các vị lương y giàu tâm Bi kia, bệnh         nhân ắt phải bỏ mạng. Cùng một thế ấy, hạng người         xấu xa bệnh hoạn về tinh thần ắt phải bị chìm đắm mãi         trong đêm tối của tội lỗi nếu không ai có lòng quãng đại         thương xót và ra tay tế độ. Thế thường, Đức Phật tìm          đến những hạng xấu xa hư hèn để cảm hóa, nhưng chính         bậc đạo đức trong sạch thì lại tìm đến Ngài. Tâm Bi vô lượng, vô biên, vô hạn định. Tâm Bi phải          được rãi đến cho tất cả, không trừ bỏ một loài cầm         thú câm điếc nào, cũng không loại trừ những chúng sanh còn         trong trứng. Tâm Bi không nhìn nhận thế lực và oai quyền của hạng         người được xã hội coi là trên trước chỉ vì những người         nầy sanh trưởng trong một giai cấp hoặc một chủng tộc nào.         Giết, hoặc sai bảo người khác giết những con thú vô         tội để bày tiệc linh đình, ăn uống hả hê, cũng là hành          động trái ngược với tâm Bi. Dùng bom đạn để tiêu         diệt hằng triệu sanh linh là hình thức xấu xa nhất của         sự tàn bạo mà nhân loại có thể làm. Thế gian ngày nay         sống trong tình trạng căm thù, sân hận, đã đem vật sở          hữu quý báu nhất là mạng sống, đặt trước bàn thờ để          tế thần bạo lực. Muốn cứu vãn tình thế, toàn thể nhân         loại ngày nay cần phải thực hiện tâm Bi để tiêu trừ          những hành động độc ác và tàn bạo. Cũng nên nhận định rằng tâm Bi của Phật Giáo không         phải là những giọt nước mắt nhỏ suông gọi là thương         xót. Kẻ thù gián tiếp của tâm Bi là âu sầu, phiền muộn         (domanassa). Tâm Bi bao trùm những chúng sanh đau khổ. Tâm Bi bao trùm         tất cả chúng sanh, kể cả đau khổ và an vui. 3. Tâm Hỷ (Mudita) Đức tánh cao thượng thứ ba trong Tứ Vô Lượng Tâm là         Hỷ, vui (Mudita). Mudita, Hỷ, không phải là trạng thái thỏa thích suông, cũng         không phải cảm tình riêng đối với người nào. Hỷ          (Mudita) là tâm vui thích trước hạnh phúc của người khác,         trước sự thành công của một chúng sanh. Ganh tỵ là kẻ          thù trực tiếp của tâm Hỷ. Hỷ là niềm vui làm tiêu tan lòng         ganh tỵ. Ganh tỵ có sức phá hoại vô cùng nguy hiểm. Có nhiều người         lấy làm khó chịu bực tức khi thấy hoặc nghe nói người         khác thành tựu mỹ mãn một công trình. Thấy người thất         bại thì vui mừng, mà không thể chịu đựng sự thành công         của kẻ khác, và cố gắng phá hoại hoặc bóp méo sự          thật để chê bai, thay vì vui lên để tán dương thắng         lợi của người. Đứng về một phương diện, chính người có tâm Hỷ          trực tiếp hưởng nhiều lợi ích do tâm ấy đem lại, hơn         là người khác, vì tâm Hỷ không chấp chứa lòng ganh tỵ.          Về một phương diện khác, người có tâm Hỷ không bao         giờ làm trở ngại tiến bộ và phá rối tình trạng an         lạc của ai. Cũng như tâm Từ, tâm Hỷ đối với thân bằng quyến         thuộc phát hiện rất dễ dàng nhưng khó mà bộc lộ trước         những người thù nghịch. Thật vậy, con người bình thường         không bao giờ có thể biểu lộ sự hoan hỷ vui mừng trước         cái vui của người thù nghịch. Lòng ganh tỵ lại còn thúc          đẩy con người làm những điều vô cùng độc ác. Socrates,         một nhà hiền triết Hy Lạp, bị bắt buộc phải quyên sinh         bằng thuốc độc. Chúa Christ (Ki Tô) bị đóng đinh trên thánh         giá. Thánh Gandhi(Cam Địa) bị ám sát. Đức Phật bị lăn          đá gây thương tích. Đó là bẩm tánh tội lỗi của thế gian, đang miệt mài         say đắm trong ảo mộng. Nếu so sánh với tâm Từ và tâm Bi, tâm Hỷ lại càng khó         thực hiện. Muốn phát triển tâm Hỷ phải có ý chí mạnh         mẽ và phải tận lực cố gắng. Người phương Đông có thành thật thỏa thích với sự          thịnh vượng của người phương Tây không? Người phương         Tây có thành thật thỏa thích với sự thịnh vượng của         người phương Đông không? Quốc gia nầy có vui mừng thấy         một quốc gia khác sung túc an lạc không? Chủng tộc nầy có         hoan hỷ ghi nhận rằng một chủng tộc khác đang vươn mình         trưởng thành trong cảnh an cư lạc nghiệp không? Mặc dầu         mục đích của các tôn giáo là trau giồi tinh thần đạo đức,         giáo phài nầy có vui mà thấy ảnh hưởng tinh thần của         một giáo phái khác bành trướng mạnh mẽ không? Tôn giáo nầy ganh tỵ với tôn giáo khác. Phần bên nầy         quả địa cầu ganh tỵ với phần bên kia. Tổ chức nầy         ganh tỵ với tổ chức kia. Hảng buôn nầy ganh tỵ với         hảng buôn khác. Gia đình nầy ganh tỵ với gia đình khác.         Học trò ganh tỵ với học trò, chí đến anh chị em trong         một nhà có khi cũng ganh tỵ lẫn nhau. Người Phật tử nên         thực hành tâm Hỷ trong đời sống cá nhân cũng như trong         cuộc sống tập thể, để tạo an vui hạnh phúc và vươn mình         tiến lên trong nếp sống thanh cao trong sạch. Đặc tánh của tâm Hỷ là hoan hỷ với người thành công,         người lộc cao phúc hậu (anumodana). Vui cười không phải là          đặc tánh của tâm Hỷ và ra vẻ hân hoan, giả làm ra         tuồng thỏa thích, được coi là kẻ thù gián tiếp của tâm         Hỷ. Tâm Hỷ bao trùm những chúng sanh hữu phúc. Tâm Hỷ là         phẩm hạnh thành thật chia vui, chung cùng hoan hỷ với lòng         ngợi khen và loại trừ mọi hình thức bất mãn (arati), trước         sự thành công của kẻ khác. 4. Tâm Xả (Upekkha) Upekkha (Xả) là đức tánh thứ tư trong Tứ Vô Lượng Tâm,         khó thực hành nhất, mà cũng cần thiết nhất trong bốn         phẩm hạnh cao thượng nầy. Phạn ngữ "Upekkha" do hai căn "upa" và         "ikkha" hợp thành. Upa là đúng đắn, chân chánh, vô         tư. Ikkha là trông thấy đúng đắn, nhận định chân chánh,         hoặc suy luận vô tư, tức không luyến ái cũng không ghét         bỏ, không ưa thích cũng không bất mãn. Không tham cũng không         sân. Upekkha (Xả) không có nghĩa là lạnh lùng, lãnh đạm, không         màng đến thế sự, cũng không phải là cảm giác vô ký, không         vui thích không phiền muộn. Khinh rẽ, phỉ báng, nguyền rủa là thường tình. Hạng         người trong sạch đạo đức thường bị chỉ trích và         khiển trách. Giữa cơn giông tố của trường đời, người         trau giồi tâm Xả cao thượng luôn luôn giữ tâm bình thản. Được và thua, thành và bại, ca tụng và khiển trách,         hạnh phúc và đau khổ là những việc thường xảy ra trong          đời, làm con người chao động. Được ca tụng thì vui thích,bị          khiển trách thì buồn rầu. Đó là lẽ thường. Nhưng giữa         cuộc thăng trầm của thế sự, Đức Phật dạy luôn luôn         thản nhiên, hành tâm Xả vững chắc như tảng đá to sừng         sững giữa trời. Túc Sanh Truyện (Jataka) có lời khuyên: "Trong hạnh phúc, trong đau khổ, lúc thăng, lúc           trầm, ta phải giữ tâm như đất. Cho những ai còn luân chuyển trong Tam giới (Dục Giới,         Sắc Giới và Vô Sắc Giới), đời sống của Đức Phật là         một gương sáng về tâm Xả. Chưa từng có một vị giáo         chủ hoặc một nhân vật nào bị chỉ trích nghiêm khắc,         bị đả kích, sỉ nhục, hoặc bị lăng mạ nhiều như Đức         Phật. Tuy nhiên Đức Phật cũng được tán dương, tôn kính         và sùng bái nhất. Ngày kia, trong khi Đức Phật đi trì bình khất thực, có         một đạo sĩ Bà La Môn ngạo mạn kêu Ngài là cùng đinh và          đối xử hết sức vô lễ. Đức Phật thản nhiên chịu đựng         và ôn hòa giải thích cho đạo sĩ thế nào là cùng đinh và         vì sao chẳng nên khinh rẽ hạng người nầy [2]. Vị đạo sĩ          lấy làm khâm phục. Một lần khác có người thỉnh Đức Phật đến nhà trai         tăng. Khi Đức Phật đến, chủ nhà lại dùng lời vô lễ,          đối xử với Ngài một cách thậm tệ. Nhưng Đức Phật không         tức giận, ôn hòa hỏi chủ nhà: - Nếu biết có khách đến         nhà thì ông làm sao? - Tôi sẽ chuẩn bị, dọn một bữa cơm để khoản đãi         khách. - Tốt lắm, Đức Phật nói, nhưng rồi nếu khách không          đến thì sao? -Thì tôi sẽ cùng vợ với con chia nhau bữa cơm. - Tốt lắm, nầy ông, hôm nay ông mời Như Lai đến nhà          để đãi ăn. Ông đã dọn lên cho Như Lai những lời thô         lỗ cộc cằn. Như Lai không nhận. Vậy xin ông hãy giữ          lấy. Những lời nói nầy đã làm đổi hẳn thái độ của         chủ nhà. "Không nên trả thù. Khi bị nguyền rủa, mắng chửi,         phải biết làm câm như cái mỏ bể. Được như vậy tức          đã đứng trước ngưỡng cửa Niết Bàn, mặc dầu trong         thực tế chưa đắc quả Niết Bàn." Đó là những lời vàng ngọc mà Đức Phật khuyên nên         ghi nhớ hằng ngày trong kiếp sống vô thường biến đổi         nầy. Trong xứ nọ, có lần có một mệnh phụ phu nhân xúi         giục một người say rượu đến nhục mạ Đức Phật         thậm tệ đến đổi Đại Đức Ananda không thể chịu được,         kính bạch Đức Phật nên sang xứ khác. Nhưng Ngài không đi         cũng không hề xúc động. Một người đàn bà giả có mang để vu oan Đức Phật         giữa công chúng. Một thiếu phụ khác nữa bị giết để          vu cáo Đức Phật phạm tôi sát nhân. Một người bà con         vừa là đệ tử của Đức Phật cũng manh tâm lăn đá từ          trên đồi cao, quyết sát hại Ngài. Chí đến hàng đệ tử          của Ngài cũng có người chỉ trích Ngài là thiên vị, bất         công. Đàng khác, bao nhiêu người đã tán dương công đức và         ca tụng Đức Phật. Bao nhiêu vua chúa đã kính cẩn khấu đầu         lễ bái dưới chân Ngài . Như đất, Đức Phật nhận lãnh tất cả với tâm Xả hoàn         toàn. "Vững như voi, mạnh như hổ, ta không nên run sợ trước           tiếng động. Miệng lằn lưỡi mối không làm cho ta xúc            động. Như gió thổi ngang màn lưới mà không bị vướng           trong lưới, tuy sống giữa chợ người, ta không nên say mê           luyến ái những lạc thú huyền ảo và vô thường của           kiếp nhân sinh. Như hoa sen, từ bùn nhơ nước đục, vượt           lên bao nhiêu quyến rũ của thế gian, ta phải sống trong           sạch, luôn luôn tinh khiết, an lạc và thanh bình." Người thù trực tiếp của tâm Xả là luyến ái (raga) và         kẻ thù gián tiếp của tâm Xả là sự lãnh đạm, thái độ          lạnh lùng, xây lưng với thế sự. Upekkha (tâm Xả) lánh xa tham ái và bất mãn. Thái độ vô         tư, thản nhiên, an tỉnh là đặc tánh chánh yếu của tâm         Xả. Người có tâm Xả không bị lạc thú trần gian quyến         rũ, không thích thú say mê trong hạnh phúc, cũng không bị          những gì nghịch ý làm bực tức buồn phiền, bất mãn         trong khổ đau. Người có tâm Xả không thấy sự khác biệt         giữa người tội lỗi và bậc thánh nhân, và đối xử đồng          đều với tất cả. -oOo- Tâm Từ bao trùm tất cả chúng sanh; tâm Bi những chúng         sanh đau khổ; tâm Hỷ, những chúng sanh hạnh phúc; tâm Xả          phủ khắp những gì tốt đẹp và những gì xấu xa, những          điều khả ái và những điều khả ố, những thích thú và         những nghịch lòng. Những ai có nguyện vọng trở thành bậc thánh nhân trong         chính kiếp sống nầy, có thể hằng ngày trau giồi và phát         triển bốn đức hạnh cao thượng trên, vốn tiềm tàng         ngủ ngầm bên trong mọi người . Những ai có nguyện vọng trở nên toàn thiện và bi mẫn         gia công tạo an lành cho tất cả, trong khoảng thời gian còn         triền miên sanh tử theo vòng luân hồi, có thể kiên trì         cố gắng, phát triển mười ba pháp Ba La Mật (Parami), và         cuối cùng, thành tựu Đạo và Quả Chánh Đẳng Chánh Giác         (Samma Sambuddha), Chánh Biến Tri. Những ai có nguyện vọng tận diệt mọi khát vọng của         mình và chấm dứt đau khổ bằng cách chứng ngộ Niết Bàn         nhân cơ hội sớm nhất, có thể chuyên cần noi theo Con Đường         Duy Nhất - Bát Chánh Đạo - mà đến nay vẫn còn được         giữ nguyên vẹn tánh cách tinh túy nguyên thủy. Đức Phật dạy: "Nầy chư Tỳ Khưu, thì dụ như toàn thể vùng đất         mênh mông nầy trở thành nước, và người kia bỏ xuống nước         một cái ách xe bò, trên ách có một lỗ. Rồi có một cơn         gió thổi, đẩy trôi cái ách từ Đông sang Tây, một cơn gió         khác thổi cái ách từ Tây sang Đông, rồi một cơn gió         nữa đẩy cái ách từ Bắc xuống Nam, và một cơn gió khác         từ Nam lên Bắc. Và cứ như thế, cái ách triền miên trôi         dạt trên mặt nước. Trong khi ấy có một con rùa mù, mỗi         năm nổi lên mặt nước một lần. Như vậy, có thể nào         con rùa mù, sau một trăm năm, trồi lên mặt nước và thọc          đầu ngay vào cái lỗ duy nhất của cái ách được không? - Bạch Hóa Đức Thế Tôn, quả thật con rùa mù khó làm         như vậy. - Nầy chư Tỳ Khưu, cùng một thế ấy, được sanh vào         cảnh người cũng khó vậy. Cùng thế ấy, khi có một đấng         Như Lai thị hiện trên thế gian. Cùng thế ấy, Giáo Pháp         (Dhamma) và Giới Luật (Vinaya) mà một đấng Như Lai tuyên         bố, được truyền bá trong thế gian quả thật vô cùng hy         hữu. Nhưng nay, nầy chư Tỳ Khưu, quả thật vậy, trạng thái         làm người đã được thành đạt, một đấng Như Lai đã         thị hiện trên thế gian, Giáo Pháp và Giới Luật mà Đức         Như Lai tuyến bố đã được truyền bá trong thế gian. Vậy, nầy chư Tỳ Khưu, các con phải kiên trì tinh tấn          để chứng ngộ: Đây là đau khổ, đây là nguyên nhân sanh          đau khổ, đây là sự chấm dứt đau khổ, đây là con đường         dẫn đến sự chấm dứt đau khổ." [3] Chú thích: [1] Xem Chương 42 [2] Xem Phụ Bản 3. [3] Kindred Sayings, trang 334
và tôi nói. "Anh tôi quả thật thô lỗ!"
Nhìn anh tôi qua kính viễn vọng của sự Khinh Bỉ
và tôi nói. "Anh tôi quả thật bé nhỏ thấp hèn"
Rồi tôi nhìn vào "Tấm Gương Chân Lý"
Và tôi nói, "Anh tôi thật giống hệt như tôi."
"Cũng như trên đất ta có thể vất bất luận vật gì,           dầu chua, dầu ngọt, dầu sạch, dầu dơ, đất vẫn thản           nhiên, một mực trơ trơ. Đất không giận cũng không thương."
