Bài Viết (701)


Dòng Truyền Thừa Sakya - VNF

1,129

Những giáo huấn của các dòng Kadampa, Kagyu Sakya (thế kỷ 11) và Gelug (thế kỷ 14)  đều được xem như là thuộc Tân Phái Dịch Thuật (New Translation School) trong khi những giáo huấn của dòng Nyingma (thế kỷ 8-9) thuộc về Cựu Phái Dịch Thuật (Old Translation School). 

Quý Tộc Họ Khon và Khon Lui Wangpo Sunga
Từ thế kỷ tứ 8 đến nay, dòng họ Khon nổi danh là  dòng dõi quý tộc ở miền Nam xứ Tây Tạng.  Trong gia tộc họ Khon,  Khon Lui Wangpo Sunga là một trong bảy người Tây Tạng đầu tiên đã  đuợc thọ giới tỳ kheo dưới triều đại của vua Trisong Detsen và đã tu tập miên mật dưới sự hướng dẫn của đại đạo sư Liên Hoa Sanh. Cả dòng họ Khon đều là những đại thí chủ và hành giả theo truyền thống Nyingma tại vùng Tsang.

Đến thế kỷ thứ 11, truyền thống Nyingma tại vùng Tsang gặp nhiều biến thoái. Vị trưởng gia tộc họ Khon lúc bấy giờ, Khon Konchog Gyalpo, đã quyết định đi tầm thầy học đạo và đã có duyên hội ngộ với các vị Drogmi, Bari Mal.

Drogmi và Những Giáo Huấn Của Đại Thành Tựu Giả Virupa
Ngài Drogmi là một một dịch giả và hành giả danh tiếng đã  tu học  suốt mười tám năm tại Ấn Độ với đại học giả Shantipa tại đại học viện Vikramashila.  Một trong những giáo huấn quan trọng nhất mà ngài Drogmi đã thọ nhận và đã truyền lại cho vị trưởng tộc Khon Konchong Gyalpo chính là các giáo huấn của Mật Điển Hô Kim Cương (Hevajra Tantra) và giáo huấn Lamdré - Đạo và Quả. 

Trải qua nhiều thế hệ truyền thừa, ngài Shantipa đã thọ nhận những giáo huấn về Hô Kim Cương và Lamdré  từ đại thành tựu giả Virupa, là một trong 84 vị đại thành tựu giả du già lừng danh nhất xứ Ấn.  Ngài Virupa đã sống gần suốt cuộc đời mình ở tại  đại học viện Nalanda, ban ngày giảng dạy về hiển giáo và các giáo huấn của truyền thống Nguyên ThuỷĐại Thừa, nhưng ban đêm ngài bỏ giấc ngủ hằng đêm để tu tập theo các pháp tu của Mật Thừa, nhất là trì tụng mật chú của vị Hộ Phật Vajravarahi (Tib. Dorje Phagmo). Đến năm ngài 71 tuổi thì Virupa mới đạt được những  chứng đắc viên mãn; ngài lang thang khắp nơi như một hành giả du già và bắt đầu giảng dạy về các giáo huấn của Hô Kim Cương và Lamdré. 

Giáo Huấn Lamdré - Đạo và Quả
Lam có nghĩa là con đường  dré có nghĩa là kết quả.  Lamdré, theo nghĩa đó có nghĩa là Đạo và Quả.  Con đường ở đây bao gồm tất cả những pháp tu mà hành giả cần miên mật hành trì để đưa hành giả đến giác ngộ, và quả ở đây chính là Phật quả, là trạng thái chứng đắc vô ngã, đạt đến giác ngộ tối thượng.

Lamdré  dựa trên hệ giảng của  Hô Kim Cương Chánh Văn Mật Điển (Hevajra Root Tantra) và được chia ra làm hai phần:

(1) Phần thứ nhất bao gồm ba giáo huấn về tri kiến (Three Visions) và các giáo huấn thông thường thuộc về hiển giáo dành cho tất cả đại chúng, gồm có các khế kinh, các giáo huấn về Vi Diệu Pháp (Abhidharma), về giới luật, cùng với các giáo lý của Đại Thừa.

1) Phần thứ hai bao gồm ba giáo huấn thuộc về mật giáo, gồm có các pháp tu thuộc Nhân Mật Điển (Casual Tantra), Đạo Mật Điển (Path Tantra) và Quả Mật Điển (Result or Fruition Tantra).  Quả ở đây chính là trạng thái chứng đắc Đại Thủ  Ấn (Mahamudra) tối thượng; khi ấy, kiến của hành giả trở nên kiến thuần tịnh, hành giả nhìn thấy tất cả chúng sinh đều là Phật, và Sinh Tử và Niết Bàn hoàn toàn không khác biệt.

Tổ Khon Konchog Gyalpo và tu viện Sakya đầu tiên
Hết lòng tin tưởng và tu tập theo giáo huấn truyền thừa từ Virupa và Drogmi Lotsawa,  vị tộc trưởng Khon Konchog Gyalpo đã cho xây dựng tu viện đầu tiên của dòng Sakya vào năm 1073 tại một vùng đất ở Tsang.  Người ta gọi vùng đất ấy là  Sakya, có nghĩa là "đất màu xám."    Do đó mà dòng truyền thừa Sakya mới mang danh hiệu là dòng truyền thừa ở vùng đất xám hay dòng "Lam Thổ"-- cái tên "Lam Thổ" ấy  đã gắn liền với những nổi trôi trong quá trình lịch sử của dòng Sakya qua suốt bao thế kỷ cho đến ngày hôm nay.

Ngoài ra, dòng Sakya còn có thêm ba chi phái nữa là các chi phái Ngor, Tsar  và Dzongpa do các vị đạo sư Ngorchen Kunga Zangpo (1382-1457), Tsarchen Losel Gyatso (1502-1556), và  Dzongpa Kuna Namgyal (1432-1496) khai lập.

Năm Vị Đại Trưởng Lão Sakyapa
Trong lịch sử dòng truyền thừa Sakya, có tất cả năm vị đại trưởng lão Sakyapa là những vị đạo sư đã đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong công cuộc hoằng dương Phật Pháp, bảo tồn và phát triển những giáo huấn quý báu mà ngài Virupa và Sơ Tổ Drogmi đã truyền giảng.  Năm vị đại trưởn lão Sakyapa đó là:

Ï Sachen Kunga Nyingpo (1092-1158)
Trưởng lão Sachen Kunga Nyingpo là con trai của ngài Khon Konchog Gyalpo. Qua rất nhiều nỗ lực của ngài mà hằng trăm pho kinh thuộc về hiển giáo và mật giáo đã được chuyển dịch qua Tạng ngữ, kể cả những tài liệu thuyết giảng khẩu truyền cũng đã được sưu tập và ghi chép lại, dùng làm tài liệu tu tập của dòng Sakya sau này.Một lần nọ, ngài Sachen Kunga Nyingpo cũng đã có linh kiến của đức Văn Thù Sư Lợi và đã trực tiếp thọ giáo với ngài về giáo huấn có tên là "Xa Lià Bốn Tham Ái" (Parting from Four Attachments).

Ï Lobpon Sonam Tsemo (1142-1182)
Trưởng lão Lobpon Sonam Tsemo là đệ tử của ngài Chapa Chökyi Sengé (1109-1169). Ngài Chapa Chokyi Sengé tu tập theo phái Svatantrika là một tiểu phái dựa trên các triết lý về Trung Quán Luận (Madhyamika) của ngài Long Thọ (Nargajuna).  Ngài và đã trước tác một luận giải rất nổi tiếng về Hành Bồ Đề Tâm Luận (Bodhiaryavatara).

Ï Jetsun Dakpa Gyaltsen (1174-1216)
Trưởng lão Jetsun Dakpa Gyaltsen là con trai của ngài Sachen Kunga Nyingpo và là em trai của Lobpon Sonam Tsemo.  Ngài là người đã trước tác một tài liệu luận giảng rất nổi tiếng về giáo huấn "Xa Lià Bốn Tham Ái" mà cha của ngài, ngài Sachen Kunga Nyingpo, đã được đức Văn Thù truyền dạy trong một linh kiến trong khi tham thiền.

Ï Sakya Pandita (1182-1251)
Trưởng lão Sakya Pandita là cháu trai của ngài Jetsun Dakpa Gyaltsen, chú của ngài Chogyal Phakpa, và là một trong những vị đại học giả lỗi lạc nhất trong lịch sử Tây Tạng.  Người Tây Tạng tin rằng, đức Văn Thù đã ứng thân trong ba vị đạo sư và học giả lỗi lạc của Tây Tạng, gồm có các ngài Longchen Rabjam, Sakya Pandita va Tsongkhapa. Danh tiếng và tài năng của ngài Sakya Pandita vang lừng khắp nơi, qua đến  tận Trung HoaMông Cổ. Vào năm 1249, ngài được triều đình Mông Cổ tấn phong làm Tổng Trấn (viceroy) xứ Tây Tạng.

Ï Chogyal Phakpa (1235-1280)
Trưởng lão Chogyal Phakpa là cháu trai của ngài Sakya Pandita. Vào thời đại của ngài, dòng truyền thừa Sakya nắm giữ quyền bính tại Tây Tạng và ngài Phakpa cũng được Mông Cổ phong làm Tổng Trấn. Đây là thời đại huy hoàng nhất của Sakya và Phật Giáo Tây Tạng đã được truyền bá qua Trung Hoa Mông Cổ.
 
Dòng Sakya
Lịch Sử Tóm Lược

 
  Khoảng Thể Kỷ 8-10
 Đại Thành Tựu Giả Virupa
tại Ấn Độ

  993-1077
  Sơ Tổ Drogmi
 
  1034-1102
  Konchog Gyalpo tức  Sakya Trizin đời thứ Nhất

 1073
  Tổ đình của dòng Sakya được Konchog Gyalpo thiết lập tại vùng Tsang

  1092-1158
  Đạo sư Kunga Nyingpo
truyển dạy giáo huấn Lamdre

1182-1251
 Đại Đạo Sư Sakya Pandita

  1260
  Tây Tạng buộc phải thuần phục Thành Cát
Tư Hãn

  1235-1280

Đại đạo Sư Phakpa
   
 1249
  Sakya Pandita được triều đình Mông Cổ tấn phong làm Tổng Trấn xứ Tây Tạng

  1253
  Phakpa được Hốt Tất Liệt tấn phong Tổng Trấn

1354
  Tranh chấp giữa phái Sakya và phái Kagyu; phái Kagyu và Phagmodrupa lên nắm
quyền bính

1358
  Đại sư Changchub Gyaltsen (Kagyu) nắm quyền

 

Tài Liệu Tham Khảo


Reginald Ray, Indestructible Truth: The Living Spirituality of Tibetan Buddhism (2000)
Reginald Ray, Secret of the Vajra World: The Tantric Buddhism of Tibet (2001)
  Trang nhà:
www.hhthesakyatrizin.org
www.nalandabodhi.org
www.sakya.net/html/sakya-lineage.html
www.simhas.org/sakya.html
www.tibet.com/Buddhism/sakya.html

Theo: VNF

1,129

THIỀN - ERICA BREALYE

Ăn khi đói, ngủ khi mệt Thiền là như thế, nhưng việc thực hiện những hành động đơn giản diễn ra hàng ngày này một cách thích hợp và toàn tâm toàn

490
Học tập ba Pháp Tu của kinh Viên Giác

HỌC TẬP BA PHÁP TU CỦA KINH VIÊN GIÁC   Kinh nói tất cả chúng ta đang ở trong pháp tánh, hay tánh Không, Chân Như, tánh Giác… dù chúng ta có biết

11,316
ẤN QUANG ĐẠI SƯ - TỔ THỨ 13 - TÔNG TỊNH ĐỘ

Chân tông tịch diệt duy tâm sẵn đủ, nhưng diệu đạo viên thông không có người sẽ chẳng thể hoằng truyền được. Hưng khởi phạm sát, mở mang Phổ Môn, bủa mây

695
Vấn Đáp Cơ Bản về Sự Buông Bỏ, Bất Bạo Động và Lòng Bi Mẫn

Alexander Berzin, Singapore 10 tháng Tám, 1988Trích đoạn đã được duyệt lại từBerzin, Alexander and Chodron, Thubten.Glimpse of Reality.Singapore: Amitabha Buddhist Centre, 1999.Hỏi: Sự buông bỏ (detachment) có nghĩa là gì?Đáp: Chữ

1,224
Quan điểm vô vi của Lão Tử và vô vi của đạo Phật - Tác giả: Thích Pháp Như

Hơn bao giờ hết xã hội càng văn minh thì con người càng đánh mất chính mình. Sự tranh giành về quyền lợi, vật chất đã làm cho con người ngày càng

18,792
Top Bài Viết
Quan Hệ Thầy Trò
Niệm Tự Bạch

QUAN HỆ THẦY TRÒ Theo Tinh thần Kinh Kế thừa Chánh pháp Thầy, vầng mây bậc, thong dong, núi cao biển rộng Con, cánh nhạn chiều, chân trời sải cánh, dõi theo Thầy,

33,232
Giữ giới là lựa chọn tự do
Phật học Ứng Dụng

Giữ giới là lựa chọn tự do  Giới luật của Phật giáo có nghĩa là: “Anh đừng tự làm thương tổn mình, anh đừng tự làm hại mình”. 1. Tự do của lệ thuộc

32,669
Đạo Phật là gì?
Niệm Tự Bạch

Đạo Phật là gì Lama Zopa and Lama Yeshe Khi bạn tìm hiểu về đạo Phật tức là bạn đang tìm hiểu về con người thật của mình, về bản chất của tâm trí

32,568
Vô minh bẩm sinh & Vô minh văn hóa
Tìm Hiểu & Học và Hành

Vô minh bẩm sinh & Vô minh văn hóa(VHPG) Mọi kinh nghiệm của chúng ta, kể cả giấc mộng, khởi lên từ vô minh. Đây là một tuyên bố làm hoảng hốt

32,339
Chùa Việt
Sách Đọc