Thành kính      đảnh lễ đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri             Quyển Thứ                              Mười Ba                                                               NÓI RÕ PHẦN THỨ HAI CỦA CHÍN MƯƠI HAI PHÁP ÐƠN ÐỀ Khi Phật an trú                              tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ trong                              thành có một dâm nữ nhà rất giàu có, của cải thật                              nhiều, châu báu đủ loại, kho tàng đầy ắp, giữ gìn                              kiên cố, [331a] kẻ trộm rình mò, không làm gì được.                              Lúc ấy, tên chúa đảng cướp nghĩ được kế hay, bèn sai                              sứ giả đến nói với dâm nữ: "Bọn chúng tôi muốn đến                              trên hồ kia, mời thêm nhiều cô gái làng chơi nữa,                              bày ra các thức ẩm thực, rồi tha hồ hưởng lạc. Vậy                              cô nên trang sức thật đẹp, rồi đến hồ ấy chớ để lượm                              thượm mà bọn họ chê cười".                              Tâm lý của phụ nữ                              là ưa ganh tỵ, háo thắng, nên cô ta khoác các loại                              danh y thượng hạng, trang sức trên thân đủ các thứ                              chuỗi ngọc anh lạc, ánh sáng của chúng chiếu ra chói                              mắt rồi đi tới chỗ mà họ đã mời. Lúc ấy, tên tướng                              cướp bèn khéo léo dụ dỗ đưa cô ta đến một nơi vắng                              vẻ, kín đáo, rậm rạp. Dâm nữ liền hỏi: "Trước đây                              nghe nói có mời các phụ nữ khác, giờ đây họ ở đâu?"                              Tên tướng cướp                              đáp: "Lát nữa họ sẽ đến, ta hãy cùng nhau hoan lạc                              đã".                              Lúc ấy, dâm nữ                              bèn suy nghĩ: "Giờ đây, xem người này chắc là tướng                              cướp chứ không gì khác. Vì sao mà biết? Vì nơi này                              không phải là chỗ hẹn trước. Vả lại, các phụ nữ kia                              chắc chắn là không đến, mà mặt trời đã về chiều".                              Thế rồi, dâm nữ nói: "Tôi muốn trở về nhà".                              Tên tướng cướp                              nói: "Hãy cùng nhau vui chơi đã, có gì đâu mà gấp                              gáp thế!"                              Khi ấy dâm nữ suy                              nghĩ: "Thế này là hắn định ăn cướp rồi, chắc ta bị                              hắn làm khốn đốn mất. Ta có 64 diệu thuật giờ chính                              là lúc phải áp dụng, nếu không áp dụng thì làm sao                              thoát nạn!". Thế rồi, cô ta giả vờ hiện ra vẻ ủy mị                              yêu thương, cùng chén tạc chén thù với tên tướng                              cướp, mình uống cầm chừng, mời hắn cạn chén, bên                              ngoài ra vẻ ân cần thân thiết trìu mến, nhưng trong                              lòng giữ một khoảng cách, khiến cho tâm hồn của tên                              cướp say đắm khoái lạc, không nghi ngờ gì nữa.                              Lúc ấy, tên tướng                              cướp một mình dìu dâm nữ tới một chỗ kín đáo thì hơi                              men phát tác, say túy lý không còn hay biết gì nữa.                              Dâm nữ bèn từ từ thoát ra khỏi vòng tay của tướng                              cướp, lấy y phục mặc vào, rồi đi tới thành Xá-vệ,                              nhưng cửa thành đã đóng. Cô bèn đi về phía tinh xá                              Kỳ Hoàn, thì cửa tu viện cũng đã đóng. Khi ấy, ở bên                              ngoài cửa có một trưởng lão Tỉ-kheo tên Ca-lô đang                              trải giường dây mà ngồi tại một chỗ khuất, cách cổng                              chùa không xa. Y của Thầy phủ xuống 4 phía giường.                              Vì trong cơn sợ hãi, cần tìm chỗ an ổn nên dâm nữ                              này bèn chui vào dưới giường trưởng lão. Nhưng Ca-lô                              lúc ấy đang nhập định không quan sát dưới giường.                              Sau lúc nửa đêm, tên tướng cướp tỉnh rượu, định lột                              đồ của dâm nữ, nhưng tìm cô ta không thấy. Hắn bèn                              hỏi chúng bạn: "Các ngươi có thấy cô gái ấy không?".                              Bọn chúng đều đáp: "Không thấy". Thế rồi, cả bọn đều                              cầm đuốc đi tìm, nhưng tuyệt nhiên không biết cô ta                              ở đâu. Chúng bèn bảo nhau: "Nếu tìm không được thì                              hãy theo vết chân". Thế là chúng men theo dấu chân                              tìm đến cửa thành Xá-vệ, thì thấy cửa thành đóng,                              bèn theo dấu chân đến trước cửa Kỳ Hoàn, lại cũng                              mất dấu vết, không biết đi về phương nào. Bọn cướp                              tuy thấy Tỉ-kheo nhưng không có bụng nghi ngờ. Bấy                              giờ trời sắp hừng đông, trong thành Xá-vệ đã có                              tiếng trống đánh, lại nghe tiếng voi ngựa gà chó,                              cho nên tên tướng cướp [331b] bèn bàn với đồng bọn:                              "Giờ đây đã mất cô ấy, không biết ở đâu, trời lại                              sắp sáng, không nên ở lâu nơi đây mà phải trở lại                              chỗ ẩn núp trong rừng". Bàn bạc thế rồi, chúng bèn                              trở lại trong rừng. Khi ấy trời sáng, dân chúng, voi                              ngựa, xe cộ từ trong thành đi ra, lại có các                              Ưu-bà-di cũng rời khỏi thành đi thăm viếng đảnh lễ                              Thế Tôn. Thế rồi, họ sang đảnh lễ Tỉ-kheo Ca-lô,                              bỗng thấy dâm nữ kia từ dưới giường chui ra. Mọi                              người thấy thế, liền chê trách, nói: "Ðây là nơi A-luyện-nhã,                              vì sao kẻ nạp y khất thực lại ngủ chung với dâm nữ                              suốt đêm, đến sáng mới thả đi, mất hết phép tắc Sa-môn,                              có đạo nào như thế!"                              Lúc ấy tiếng xấu                              về trưởng lão Ðà-phiêu-ma-la-tử Ca-lô Tỉ-kheo được                              loan truyền khắp nơi. Các Tỉ-kheo nghe thế, bèn bạch                              lên Thế Tôn. Phật nói: "Này các Tỉ-kheo, tiếng xấu                              về Tỉ-kheo Ðà-phiêu-ca-lô làm điều phi phạm hạnh                              được loan truyền khắp nơi, vậy các ông phải đến chỗ                              kín đáo hỏi ông 3 lần, đến chỗ đông người hỏi 3 lần,                              rồi hỏi giữa chúng Tăng 3 lần. Khi ở chỗ kín đáo nên                              hỏi như sau: "Trưởng lão Ðà-phiêu Ca-lô, các vị phạm                              hạnh nói như thế, việc đó Thầy có biết không?". Nếu                              ông ta đáp: "Không biết tôi có làm hay không cũng                              không nhớ nữa", thì phải hỏi như vậy đến lần thứ 2,                              thứ 3. Rồi hỏi ở chỗ nhiều người 3 lần, hỏi giữa                              chúng Tăng 3 lần cũng như vậy".                              Thế rồi, các                              Tỉ-kheo liền bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Tỉ-kheo                              Ðà-phiêu-ca-lô ấy đã được hỏi ở chỗ vắng 3 lần, hỏi                              ở chỗ nhiều người 3 lần và hỏi giữa chúng Tăng 3 lần.                              Nhưng Thầy tự nói: "Không biết tôi có làm hay không                              cũng không nhớ nữa".                              Bấy giờ, Phật bèn                              nói với các Tỉ-kheo: "Tỉ-kheo Ðà-phiêu-ca-lô ấy                              thanh tịnh, không có tội. Tăng nên cho pháp Ức niệm                              Tì-ni để dập tắt (tai tiếng), cùng sống thanh tịnh.                              Khi làm pháp Yết-ma cầu thính, người làm Yết-ma nên                              nói như sau:                              "Xin Ðại-đức Tăng                              lắng nghe! Trưởng lão Ðà-phiêu-ca-lô này đã tự nói                              trước các bậc phạm hạnh như sau: "Không biết có làm                              hay không tôi cũng không nhớ nữa". Nếu thời gian                              thích hợp đối với Tăng, nay Tăng cho Trưởng lão                              Ðà-phiêu-ca-lô đến trước Tăng xin pháp Ức niệm Tì-ni                              để dập tắt tai tiếng, mà sống thanh tịnh. Các                              Ðại-đức nào bằng lòng cho Tỉ-kheo Ðà-phiêu-ca-lô đến                              trước Tăng xin pháp Ức niệm Tì-ni để dập tắt (tai                              tiếng) mà sống thanh tịnh thì im lặng; ai không bằng                              lòng thì hãy nói.                              Vì Tăng đã bằng                              lòng nên im lặng. Việc ấy cứ như thế mà thi hành".                              Thế rồi, người                              xin là Tỉ-kheo Ðà-phiêu-ca-lô phải trật vai áo phải,                              cởi bỏ giày dép, quỳ gối phải trên đất, nói như sau:                              "Tôi là Tỉ-kheo Ðà-phiêu-ca-lô đã nói trước các bậc                              phạm hạnh như sau: "Tôi không biết có làm hay không                              cũng không nhớ nữa". Tôi là Ðà-phiêu-ca-lô nay đến                              trước Tăng xin pháp Ức niệm Tì-ni để dập tắt (tai                              tiếng), mà sống thanh tịnh, cúi xin Tăng cho tôi                              pháp Ức niệm Tì-ni để dập tắt (tai tiếng), mà sống                              thanh tịnh" (xin như vậy đến lần thứ 2, thứ 3). Rồi                              người làm Yết-ma nên nói thế này:                              "Xin Ðại-đức Tăng                              lắng nghe! Trưởng lão Ðà-phiêu-ca-lô [331c] được các                              bậc phạm hạnh nói như thế, rồi Thầy tự nói: "Không                              biết có làm hay không tôi cũng không nhớ nữa". Nay                              Thầy đến trước Tăng xin pháp Ức niệm Tì-ni để dập                              tắt (tai tiếng) mà sống thanh tịnh. Nếu thời gian                              thích hợp đối với Tăng, nay Tăng cho trưởng lão                              Ðà-phiêu-ca-lô pháp Ức niệm Tì-ni để dập tắt (tai                              tiếng) mà sống thanh tịnh. Ðây là lời tác bạch.                              Xin Ðại-đức Tăng                              lắng nghe! Trưởng lão Ðà-phiêu-ca-lô này được các                              bậc phạm hạnh hỏi như thế, rồi Thầy tự nói: "Không                              biết có làm hay không tôi cũng không nhớ nữa". Nay                              Thầy đến trước Tăng xin pháp Ức niệm Tì-ni để dập                              tắt (tai tiếng), mà sống thanh tịnh. Các Ðại-đức nào                              bằng lòng cho trưởng lão Ðà-phiêu-ca-lô pháp Ức niệm                              Tì-ni để dập tắt (tai tiếng), mà sống thanh tịnh,                              thì im lặng, ai không bằng lòng hãy nói. Ðây là Yết-ma                              lần đầu (lần thứ 2, thứ 3 cũng nói như thế).                               Tăng đã bằng lòng                              cho trưởng lão Ðà-phiêu-ca-lô pháp ức niệm Tì-ni để                              dập tắt (tai tiếng) mà sống thanh tịnh, vì Tăng đã                              im lặng. Việc ấy cứ như thế mà thi hành".                              Thế rồi, Phật hỏi                              các Tỉ-kheo đã cho Ðà-phiêu-ca-lô pháp Ức niệm Tì-ni                              chưa. Các Tỉ-kheo đáp: "Ðã cho".                               Phật nói: "Này                              các Tỉ-kheo, có 5 trường hợp cho pháp Ức niệm Tì-ni                              phi pháp. Năm pháp đó là gì? Ðó là: 1 - Không thanh                              tịnh, tưởng là thanh tịnh mà cho. 2 - Thanh tịnh,                              tưởng là không thanh tịnh mà cho. 3 - Không kiểm                              điểm trước. 4 - Làm phi pháp. 5 - Không hòa hợp. Ðó                              gọi là 5 điều phi pháp khi cho Ức niệm Tì-ni.                              Trái lại, có 5                              đều như pháp khi cho Ức niệm Tì-ni. Năm pháp đó là                              gì? Ðó là: 1 - Thanh tịnh, tưởng là thanh tịnh mà                              cho. 2 - Không thanh tịnh, tưởng là không thanh tịnh                              mà cho. 3 - Có kiểm tra trước. 4 - Làm như pháp. 5 -                              Hòa hợp. Ðó gọi là 5 điều như pháp khi cho Ức niệm                              Tì-ni".                              Khi ấy, các                              Tỉ-kheo liền bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Vì sao                              nàng dâm nữ ấy bị bọn cướp truy đuổi? "                              Phật nói: "Không                              những ngày nay cô ta bị bọn cướp truy đuổi mà trong                              thời quá khứ cũng đã từng bị bọn chúng truy đuổi,                              như trong kinh Oan Gia Bản Sinh đã nói rõ".                              Bấy giờ, tôn giả                              A-nan đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật rồi                              đứng qua một bên, bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Thế                              nào gọi là Ức niệm Tì-ni?"                              Phật nói với A-nan:                              "Nếu Tỉ-kheo này vu cáo Tỉ-kheo khác phạm Ba-la-di,                              Tăng-già-bà-thi-sa, Ba-dạ-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni,                              Việt-tì-ni, thì phải cấp tốc tập họp Tăng. Khi tập                              họp Tăng rồi bèn hỏi Hòa-thượng A xà lê, bạn hữu tri                              thức của Tỉ-kheo ấy rằng: "Trưởng lão, Thầy có biết                              Tỉ-kheo mỗ giáp kia từ trước đến nay là người giới                              hạnh thế nào không? Ông quen biết với ai? Người quen                              biết ấy thiện hay ác?"Nếu nói: "Ông ấy từ trước đến                              nay giữ giới hạnh thanh tịnh, nhưng ông ta cùng với                              bạn bè quen biết có phạm vài lỗi nhỏ nhặt, mà trong                              lòng thấy [332a] hổ thẹn, liền tức khắc sám hối để                              tiêu trừ". Người như vậy thì Tăng nên trao cho pháp                              Ức niệm Tì-ni. Nếu nói: "Tôi biết Tỉ-kheo ấy từ                              trước đến nay giới hạnh không thanh tịnh, lại cùng                              kết bạn với kẻ ác, phạm tội mà không chịu sám hối                              như pháp". Này A-nan, nếu Tỉ- kheo như vậy thì Tăng                              không nên trao cho pháp Ức niệm Tì-ni để dập tắt (tiếng                              xấu). Như vậy đó A-nan, khi đã như pháp, như luật                              trao cho pháp Ức niệm Tì-ni để dập tắt sự hủy báng                              gây ra tranh cãi xong rồi, mà có khách Tỉ-kheo hoặc                              Tỉ kheo ra đi, hoặc Tỉ-kheo gởi dục, hoặc Tỉ-kheo                              không gởi dục, hoặc Tỉ-kheo ngồi ngủ gục trong phòng                              họp, hoặc Tỉ-kheo mới thọ giới, trong các Tỉ-kheo ấy,                              nếu ai nói: "Làm Yết-ma như vậy không thành tựu,                              không đúng pháp, ngu si, vô trí, trái với Phật, Pháp,                              Tăng, giống như trâu dê, pháp Yết-ma ấy bất thiện,                              không thành". Do nói như vậy khiến cho sự tranh cãi                              sinh khởi trở lại, thì phạm tội Ba-dạ-đề. Ðó gọi là                              sự tranh cãi do hủy báng dùng pháp Ức niệm Tì-ni để                              dập tắt.                              3- Sự tranh                              cãi do hủy báng dùng pháp Bất si Tì-ni để dập tắt.                              Khi Phật an trú                              tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Tôn-giả Kiếp Tân                              Na có 2 đệ tử tùy tùng, một tên là Nan-đề, 2 tên là                              Bát Già Nan-đề. Hai Tỉ-kheo ấy trước kia bị bệnh                              cuồng si. Khi bệnh, làm nhiều điều phi pháp. Giờ đây                              bệnh đã lành mà các vị phạm hạnh còn nhắc lại những                              việc làm của 2 người trong lúc cuồng si, khiến cho 2                              Thầy khi nghe những lời ấy rất là xấu hổ. Vì thế, 2                              Thầy bèn đem việc ấy trình bày với các Tỉ-kheo. Các                              Tỉ-kheo liền đem việc ấy bạch đầy đủ với Thế Tôn: "Bạch                              Thế Tôn! Nan-đề và Bát-già-nan-đề trong khi mắc bệnh                              cuồng si, làm nhiều điều phi pháp, nay bệnh đã lành                              mà các vị phạm hạnh còn nhắc lại những việc làm                              trong lúc 2 người đang mắc bệnh cuồng si".                              Phật bèn nói với                              các Tỉ-kheo: "Các ông hãy hỏi họ ở chỗ vắng 3 lần,                              hỏi ở chỗ nhiều người 3 lần và hỏi giữa chúng Tăng 3                              lần. Khi hỏi ở chỗ vắng nên nói: "Trưởng lão, các vị                              phạm hạnh nói như thế, Thầy có biết không?". Nếu Họ                              đáp: "Không biết có làm hay không tôi cũng không nhớ                              nữa", thì phải hỏi đến lần thứ 2, thứ 3, rồi hỏi ở                              chỗ nhiều người 3 lần, hỏi giữa chúng Tăng 3 lần                              cũng như vậy".                              (Sau khi hỏi xong)                              Các Tỉ-kheo bèn đem việc ấy đến bạch với Thế Tôn: "Bạch                              Thế Tôn! Chúng con đã hỏi họ ở chỗ vắng 3 lần, hỏi ở                              chỗ nhiều người 3 lần và hỏi ở giữa chúng Tăng 3 lần,                              nhưng họ tự nói: không biết có làm hay không tôi                              cũng không nhớ nữa".                              Phật liền nói với                              các Tỉ-kheo: "Hai Tỉ-kheo ấy trước kia cuồng si, giờ                              hết cuồng si mà các vị phạm hạnh nhắc lại những việc                              làm trong lúc cuồng si, rồi họ tự nói: "Không biết                              có làm hay không tôi cũng không nhớ nữa", thì Tăng                              nên cho họ pháp Bất Si Tì-ni để dập tắt (việc ấy).                              Người chấp pháp nên làm pháp Yết-ma cầu thính, xướng                              rằng:                               "Xin Ðại-đức Tăng                              lắng nghe! Trưởng lão Nan-đề, Bát-già-nan-đề trước                              kia cuồng si, giờ hết cuồng si, mà các vị phạm hạnh                              còn nhắc lại những việc làm trong lúc cuồng si,                              [332b], rồi họ tự nói: "Không biết có làm hay không                              tôi cũng không nhớ nữa". Nếu thời gian thích hợp đối                              với Tăng, Tăng nay cho phép 2 Tỉ-kheo Nan-đề,                              Bát-già-nan-đề đến giữa Tăng xin pháp Bất Si Tì-ni                              để dập tắt (việc ấy) ...Các Ðại-đức đã bằng lòng cho                              Nan-đề, Bát-già-nan-đề đến giữa Tăng xin pháp Bất Si                              Tì-ni để dập tắt (việc ấy). Vì Tăng đã bằng lòng nên                              im lặng. Việc ấy cứ như thế mà thi hành".                              Thế rồi, Nan-đề,                              Bát-già-nan-đề phải đến giữa Tăng, trịch vai áo phải,                              quỳ gối chấp tay xin như sau:                              ‘Tôi là mỗ giáp,                              trước kia cuồng si, giờ hết cuồng si, nhưng các vị                              phạm hạnh nhắc lại những việc cuồng si trước kia mà                              tôi không biết có làm hay không cũng không nhớ. Nay                              tôi đến trước Tăng xin pháp Bất Si Tì-ni để dập tắt                              (việc ấy). Kính xin Tăng cho tôi pháp Bất Si Tì-ni                              để dập tắt (việc ấy)". (Xin như vậy đến lần thứ 2,                              thứ 3).                              Bấy giờ, Tăng nên                              nói với Tỉ-kheo ấy rằng: "Tăng không nói về việc của                              Thầy. Ai nói về việc của Thầy thì hãy đến bảo họ chớ                              nói nữa".                              Thế rồi, Tỉ-kheo                              này (cuồng si) nên đến Tỉ-kheo kia (phạm hạnh), nói:                              "Thưa trưởng lão, những việc làm trước đây của tôi                              trong lúc cuồng si, nay tôi không biết là mình có                              làm hay không cũng không nhớ nữa, xin trưởng lão chớ                              nhắc lại những việc làm của tôi trong lúc cuồng si".                              Vị Tỉ-kheo ấy nếu                              chấm dứt thì tốt, nếu không chấm dứt thì nên nói với                              Hòa-thượng, A-xà-lê và bạn bè quen biết của ông ta                              như sau: "Thưa trưởng lão, đệ tử của Ngài và bạn bè                              tri thức nói về những việc làm của tôi trong lúc                              cuồng si trước đây. Tôi không biết mình có làm hay                              không cũng không nhớ nữa. Xin trưởng lão hãy quở                              trách vị ấy, bảo chớ có nhắc lại nữa".                              Hòa thượng A-xà-lê                              của vị ấy nên quở trách rằng: "Ngươi bất thiện,                              không biết giới luật, ngươi không nghe Thế Tôn nói                              rằng việc làm trong lúc cuồng si tâm loạn không có                              tội hay sao?"                              Người lắm lời kia,                              nếu nhận (sự quở trách) thì tốt. Khi ấy, Tăng nên                              làm Yết-ma. Người làm Yết-ma phải xướng như sau:                              "Xin Ðại-đức Tăng                              lắng nghe! Trưởng lão Nan-đề, Bát-già-nan-đề trước                              đây cuồng si, giờ hết cuồng si, mà các vị phạm hạnh                              nhắc lại những việc làm trong lúc cuồng si trước kia,                              rồi các Thầy tự nói: "Không biết có làm hay không                              tôi cũng không nhớ nữa". Nay họ đến trước Tăng xin                              Pháp Bất Si Tì-ni để dập tắt (việc ấy). Nếu thời                              gian thích hợp đối với Tăng, nay Tăng cho Nan-đề,                              Bát-già-nan-đề pháp Bất Si Tì-ni để dập tắt (việc ấy).                              Ðây là lời tác bạch.                              Xin Ðại-đức Tăng                              lắng nghe! Nan-đề và Bát-già-nan-đề trước đây cuồng                              si, giờ hết cuồng si, mà các vị phạm hạnh nhắc lại                              những việc làm trong lúc cuồng si, rồi họ tự nói:                              "Không biết có làm hay không tôi cũng không nhớ nữa".                              Nay họ đến trước Tăng xin pháp Bất Si Tì-ni để dập                              tắt (việc ấy). Nay Tăng cho các vị ấy pháp Bất Si                              Tì-ni để dập tắt (việc ấy). Các Ðại-đức nào bằng                              lòng cho Nan-đề, Bát-già-nan-đề pháp Bất Si Tì-ni để                              dập tắt (việc ấy) thì im lặng, ai không bằng lòng                              hãy nói: "Ðây là lần Yết-ma thứ nhất. (lần thứ 2,                              thứ 3 cũng nói như vậy)".                              Tăng đã cho mỗ                              giáp, mỗ giáp pháp Bất Si Tì-ni để dập tắt (việc ấy)                              xong. Vì Tăng bằng lòng nên im lặng. Việc ấy cứ như                              thế mà thi hành".                              Thế rồi, Phật hỏi                              các Tỉ-kheo: "Ðã [332c] cho Nan-đề, Bát-già-nan-đề                              pháp Bất Si Tì-ni chưa?"                              Họ đáp: "Ðã cho                              rồi, bạch Thế Tôn".                              Phật nói: "Nếu                              hội đủ 5 phương diện thì thành ra cho pháp Bất Si                              Tì-ni phi pháp. Năm phương diện đó là gì? Ðó là: 1 -                              Không si, tưởng là si mà cho; 2 - Không thỉnh cầu                              người khơi lên sự việc khiến cho tâm họ nhu nhuyến;                              3 - Không đến trước Tăng xin pháp Bất Si Tì-ni; 4 -                              Làm phi pháp; 5 - Tăng không hòa hợp.                               Ðó gọi là hội đủ                              5 điều phi pháp khi cho pháp Bất Si Tì-ni.                              Ngoài ra, còn có                              5 điều như pháp thành tựu khi cho pháp Bất Si Tì-ni.                              năm điều đó là gì? Ðó là: 1- Không si, tưởng là                              không si mà cho; 2 - Cầu xin người khơi lên sự việc                              khiến cho tâm họ nhu nhuyến; 3 - Ðến trước Tăng xin                              pháp Bất Si Tì-ni; 4 - Làm đúng pháp; 5 - Tăng hòa                              hợp.                               Ðó gọi là 5 điều                              như pháp thành tựu khi cho pháp Bất Si Tì-ni.                              Bấy giờ, tôn giả                              A-nan đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật,                              rồi bạch: "Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Bất Si Tì-ni?"                              Phật nói với A-nan:                              "Có Tỉ-kheo trước cuồng si, nay hết cuồng si mà các                              vị phạm hạnh nhắc lại việc làm cuồng si trước kia,                              thì lúc ấy phải gấp rút tập họp Tăng. Khi tập họp                              Tăng rồi, căn cứ theo kinh, theo luật, tùy theo sự                              thực của Tỉ- kheo ấy mà cho pháp Bất si tì ni. Như                              vậy đó A-nan, đó là như pháp, như luật, như lời Thế                              Tôn dạy, mà cho pháp Bất Si Tì-ni để chấm dứt sự hủy                              báng gây ra tranh cãi. Sau khi xong việc, nếu có                              Tỉ-kheo khách cho đến những kẻ ngu si vô trí giống                              như trâu dê làm phát khởi lại sự tranh cãi, thì phạm                              tội Ba-dạ-đề. Ðó gọi là dùng Bất Si Tì-ni để dập tắt                              sự hủy báng gây ra tranh cãi".                              * Sự tranh cãi về                              tội (tội tránh): Nếu Tỉ-kheo và Tỉ- kheo tranh luận                              nhau về việc phạm tội như Ba-la-di, cho đến                              Việt-tì-ni, thì trong trường hợp này nên dùng 2 loại                              Tì-ni để diệt trừ. Ðó là: Tự ngôn Tì-ni và                              Mích-tội-tướng Tì-ni.                              4- Tự-ngôn                              Tì-ni:                               Khi Phật an trú                              tại thành Xá-vệ, bấy giờ Huệ mạng La-hầu-la đến giờ                              khất thực, liền khoác y, cầm bát vào thành Xá-vệ,                              tuần tự khất thực, khất thực xong trở về tinh xá.                              Rồi khi ăn xong, Thầy đem y, bát cất lại chỗ cũ, cầm                              tọa cụ định đến rừng Ðắc Nhãn ngồi thiền, thì giữa                              đường, Thầy thấy một Tỉ-kheo làm điều phi phạm hạnh                              với một phụ nữ. Sau khi bị trông thấy, ác Tỉ-kheo                              này bèn suy nghĩ: "Con của Phật là La-hầu-la trông                              thấy ta làm điều phi phạm hạnh, chắc chắn sẽ nói với                              Thế Tôn. Trong lúc y chưa nói, ta nên đến chỗ Thế                              Tôn, nói trước về tội lỗi của hắn". Thế rồi, ác                              Tỉ-kheo ấy đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ chân                              Phật, bạch rằng: "Bạch Thế Tôn! Con trông thấy                              Tôn-giả La-hầu-la khi đi đến rừng Ðắc Nhãn, đã làm                              điều phi pháp với một phụ nữ ở dọc đường". Lúc ấy,                              Thế Tôn im lặng không trả lời. Thế còn Tôn-giả La-hầu-la                              , sau khi ngồi thiền dưới một gốc cây, bèn xuất                              thiền, đi đến chỗ Thế Tôn, nhưng không nhớ sự việc                              của ác Tỉ-kheo, theo thường lệ, cúi đầu đảnh lễ chân                              Phật, rồi đứng hầu một bên. [333a] Khi ấy, vì muốn                              cho La-hầu-la nhớ lại sự việc vừa rồi, Thế Tôn bèn                              hóa ra ác Tỉ-kheo đứng ngay trước mặt. La-hầu-la                              thấy rồi, liền gợi lại ký ức, bạch với Thế Tôn: "Bạch                              Thế Tôn! Vừa rồi con đi vào rừng, thì trông thấy                              Tỉ-kheo này đang làm điều phi phạm hạnh với một phụ                              nữ".                              Phật nói: "La-hầu-la,                              nếu Tỉ-kheo ấy cũng nói thế sí "Con thấy La-hầu-la                              làm việc phi phạm hạnh ở giữa đường", thì phải tính                              sao?"                              Tôn giả La-hầu-la                              bèn bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Con không có việc                              đó".                              - Nếu Tỉ-kheo kia                              cũng nói thế này: "Con không có việc đó", thì phải                              tính sao?                              - Bạch Thế Tôn!                              Nếu như vậy, thì chỉ có Thế Tôn mới hiểu con.                              - Nếu Tỉ-kheo kia                              cũng nói thế này: "Chỉ có Thế Tôn mới hiểu được việc                              này của con", thì phải làm sao?                              - Kính xin Thế                              Tôn cho con pháp Tự-ngôn-trị.                              - Nếu Tỉ-kheo kia                              cũng nói: "Kính xin Thế Tôn cho con pháp                              Tự-ngôn-trị", thì phải tính sao đây?                              - Nếu như vậy thì                              xin Thế Tôn cho 2 chúng con pháp Tự-ngôn-trị.                              Lúc bấy giờ, Thế                              Tôn bèn đi đến chỗ có nhiều Tỉ-kheo, trải tọa cụ                              ngồi, rồi trình bày rõ với các Tỉ-kheo về sự việc                              trên. Nói xong, Phật bảo các Tỉ-kheo: "Cho Tỉ-kheo                              này pháp Tự-ngôn Tì-ni để dập tắt (việc ấy).Vì sao                              vậy? Vì giá như đời sau có ác Tỉ-kheo hủy báng                              Tỉ-kheo thanh tịnh rồi Tỉ-kheo thanh tịnh không được                              pháp Tự-ngôn-trị, liền bị đuổi đi". Thế rồi, Phật                              bảo với các Tỉ-kheo: "Có 8 việc phi pháp khi cho                              pháp Tự-ngôn Tì-ni. Tám pháp đó là gì? Ðó là: 1- Hỏi                              tội nặng (quan trọng) mà đáp tội nhẹ, song tội nhẹ                              ấy lại không thật, đó gọi là cho pháp Tự-ngôn-trị                              phi pháp; 2- Hỏi tội nhẹ mà đáp tội nặng; 3- Hỏi tội                              có dư tàn mà đáp không có dư tàn; 4- Hỏi tội không                              có dư tàn mà đáp có dư tàn; 5- Hỏi tội nhẹ mà đáp                              tội nhẹ; 6- Hỏi tội nặng mà đáp tội nặng; 7- Hỏi tội                              có dư tàn mà đáp có dư tàn; 8- Hỏi tội không có dư                              tàn mà đáp tội không có dư tàn. Nhưng tất cả đều                              không nói thật tội, đó gọi là phi pháp trao cho                              Tự-ngôn-trị.                              Trái lại có 8                              điều như pháp khi trao cho Tự-ngôn-trị. Tám điều đó                              là gì? Ðó là: 1- Hỏi tội nặng mà đáp tội nhẹ, nhưng                              thật có tội nhẹ nên đáp tội nhẹ; đó gọi là như pháp                              trao cho Tự-ngôi-trị; 2- Hỏi tội nhẹ mà đáp tội                              nặng; 3- Hỏi tội có dư tàn mà đáp tội không có dư                              tàn; 4- Hỏi tội không có dư tàn mà đáp tội có dư                              tàn; 5- Hỏi tội nặng mà đáp tội nặng; 6- Hỏi tội nhẹ                              mà đáp tội nhẹ; 7- Hỏi tội có dư tàn mà đáp tội có                              dư tàn; 8- Hỏi tội không có dư tàn mà đáp tội không                              có dư tàn. Như vậy tất cả đều nói thật.                              Ðó gọi là 8 điều                              như pháp trao cho Tự-ngôn-trị.                              Bấy giờ, tôn giả                              A-nan đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, rồi                              bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Trong luật gọi là                              Tự-ngôn Tì-ni để dập tắt tranh cãi, vậy thế nào là                              Tự-ngôn Tì-ni để dập tắt tranh cãi?"                              Phật nói với                              A-nan: "Nếu Tỉ-kheo với Tỉ-kheo moi móc tội lỗi của                              nhau, hoặc [333b] Ba-la-di cho đến tội Việt-tì-ni,                              này A-nan, lúc ấy nên cấp tốc tập họp Tăng, khi tập                              họp Tăng rồi, phải căn cứ kinh, luật, lời Phật dạy,                              tùy theo sự thực của Tỉ-kheo này mà cho pháp Tự-ngôn                              Tì-ni để dập tắt tranh cãi. Như vậy đó A-nan, nếu                              sau khi như pháp, như luật, như lời Thế Tôn dạy,                              dùng Tự-ngôn Tì-ni để dập tắt tranh cãi rồi mà có                              Tỉ-kheo khách cho đến (những người khác) làm phát                              sinh (sự tranh cãi) trở lại, thì phạm tội Ba-dạ-đề.                              Ðó gọi là dùng Tự ngôn tì ni để dập tắt sự tranh                              cãi.                              5-                              Mích-tội-tướng Tì-ni:                               Khi Phật an trú                              tại thành Xá-vệ, trưởng lão Thi-lợi-da-bà thường                              phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa, nên Tăng chúng tập họp                              định làm pháp Yết-ma thì Thi-lợi-da-bà không đến.                              Tăng bèn sai sứ giả đi gọi. Sứ giả đến nói: "Trưởng                              lão, Tăng chúng đang tập họp, định làm Yết-ma".                              Thi-lợi-da-bà suy                              nghĩ: "Chính là vì ta mà làm Yết-ma vậy", nên tâm                              sinh sợ hãi, bất đắc dĩ phải đến.                              Các Tỉ-kheo hỏi:                              "Trưởng lão phạm Tăng-già-bà-thi-sa phải không?"                              Thầy đáp: "Phạm".                              Thế rồi, tâm Thầy                              sinh hoan hỉ, suy nghĩ: "Các vị phạm hạnh nêu tội mà                              có thể sám hối, chứ không phải không thể sữa trị".                              Nghĩ thế, Thầy liền bạch với chúng Tăng: "Cho phép                              tôi ra ngoài một lát".                              Sau đó, các                              Tỉ-kheo bàn nhau: "Tỉ-kheo này khinh suất, là người                              không quả quyết, ra ngoài rồi, lát nữa thế nào cũng                              nói dối. Chúng ta phải hỏi ông 3 lần để xác định cho                              thật chắc rồi mới làm Yết-ma".                              Thi-lợi-da-bà ra                              ngoài rồi, suy nghĩ: "Vì sao ta lại nhận tội này?                              Các Tỉ kheo thường trị tội ta, nay ta không nên nhận                              tội".                              Thế rồi, các                              Tỉ-kheo liền gọi Thi-lợi-da-bà vào. Khi vào rồi họ                              hỏi Thầy: "Có thật ông phạm Tăng-già-bà-thi-sa                              không?"                              Thầy đáp: "Không                              phạm".                              Các Tỉ-kheo hỏi:                              ‘Vì sao vừa rồi ở giữa Tăng ông nhận tội, giờ lại                              nói không phạm?"                              Thi-lợi-da-bà                              nói: "Tôi không nhớ việc ấy".                              Các Tỉ-kheo liền                              đem việc ấy đến bạch với Phật. Phật bèn bảo gọi                              Thi-lợi-da-bà đến. Khi Thầy đến rồi, Phật liền đem                              việc đó hỏi kỹ Thi-lợi-da-bà: "Ông có việc đó thật                              chăng?"                              Thầy đáp: "Có                              thật như vậy".                              Phật liền nói với                              các Tỉ-kheo: "Thi-lợi-da-bà này ở giữa chúng Tăng,                              thấy tội lại nói không thấy, rồi bảo rằng: "Tôi                              không nhớ". Vậy Tăng phải trao cho ông pháp                              Mích-tội-tướng Tì-ni để dập tắt (việc ấy). Người làm                              Yết-ma nên nói như sau:                              "Xin Ðại-đức Tăng                              lắng nghe! Tỉ-kheo Thi-lợi-da-bà ở giữa Tăng, thấy                              tội thì nói là không thấy, không thấy lại nói có                              thấy, rồi tự bảo: "Tôi không nhớ". Nếu thời gian                              thích hợp đối với Tăng, Tăng nên cho Thi-lợi-da-bà                              Tỉ- kheo pháp Mích-tội-tướng Tì-ni để dập tắt (việc                              ấy). Ðây là lời tác bạch.                              [333c] Ðại-đức                              Tăng xin lắng nghe! Tỉ-kheo Thi-lợi-da-bà ở giữa                              Tăng, thấy tội thì bảo là không thấy, không thấy lại                              nói thấy, rồi tự nói: "Tôi không nhớ". Nay Tăng cho                              Tỉ-kheo Thi-lợi-da-bà pháp Mích-tội-tướng Tì-ni để                              dập tắt (việc ấy). Các Ðại-đức nào bằng lòng cho                              Tỉ-kheo Thi-lợi-da-bà pháp Mích-tội-tướng Tì-ni để                              dập tắt (việc ấy) thì im lặng, ai không bằng lòng                              hãy nói. Ðây là lần Yết-ma thứ nhất. (lần thứ 2, thứ                              3 cũng nói như thế).                              Tăng đã bằng lòng                              cho Tỉ-kheo Thi-lợi-da-bà pháp Mích-tội-tướng Tì-ni                              để dập tắt (việc ấy), vì Tăng im lặng. Vậy việc ấy                              cứ như thế mà thi hành".                              Thế rồi Phật nói                              với các Tỉ-kheo: "Khi Tăng đã cho pháp Yết-ma                              Mích-tội-tướng Tì-ni cho Tỉ-kheo ấy xong rồi, thì                              Tỉ-kheo ấy phải chấp hành 8 pháp suốt đời. Tám pháp                              đó là gì? Ðó là: 1- Không được độ người (xuất gia);                              2- Không được cho người thọ giới cụ túc; 3- Không                              được cho người y chỉ; 4- Không được nhận Tăng mời                              theo thứ tự; 5- Không được làm sứ giả cho Tăng; 6-                              Không được làm người thuyết pháp cho chúng Tăng; 7-                              Không được làm người tụng giới cho chúng Tăng; 8-                              không được làm người Bố-tát Yết-ma cho chúng Tăng.                              Khi Tăng làm Yết-ma rồi, Tỉ-kheo này suốt đời không                              được bỏ (pháp Yết-ma ấy). Ðó gọi là 8 pháp".                              Bấy giờ, tôn giả                              A-nan, đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật,                              rồi bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Trong luật nói về                              pháp Mích-tội-tướng Tì-ni, vậy thế nào gọi là                              Mích-tội-tướng Tì-ni?"                              Phật nói với                              A-nan: "Nếu có Tỉ-kheo nào ở giữa Tăng, thấy tội mà                              nói không thấy, không thấy lại nói thấy, rồi tự nói:                              "Tôi không nhớ", tỏ thái độ khinh mạn, thì phải tức                              tốc tập họp Tăng. Khi tập họp Tăng rồi, căn cứ vào                              kinh, luật và tùy theo sự thật của Tỉ-kheo ấy mà cho                              pháp Mích-tội-tướng Tì-ni để dập tắt (việc ấy). Sau                              khi xong việc, Tăng nên nói với Tỉ-kheo ấy: "Trưởng                              lão, Ông chẳng được lợi ích gì! Vì sao ở giữa Tăng,                              thấy tội mà nói không thấy, không thấy lại nói có                              thấy, rồi tự bảo: "Tôi không nhớ?" Vì Ông đã nói                              những lời ấy ở giữa Tăng, nên Tăng cho ông pháp                              Yết-ma Mích-tội-tướng". Như vậy đó A-nan, đó là như                              pháp, như luật, như lời Thế Tôn dạy mà cho pháp                              Mích-tội-tướng Tì-ni để dập tắt sự tranh cãi. Sau                              đó, nếu Tỉ-kheo khách hay người nào làm phát sinh sự                              tranh cãi trở lại, thì phạm Ba-dạ-đề. Ðó gọi là dùng                              Mích-tội-tướng Tì-ni để dập tắt sự tranh cãi về tội                              phạm".                              Sự tranh cãi về                              lời nói phải dùng 3 pháp Tì-ni để dập tắt, trước đã                              nói về hiện tiền Tì-ni rồi.                              6- Ða-mích                              Tì-ni diệt tướng ngôn tránh                               Khi Phật an trú                              tại Câu-diệm-di, thành Xá-vệ, bấy giờ có 2 hội                              chúng, mỗi hội chúng đều có một Thầy (thủ lãnh). Vị                              lãnh tụ hội chúng thứ nhất tên Thanh Luận, vị lãnh                              tụ hội chúng thứ 2 tên Thiện Thích. Thanh Luận có                              một đệ tử tùy tùng tên Bạc Khẩu. Thiện Thích có một                              đệ tử tùy tùng tên Ðiếm Bạch. Vị Lãnh tụ thứ nhất                              [334a] có đệ tử y chỉ tên Ðầu Ðầu Già. Vị Lãnh tụ                              thứ 2 có đệ tử y chỉ tên Trá Già. Vị thứ nhất có đệ                              tử Ưu-bà-tắc tên Ðầu-ma. Vị thứ 2 có đệ tử Ưu-bà-tắc                              tên Vô Yên. Vị thứ nhất có đàn việt là Ưu-đà-già. Vị                              thứ 2 có đàn việt là cư sĩ Cừ Sư La. Vị thứ nhất có                              đệ tử Ưu-bà-di là phu nhân Xá-di. Vị thứ 2 có đệ tử                              Ưu-bà-di là Ma-kiền-đề-nữ, tên A-nậu-ba-ma. Vị thứ                              nhất có đệ tử thanh y ở hậu cung tên Tần-đầu-ma-ra.                              Vị thứ 2 có đệ tử thanh y ở hậu cung tên                              Ba-đà-ma-ra. Mỗi người đều có 500 Tỉ-kheo, 500                              Tỉ-kheo-ni, 500 Ưu-bà-tắc, 500 Ưu-bà-di.                              Vị lãnh tụ thứ                              nhất khi đi cầu xong, định dội nước, thì thấy trong                              nước có trùng, liền lấy cỏ để trên thạp nước làm                              dấu. Người đệ tử y chỉ của vị lãnh tụ thứ 2, sau đó                              vào cầu tiêu, trông thấy trên thạp nước có cỏ, liền                              nói: "Kẻ nào mà không biết hổ thẹn, đem cỏ bỏ trên                              thạp đựng nước!"                              Người đệ tử tùy                              tùng của vị lãnh tụ thứ nhất nghe lời nói ấy, liền                              nói với người đó: "Vì sao ngươi dám bêu rêu tên của                              Hòa-thượng ta, bảo là kẻ không biết hổ thẹn?"                              Do sự kiện này mà                              4 chúng đệ tử của 2 Hội chúng sinh ra tranh cãi dữ                              dội. Bấy giờ, khắp thành phố Câu-diệm-di đều nghe có                              tiếng tranh cãi, cả trong ngoài thành đều vang dội                              kinh động, chẳng khác gì vua chim cánh vàng vào biển                              bắt rồng, khiến cho nước nổi sóng cuồn cuộn. Sự                              tranh cãi nổi lên ồn ào chỉ xung quanh việc cỏ hay                              không phải cỏ. Vì các Tỉ-kheo đấu tranh nhau, nên                              cùng sống chung một trú xứ mà không hòa hợp. Họ nói,                              nào là đúng pháp, phi pháp; đúng luật, phi luật; tội                              nặng, tội nhẹ; tội có thể sữa trị, tội không thể sữa                              trị; Yết-ma đúng pháp, Yết-ma phi pháp; Yết-ma có                              hòa hợp, Yết-ma không hòa hợp; việc nên làm, việc                              không nên làm .v.v.                              Lúc bấy giờ, tại                              trú xứ có một Tỉ-kheo nói như sau: "Này các Ðại-đức,                              đó là việc phi pháp, phi luật, không phù hợp với                              kinh, không phù hợp với luật, không phù hợp với                              luận, trái với kinh, luật, luận, chỉ khởi lên những                              sự ô nhiễm, phiền não. Những gì tôi biết mới là đúng                              pháp, đúng luật, đúng lời Phật dạy, phù hợp với                              kinh, luật, luận, như thế sẽ không sinh ra nhiễm ô,                              phiền não". Rồi Thầy tiếp: "Này các Ðại-đức, tôi                              không thể dập tắt được sự tranh cãi này, tôi sẽ đến                              thành Xá-vệ, tới chỗ Thế Tôn, hỏi về cách dập tắt sự                              tranh cãi này". Thế rồi, Thầy đi đến chỗ Phật, cúi                              đầu đảnh lễ chân Phật, đứng qua một bên, bạch với                              Phật: "Bạch Thế Tôn! Các Tỉ-kheo tại Câu-diệm-di đấu                              tranh nhau, cãi vã nhau, cùng sống một trú xứ mà                              không hòa hợp, ... (cho đến) con không thể dập tắt                              được sự tranh cãi, nên con phải đến thưa với Thế Tôn                              về việc dập tắt sự tranh cãi này. Kính xin [334b]                              Thế Tôn vì các Tỉ-kheo mà dập tắt sự tranh cãi này".                              Khi ấy, Phật bảo                              Ưu-ba-li: "Ông hãy đến chỗ các Tỉ-kheo tại                              Câu-diệm-di, căn cứ theo pháp, luật, theo lời Phật                              dạy mà cho họ pháp Mích-tội Tì-ni để dập tắt sự                              tranh cãi ấy, như cách giải quyết sự việc mà các                              người họ Thích và các người Ly Xa đã áp dụng. Nếu sự                              việc không thể giải quyết nhanh được thì cũng phải                              cho pháp Ða-mích Tì-ni để dập tắt. Này Ưu-ba-li, sự                              tranh cãi khởi lên từ 3 chỗ: "Hoặc một người, hoặc                              nhiều người, hoặc chúng Tăng". Do đó, cũng phải xả                              tại 3 chỗ, lấy tại 3 chỗ và diệt tại 3 chỗ. Này                              Ưu-ba-li, ông hãy đến chỗ các Tỉ-kheo tại                              Câu-diệm-di, như pháp, như luật, như lời Phật dạy mà                              dập tắt sự tranh cãi ấy theo nguyên tắc Ða-mích                              Tì-ni như trường hợp Hiện-tiền Tì-ni đã nói rõ ở                              trên, (cho đến) nếu tâm Tỉ-kheo ấy nhu nhuyến thì                              Tăng nên biểu quyết theo đa số. Tỉ-kheo nào hội đủ 5                              pháp thì Tăng nên làm Yết-ma cử người ấy làm người                              xử đoán. Thế nào là 5 pháp? Ðó là:                              1- không thiên                              vị; 2- Không sân hận; 3- Không sợ hãi; 4- Không si                              ám; 5- Biết ai rút thẻ rồi, ai chưa rút thẻ.                              Người làm Yết-ma                              nên nói như sau:                               "Xin Ðại-đức Tăng                              lắng nghe! Tỉ-kheo mỗ giáp thành tựu 5 pháp có thể                              vì chúng Tăng làm người đưa thẻ. Nếu thời gian thích                              hợp đối với Tăng, Tăng hãy cử Tỉ-kheo mỗ giáp làm                              người đưa thẻ. Ðây là lời tác bạch.                              Xin Ðại-đức Tăng                              lắng nghe! Tỉ-kheo mỗ giáp thành tựu 5 pháp, nay                              Tăng cử Tỉ-kheo mỗ giáp làm người đưa thẻ. Các                              Ðại-đức nào bằng lòng cử Tỉ-kheo mỗ giáp làm người                              đưa thẻ thì im lặng, ai không bằng lòng hãy nói.                              Tăng đã bằng lòng                              cử Tỉ-kheo mỗ giáp làm người đưa thẻ xong. Vì Tăng                              bằng lòng nên im lặng. Việc ấy cứ như thế mà thi                              hành".                              Sau khi Yết-ma                              xong, Tỉ-kheo này phải làm 2 loại thẻ: Một loại màu                              đen và một loại màu trắng, không được xướng rằng:                              "Phi pháp lấy thẻ đen, như pháp lấy thẻ trắng", mà                              nên xướng thế sí "Ai nói thế này thì lấy thẻ đen, ai                              nói thế này thì lấy thẻ trắng".                              Người đưa thẻ khi                              đưa thẻ phải tập trung tâm ý vào 5 pháp kể trên rồi                              mới đưa thẻ; không nên làm bạn với những kẻ không                              như pháp, mà nên làm bạn với những kẻ như pháp. Khi                              đưa thẻ xong đem đếm, nếu thấy phe phi pháp nhiều                              hơn chừng một thẻ, thì không nên xướng: "Những người                              phi pháp nhiều, những người như pháp ít", mà nên tạo                              phương tiện giải tán. Nếu thời điểm bữa ăn trước đã                              đến thì nên xướng lệnh: "Bữa ăn trước". Nếu thời                              điểm bữa ăn sau đã đến, thì nên xướng lệnh: "Bữa ăn                              sau". Nếu thời điểm tắm rửa đến, thì nên xướng lệnh:                              "Tắm rửa". Nếu thời điểm thuyết pháp đến, thì nên                              xướng lệnh: "Thời điểm thuyết pháp đã đến". Nếu giờ                              tụng luật đã đến thì nên xướng: "Giờ tụng luật đã                              đến".                              Nếu phe phi pháp                              biết được (sự tình) bèn nói rằng: "Chúng tôi thắng                              lợi mà vì sao lại giải tán? Giờ đây chúng tôi không                              đứng dậy, phải giải quyết việc ấy dứt khoát ngay tại                              chỗ ngồi này", thì lúc ấy nếu bên cạnh tinh xá có                              một ngôi nhà nhỏ không có côn trùng, nên sai tịnh                              nhân phóng hỏa đốt, rồi hô hoán: "Lửa cháy, lửa                              cháy", liền đứng dậy chạy đi chữa lửa. Hoặc biết tại                              trú xứ gần đó có Tỉ kheo như pháp, thì nên đi kêu                              gọi: "Vừa rồi có phát thẻ vừa xong, nhưng những                              người phi pháp thì nhiều mà những người như pháp thì                              ít, trưởng lão hãy vì Phật pháp mà đến đó làm sao                              cho những người lấy thẻ như pháp thì nhiều, để cho                              Phật pháp được tăng trưởng, về phần Trưởng lão cũng                              được lợi ích, công đức".                              Nếu người ấy nghe                              lời yêu cầu này mà không đến, thì phạm tội                              Việt-tì-ni. Trái lại, nếu Thầy ấy đến thì phải phát                              thẻ trở lại. Khi phát thẻ xong bèn đem đếm, nếu thấy                              thẻ trắng nhiều hơn một cái, thì không nên xướng:                              "Nhiều hơn một cái", mà nên xướng rằng: "Những người                              nói như thế này nhiều, những người nói như thế kia                              ít". Xướng như thế rồi, nên theo phe đa số.                              Nếu hội đủ 5 pháp                              sau đây thì sự phát thẻ thành ra phi pháp. Năm pháp                              đó là gì? Ðó là:                               1- Những người                              nói như pháp thì ít mà những người nói phi pháp thì                              nhiều; 2- Những người nói như pháp không nhất trí,                              những người nói phi pháp nhất trí; 3- Phi pháp nói                              là đúng pháp, đúng pháp nói là phi pháp; 4- Do việc                              phát thẻ này mà gây ra phá Tăng.; 5- Tăng chia rẽ                              nhau.                               Ðó gọi là 5 điều                              phi phái. Trái lại 5 điều trên thì gọi là sự phát                              thẻ đúng pháp.                              Bấy giờ tôn giả                              A-nan đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật,                              rồi bạch rằng: "Bạch Thế Tôn! Trong luật dùng                              Ða-mích Tì-ni để dập tắt (tranh cãi). Vậy thế nào                              gọi là dùng Ða-mích Tì-ni để dập tắt (tranh cãi)?"                              Phật nói với                              A-nan: "Nếu các Tỉ-kheo đối với kinh, luật, oai nghi                              mà nói rằng: "Ðiều này là tội, là chẳng phải tội; là                              tội nhẹ, là tội nặng; là tội có thể trị phạt, là tội                              không thể trị phạt; là tội có dư tàn, là tội không                              có dư tàn; do đó mà sinh ra cãi vã lẫn nhau, thì lúc                              ấy phải cấp tốc tập họp Tăng, căn cứ theo pháp,                              luật, lời Phật dạy và tùy theo sự thật mà dập tắt                              ngay việc ấy. Nếu không thể giải quyết được, mà nghe                              ở một trú xứ nào đó có vị trưởng lão Tỉ-kheo tụng                              kinh, tụng luật, tụng luận, hoặc một Tỉ kheo thiếu                              niên, tụng kinh, tụng luật, tụng luận, thì phải                              nhanh chóng đến đó vấn kế, hoặc mời về, rồi tùy theo                              Tỉ-kheo ấy chỉ vẽ mà trao cho pháp Ða-mích Tì-ni để                              dập tắt sự tranh cãi. Này A-nan, nếu sau khi dập tắt                              việc ấy rồi mà có Tỉ-kheo khách ..., cho đến Tỉ-kheo                              mới thọ giới, làm phát khởi (sự tranh cãi) trở lại,                              thì phạm Ba-dạ-đề. Ðó gọi là Tướng-ngôn-tránh dùng                              Ða-mích Tì-ni để dập tắt.                              7- Như thảo                              bố địa Tì-ni diệt tướng ngôn tránh:                              Khi Phật an trú                              tại thành Xá-vệ, bấy giờ các Tỉ-kheo ở Câu-diệm-di                              tranh cãi nhau, cùng sống một trú xứ mà không hòa                              hợp. Họ nói nào là pháp, phi pháp, luật phi luật....                              cho đến Tôn-giả Ưu-ba-ly nói với Tỉ-kheo ấy (vị sứ                              giả): "Này Trưởng lão, tôi đến đó rồi, sẽ làm các                              pháp Yết-ma [335a] để trừng trị, trục xuất các Ông.                              Khi ấy các Ông chớ có buồn".                              Thế rồi Tỉ-kheo                              sứ giả nói: "Tôi muốn ra ngoài một lát". Khi ra                              ngoài rồi, ông ta suy nghĩ: "Nếu ta theo tôn giả                              Ưu-ba-li trở về, thì ông ấy có thể trị tội chúng ta,                              chi bằng giờ đây ta trở về Câu-diệm-di một mình,                              cùng nhau dập tắt sự tranh cãi ấy". Nghĩ thế rồi,                              Thầy trở về Câu-diệm-di, nhưng chung cục vẫn không                              dập tắt được sự tranh cãi, bèn thưa (với vị Thượng                              Tọa trong trú xứ): "Trưởng lão, bản thân tôi không                              thể dập tắt được sự tranh cãi này, nay tôi phải trở                              lại thành Xá-vệ để cầu viện dập tắt sự tranh cãi".                              Nói thế rồi, Thầy liền đi đến thành Xá-vệ, tới chỗ                              tôn giả Ưu-ba-li, thưa như sau: ‘Lành thay Tôn-giả,                              hãy vì các Tỉ-kheo ở Câu-diệm-di mà dập tắt sự tranh                              cãi".                              Ưu-ba-li bèn nói                              với Tỉ-kheo ấy: "Như tôi đã nói với Ông trước đây,                              tùy theo sự việc ở đó mà tôi sẽ làm các pháp Yết-ma                              để trị phạt, lúc ấy Ông đừng buồn. Tôi sẽ theo ông                              mà đi".                              Tỉ-kheo ấy đáp:                              "Tôi không dám trái lệnh nữa".                              Ưu-ba-li nói:                              "Hãy trở lại nơi ấy để dập tắt, chớ làm rối loạn                              Tăng chúng ở đây".                              Thế rồi Tỉ-kheo                              sứ giả của Câu-diệm-di liền đi đến chỗ Phật, cúi đầu                              đảnh lễ dưới chân, bạch với Phật: "Bạch Thế Tôn! Các                              Tỉ-kheo ở Câu-diệm-di cùng sống một trú xứ mà không                              hòa hợp, họ cãi vã nhau. Kính xin Thế Tôn hãy dập                              tắt sự tranh cãi ấy".                              Phật liền nói với                              Tỉ-kheo Câu-diệm-di ấy: "Các Ông chớ có đấu tranh                              cãi vã với nhau, cùng sống một trú xứ mà không hòa                              hợp. Vì sao vậy? Vì trong thời quá khứ xa xưa có                              thành phố tên Ca-tì-la, nhà vua tên Bà-la-môn Ðạt-đa                              .v.v., như trong kinh Bổn-sinh Trường Thọ Vương đã                              nói rõ.. Họ bị nước mất nhà tan như vậy, thế mà Thái                              Tử Trường Sinh không trả thù cha, lại còn giải hòa                              với kẻ thù, không sinh ác tâm. Nay vì sao các ông đã                              có lòng tin, xuất gia sống trong chánh pháp mà còn                              phẫn nộ, tranh cãi, cùng sống một trú sứ mà bất                              hòa?". Thế rồi, Phật bảo Ưu-ba-li: "Ông hãy đến chỗ                              các Tỉ-kheo ở Câu-diệm-di, căn cứ theo pháp, theo                              luật, theo lời Phật dạy mà trao cho họ pháp                              Như-thảo-bố-địa Tì-ni để dập tắt sự tranh cãi ấy.                              Này Ưu Ba Li, Sự tranh cãi do 3 chỗ khởi lên, 3 chỗ                              thủ, 3 chỗ xả và 3 chỗ diệt. Giá như sự tranh cãi ấy                              có tính cách lặt vặt thì cùng với Ưu-bà-tắc giải                              quyết. Trái lại, nếu sự tranh cãi có tính cách trầm                              trọng, thì nên khuyên nhủ Ưu-bà-tắc ra khỏi giới                              trường, rồi tùy theo sự thật của Tỉ-kheo ấy, căn cứ                              theo pháp, luật mà làm pháp Như thảo bố địa Tì-ni để                              dập tắt".                              Phật lại nói với                              Ưu-ba-li: "Nếu Vị Hạ tọa có lỗi lầm, thì nên đến chỗ                              Thượng Tọa, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, nói như sau:                              "Thưa trưởng lão, tôi đã làm điều phi pháp, xâm phạm                              trưởng lão, có lỗi. Nay tôi sám hối, không dám tái                              phạm". Khi ấy Thượng Tọa nên dùng tay xoa đầu (vị                              đó), đưa tay đỡ dậy ôm vào lòng và nói: "Tuệ mạng                              (hiền giả) tôi cũng có lỗi, xin Thầy hãy tha thứ".                              [335b] Trái lại,                              nếu Thượng Tọa có lỗi, thì nên đến chỗ Hạ tọa, cầm                              tay nói: "Tôi đã làm điều phi pháp, có lỗi, nay xin                              sám hối với Thầy, không làm như vậy nữa". Lúc ấy, Hạ                              tọa nên đứng dậy đảnh lễ chân thượng tọa, rồi cũng                              sám hối như trên.                              Bấy giờ tôn giả                              A-nan đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân                              Phật, rồi bạch: "Bạch Thế Tôn! Trong luật gọi Bố                              thảo Tì-ni, thế nào là Bố thảo Tì-ni?"                              Phật nói với                              A-nan: "Nếu có sự tranh cãi khởi lên trong các                              Tỉ-kheo, khiến cho cùng sống một trú xứ mà bất hòa,                              rồi 2 bộ chúng không chịu nhịn nhau, sinh ra ác tâm,                              cãi nhau, bên nào cũng nói những lời không phù hợp                              với Phật pháp. Này A-nan, lúc ấy phải cấp tốc tập                              họp Tăng, căn cứ vào pháp luật, rồi một vị có đủ đức                              hạnh thuộc một bộ chúng, biết việc, hiểu rõ nhân                              duyên, có biện tài, thông hiểu pháp, không khiếp                              nhược, tán thán công đức hòa hợp chúng Tăng. Rồi Vị                              này rời khỏi chỗ ngồi, trật vai áo phải, quỳ gối,                              chấp tay, hướng về Bộ chúng thứ 2, nói như sau: "Này                              các Ðại-đức, vì sao chúng ta đã có lòng tin, xuất                              gia, cùng sống trong một chánh pháp mà tranh cãi                              nhau, khiến cho cùng sống chung mà bất hòa, hai bộ                              chúng không nhường nhịn nhau, người nào cũng sinh ra                              ác tâm, lời qua tiếng lại, không tùy thuận pháp,                              việc không hay đã khởi lên. Tất cả đều do không khéo                              tư duy mà đến như thế, khiến cho hiện đời này sống                              khốn khổ, đời sau đọa vào ác đạo. Này các Ðại-đức,                              chúng ta ai nấy nên bỏ sự tranh cãi này, như rải cỏ                              trên đất. Nay tôi hướng đến các Trưởng lão sám hối,                              mỗi người nên nguôi giận, hòa hợp cùng sống chung".                              Này A-nan, nếu Bộ                              chúng thứ 2 tất cả đều im lặng, tỏ sự đồng ý, thì                              một vị có đức hạnh, thông minh, biện tài thuộc bộ                              chúng này, liền đứng dậy sám hối. Cách sám hối cũng                              như trên đã nói. Này A-nan, nếu có sự tranh cãi khởi                              lên trong Tăng như vậy, thì phải cấp tốc tập họp                              Tăng, căn cứ vào pháp, luật mà dập tắt sự tranh cãi                              ấy, như dùng cỏ rải trên đất. Này A-nan, tất cả mọi                              sự tranh cãi như đánh nhau, tát nhau, lôi ra khỏi                              phòng, đại loại như vậy, hoặc nói 2 lưỡi, vu khống                              vô căn cứ .v.v. Các tội như vậy, đều nên dùng nguyên                              tắc như rải cỏ trên đất dập tắt . Khi đã dùng phương                              pháp như rải cỏ tên đất để dập tắt rồi, mà có                              Tỉ-kheo khách, thậm chí Tỉ-kheo mới thọ giới làm                              phát sinh trở lại, thì phạm Ba-dạ-đề.                              Tóm lại, những                              việc làm của chúng Tăng đều như pháp thực hiện, như                              pháp tập họp, như pháp giải trừ, như pháp xả bỏ, như                              pháp ban cho, nói chung, những việc làm của các                              Tỉ-kheo đệ tử Thế Tôn có vô lượng phương tiện như                              vậy, đều nên áp dụng bảy diệt tránh để dập tắt mọi                              sự tranh cãi. Ðó gọi là những việc thường làm. Thế                              nên nói (như trên).                                                                                                                                                  5. GIỚI: THUYẾT PHÁP CHO PHỤ NỮ QUÁ GIỚI HẠN.                               Khi Phật an trú                              tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ Tôn-giả                              Ưu-đà-di đến giờ khất thực, liền khoác y, cầm bát                              vào thành tuần tự khất thực, tới một nhà kia [335c]                              Thầy bèn thuyết pháp cho nhiều phụ nữ. Lúc ấy, tôn                              giả A-nan cũng tuần tự khất thực, đến gia đình ấy,                              thấy thế, liền hỏi: "Trưởng lão đang làm gì đấy?"                              Ưu-đà-di đáp:                              "Tôi thuyết pháp cho các phụ nữ này".                              Tôn giả A-na liền                              nói với Ưu-đà-di: "Vì sao đã nhân danh là Tỉ-kheo,                              trong lúc không có người nam hiểu biết, chỉ có một                              mình thuyết pháp cho phụ nữ?"                              Sau khi A-nan                              khất thực về, ăn xong, bèn đi đến chỗ Thế Tôn, cúi                              đầu đảnh lễ chân Phật, rồi đem sự việc trên bạch đầy                              đủ lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Ưu-đà-di đến. Sau                              khi Thầy đến rồi, Phật liền hỏi: "Ông có làm việc đó                              thật không?"                              Thầy đáp: "Có                              thật như vậy, bạch Thế Tôn".                              Phật khiển trách:                              "Ðó là việc xấu. Vì sao trong lúc không có đàn ông                              hiểu biết mà ông thuyết pháp cho phụ nữ? Từ nay về                              sau, ta không cho phép (Tỉ-kheo), trong lúc không có                              đàn ông hiểu biết, mà thuyết pháp cho phụ nữ".                              Lại nữa, khi Phật                              an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ,                              tôn giả Ưu -đà-di đến giờ khất thực bèn khoác y, cầm                              bát vào thành tuần tự khất thực, đến một nhà kia,                              liền thuyết pháp cho nhiều phụ nữ nghe. Lúc ấy, tôn                              giả A-nan cũng tuần tự khất thực, đến ngay nhà đó,                              trông thấy thế, bèn hỏi:                              - Trưởng lão đang                              làm gì đấy?                              - Ðang thuyết                              pháp cho các phụ nữ.                              - Trưởng lão                              không nghe Thế Tôn nói rằng không có đàn ông thì                              không được thuyết pháp cho phụ nữ sao?                              - Này A-nan, ông                              không thấy người đá này, người gỗ này, người cỏ này,                              người họa này sao? Một người cũng đủ, huống chi                              nhiều người?.                              Tôn giả A-nan sau                              khi khất thực trở về, ăn xong, bèn đem sự kiện ấy                              bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Ưu-đà-di                              đến. Khi Thầy đến rồi, Phật liền hỏi: "Ông có thật                              như vậy chăng?"                              Thầy đáp: "Có                              thật như vậy"                              Phật nói: "Này                              Ưu-đà-di , vì sao ông lại tự xem mình như người đàn                              ông vô tâm, trong sạch mà thuyết pháp cho phụ nữ? Từ                              nay về sau, ta không cho phép Tỉ-kheo tự xem mình                              như người đàn ông vô tâm, trong sạch mà thuyết pháp                              cho phụ nữ".                              Lại nữa, khi Phật                              an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên. Lúc ấy                              Ưu-đà-di đến giờ khất thực, liền khoác y, cầm bát đi                              vào thành Xá-vệ..., cho đến đáp tôn giả A-nan: "Ông                              không thấy đứa trẻ được bồng trên tay kia, đứa trẻ                              đang bú, đứa trẻ đang nằm hay sao? Một người cũng                              đủ, huống chi nhiều người".                              Tôn giả A-nan sau                              khi khất thực trở về, ăn xong, bèn đem sự kiện ấy                              bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Ưu - đà-                              di đến. Khi Thầy đến rồi, Phật liền hỏi: "Ông có                              điều đó thật chăng?"                              Thầy đáp: "Có                              thật như vậy".                              Phật nói: "Này                              Ưu-đà-di , vì sao ông lại tự ví mình trong sạch như                              đứa trẻ con mà thuyết pháp cho phụ nữ? Từ nay về                              sau, các Tỉ-kheo không được tự xem mình như đứa bé                              đang bú mà thuyết pháp cho phụ nữ".                              [336a] Lại nữa,                              khi Phật an trú tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên.                              Bấy giờ, Tì-xá-khư Lộc-mẫu bị bệnh. Do đó, tôn giả                              A-nan sáng sớm khoác y đi đến đó thăm bệnh, hỏi:                              "Ưu-bà-di, bệnh tình thế nào? Có khổ não lắm không?"                              Bà đáp: "Bệnh                              tình không thuyên giảm, không thể chịu nổi, xin                              Tôn-giả hãy thuyết pháp cho con nghe".                              A-nan đáp: "Ðức                              Thế Tôn không cho phép Tỉ-kheo không có tịnh nhân mà                              thuyết pháp cho phụ nữ".                              - Nếu không được                              nói nhiều, thì có thể nói cho con chừng 5, 6 lời                              được không?".                              - Tôi không biết                              có được hay không, nên không dám tự tiện nói.                              - Xin cảm ơn                              Thầy.                              - Cầu mong bệnh                              tật chóng hết.                              Tôn giả A-nan nói                              xong, bèn từ giã, trở về chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ                              chân Phật rồi đứng hầu một bên. Phật biết mà vẫn                              hỏi: "A-nan, ông từ đâu trở về?"                              A-nan bèn đem sự                              kiện trên bạch đầy đủ với Phật, Phật liền nói với                              A-nan: "Tì-xá-khư Lộc-mẫu là người trí tuệ. Nếu ông                              nói 5, 6 lời thì bệnh bà ấy liền bớt, được sống an                              lạc. Từ nay về sau, ta cho phép (Tỉ-kheo) khi không                              có đàn ông, được thuyết pháp cho phụ nữ 5, 6 lời".                              Thế rồi, Phật                              truyền lệnh cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành                              Xá-vệ phải tập họp lại tất cả, vì 10 lợi ích mà chế                              giới cho các Tỉ-kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe                              lại:                              -- "Nếu                              Tỉ-kheo, không có tịnh nhân mà thuyết pháp cho phụ                              nữ quá 5, 6 lời thì phạm Ba-dạ-đề, ngoại trừ trường                              hợp có đàn ông hiểu biết tham dự".                              Giải thích:                              - Không có                              đàn ông hiểu biết: Nếu người đó mù, hoặc                              điếc thì cũng được xem là không có tịnh nhân. Nếu có                              2 người mà một mù, một điếc, thì được xem là một                              tịnh nhân. Nhưng có tịnh nhân đang nằm ngủ thì cũng                              được xem là không có đàn ông.                              - Phụ nữ:                              Những người ấy hoặc là mẹ, chị em, hoặc lớn, hoặc                              nhỏ, hoặc tại gia, xuất gia.                              - Pháp:                              Những điều Phật nói, hoặc được Phật ấn chứng.                              Những điều Phật nói nghĩa là chính miệng Phật tự nói                              ra. Phật ấn chứng nghĩa là những điều do đệ tử Phật                              hoặc người khác nói, rồi Phật chuẩn nhận.                              - Nói:                              Dạy, đọc tụng, hoặc giải thích.                              - Năm, sáu                              lời: Gồm có 2 loại câu dài và câu ngắn. Câu                              dài như "Tất cả việc ác chớ làm". Câu ngắn như "Mắt                              là vô thường".                              - Ngoại trừ                              có người đàn ông hiểu biết:                              Nếu trẻ em dưới 7 tuổi không hiểu được ý nghĩa của                              lời nói tốt, xấu thì không thể gọi là đàn ông hiểu                              biết. Nhưng nếu hơn 7 tuổi mà không hiểu được ý                              nghĩa của lời nói tốt xấu thì cũng gọi là người đàn                              ông vô tri. Trái lại, nếu 7 tuổi hoặc hơn 7 tuổi mà                              hiểu được ý nghĩa của lời nói tốt xấu, thì gọi là                              người đàn ông hiểu biết.                              Lại nữa, nếu có                              phụ nữ sáng sớm đến lễ tháp, rồi sang đảnh lễ                              Tỉ-kheo, [336b] bạch rằng: "Thưa Tôn-giả, tôi muốn                              nghe pháp, xin Tôn-giả thuyết pháp cho tôi nghe",                              thì khi ấy, Tỉ-kheo được nói một câu rưỡi kệ. Thế                              rồi, Tỉ-kheo ấy đi vào thôn xóm, nếu lại nói 5,6 lời                              nữa cho người phụ nữ ấy thì phạm Ba-dạ-đề. Sở dĩ đức                              Thế Tôn chế ra giới nói 5,6 lời, là nói về số lượng                              lời nói trong một ngày.                              Nếu Tỉ-kheo sống                              tại A-luyện-nhã mà có phụ nữ đến lễ tháp, rồi sang                              đảnh lễ Tỉ-kheo, bạch rằng: "Thưa Tôn-giả, xin                              Tôn-giả thuyết pháp cho tôi nghe", thì Tỉ-kheo nên                              nói với phụ nữ ấy rằng: "Ðức Thế Tôn chế giới, không                              có tịnh nhân, thì không được thuyết pháp cho phụ                              nữ". Thế rồi, người phụ nữ ấy bạch với Tỉ-kheo: "Tôi                              biết Phật pháp, vậy xin hãy nói cho tôi nghe trong                              mức độ mà Thế Tôn cho phép", thì khi ấy Tỉ-kheo được                              nói với phụ nữ ấy một câu kệ rưỡi. Nếu 2 người thì                              được nói 3 câu kệ, không có tội.                              Nếu Tỉ-kheo vào                              xóm làng để giáo hóa, rồi có nhiều phụ nữ đến muốn                              nghe pháp, thì mỗi mỗi được nói 6 câu. Trước hết,                              nên nói với phụ nữ thứ nhất: "Tôi nói cho cô 6 câu",                              rồi nói với phụ nữ thứ 2: "Tôi nói cho cô 6 câu".                              Như vậy thì nói cho nhiều người vẫn không có tội.                              Thế rồi, Tỉ-kheo từ giã, các phụ nữ liền đảnh lễ                              dưới chân Tỉ-kheo để tiễn biệt. Nếu khi ấy, Tỉ-kheo                              chú nguyện: "Mong cho cô nhanh chóng chấm dứt khổ                              đau", thì phạm Ba-dạ-đề. Nhưng nếu nói: "Mong cho cô                              không đau ốm, được sống an lạc", thì không có tội.                              Tỉ-kheo rời khỏi                              nhà ấy liền đến nhà khác thuyết pháp, rồi người phụ                              nữ trước đó bèn đi theo, đứng ở bên ngoài nghe, thấy                              thế, Tỉ-kheo hỏi: "Cô cũng đi theo nghe sao?". Cô ta                              đáp: "Vâng". Nếu Tỉ-kheo nói: "Cô đã thâm tín, ưa                              thích pháp như vậy, thì có thể nghe", thì phạm tội                              Ba-dạ-đề. Trái lại, tuy thấy người phụ nữ ấy mà                              không hỏi chỉ lo thuyết pháp cho các phụ nữ khác,                              thì dù phụ nữ ấy nghe pháp Tỉ-kheo cũng không có                              tội.                              Nếu Tỉ-kheo                              thuyết pháp cho phụ nữ trong khi không có tịnh nhân                              ngồi trong phòng nghe pháp, nhưng có người giúp việc                              đi qua lại, vào ra, hoặc có người ở bên ngoài , trên                              gác dưới gác nghe thấy được nhau, thì không có tội.                              Nếu nhà của người                              thế tục hướng về mặt đường, Tỉ-kheo ở trong đó                              thuyết pháp cho phụ nữ, dù không có tịnh nhân, nhưng                              người đi trên đường không dứt, họ đều có thể nghe                              thấy được, thì cũng không có tội. Trái lại, nếu                              người đi trên đường gián đoạn, không nghe thấy được,                              thì không nên thuyết.                              Nếu có phụ nữ đến                              lễ tháp, rồi tới bạch với Tỉ-kheo: "Thưa Tôn-giả,                              đây là tháp gì vậy? Xin nói cho tôi biết tên chỗ                              này". Khi ấy, Tỉ-kheo được phép nói: "Ðó là tháp chỗ                              (Phật) đãn sinh, tháp chỗ Phật đắc đạo, tháp chỗ                              Phật Chuyển pháp luân, tháp chỗ Phật Niết-bàn", tùy                              họ hỏi việc gì, đều được phép trả lời, mà không có                              tội.                              - Có 4 loại                              tịnh nhân:                              Hoặc thấy mà không nghe, hoặc nghe mà không thấy,                              hoặc vừa thấy vừa nghe, hoặc chẳng thấy chẳng nghe.                              [336c] -                              Thấy mà không nghe: Mắt trông thấy Tỉ-kheo                              với phụ nữ mà không nghe tiếng nói. (cũng tương tự                              như vậy đối với 3 trường hợp kia). Trong trường hợp                              này (Tỉ-kheo) phạm tội Việt-tì-ni. Nghe mà không                              thấy cũng như vậy. Không thấy, không nghe thì phạm                              Ba-dạ-đề. Vừa thấy vừa nghe thì không có tội. Thế                              nên nói (như trên).                                                                                                                                                  6. GIỚI: DẠY NGƯỜI CHƯA THỌ CỤ TÚC ÐỌC TỤNG.                              Khi Phật an trú                              tại thành Khoáng Dã, nói rộng như trên. Bấy giờ có                              Thầy Tỉ-kheo quản sự dạy nhiều đồng tử (nhi đồng)                              đọc từng câu, từng câu Ba-la-da-na (?). Khi nghe                              thế, một Bà-la-môn suy nghĩ: "Nơi nào mà có pháp                              thuần thiện thù thắng như thế! Ta nên đến đó xin                              xuất gia". Suy nghĩ thế rồi, ông bèn đi đến tinh xá                              Khoáng dã, định xin xuất gia, nhưng thấy Tỉ-kheo dạy                              các đồng tử đọc tụng, giống như âm thanh đọc tụng                              của các em học sinh trong các trường học, nên ông                              suy nghĩ: "Nay ta muốn cầu pháp thù thắng, theo họ                              xuất gia, thế mà nghe giọng đọc ê, a ở đây giống như                              giọng đọc của các em học sinh trong các trường học,                              lại không thể nhận ra ai là Thầy, ai là học trò".                              Thấy vậy, nên ông                              sinh tâm không kính tín, do đó cũng không yết kiến                              Phật, mà trở về nhà, không xuất gia nữa.                              Các Tỉ-kheo bèn                              đem sự kiện ấy đến bạch đầy đủ với Thế Tôn. Phật                              liền bảo gọi Tỉ-kheo quản sự đến. Khi Thầy đến rồi,                              Phật hỏi: "Ông có thật như vậy chăng?".                              Thầy đáp: "Có                              thật như vậy, bạch Thế Tôn".                              Phật liền khiển                              trách: "Ðó là việc xấu. Vì sao ông dạy người chưa                              thọ giới cụ túc tụng cú pháp? Từ nay về sau ta không                              cho phép Tỉ-kheo dạy người chưa thọ giới cụ túc tụng                              cú pháp". Thế rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỉ-kheo                              đang sống tại thành khoáng Dã phải tập họp lại tất                              cả, vì 10 lợi ích mà chế giới cho các                              Ðà-phiêu-ma-la-tử , dù ai nghe rồi cũng phải nghe                              lại:                              -- "Nếu                              Tỉ-kheo dạy người chưa thọ giới cụ túc đọc cú pháp                              thì phạm Ba-dạ-đề".                              Giải thích:                              - Người                              chưa thọ giới cụ túc: Chưa trở thành                              Tỉ-kheo, Tỉ-kheo-ni; tuy Tỉ-kheo-ni đã thọ giới cụ                              túc nhưng cũng không được dạy.                              - Cú:                              Cùng đọc tụng từng câu chữ, câu chữ.                              - Pháp:                              Những gì do Phật nói, do Phật ấn chứng. Những gì do                              Phật nói nghĩa là do Phật tự nói ra. Những gì do                              Phật ấn chứng nghĩa là những điều do đệ tử thanh văn                              và những người khác nói được Phật chuẩn nhận, chẳng                              hạn các pháp thiện cho đến Niết-bàn. Ðó gọi là pháp.                              - Dạy:                              Vì họ mà nói, chỉ dạy bằng lời.                              Nếu Tỉ-kheo dạy                              người chưa thọ giới cụ túc đọc câu "Mắt là vô                              thường", rồi một lần đọc lên, một lần lập lại và một                              lần gián đoạn, mà Thầy trò cùng đọc vui vẻ, lưu                              loát, thì phạm Ba-dạ-đề. Ðối với tai, mũi, lưỡi,                              thân, ý, 18 giới, 5 ấm, 6 giới, cho đến các pháp                              khổ, không, vô thường, vô ngã cũng như vậy.                              [337a] Nếu                              Tỉ-kheo dạy đệ tử đồng hành, đệ tử y chỉ các loại                              kinh như kinh Ba-la-da-na, kinh Luận nạn, kinh A nậu                              đạt trì, kinh Duyên giác ..., mà đệ tử cùng đọc lên,                              cùng lập lại, cùng gián đoạn, thì Thầy nên bảo đệ tử                              như sau: "Ngươi đợi ta đọc dứt câu rồi ngươi mới                              đọc". Nếu dạy như vậy mà đệ tử không vâng lời, thì                              không nên dạy nữa. Nếu đệ tử nói: "Xin Thầy dạy cho                              con kinh khác", thì lúc ấy, Thầy nên bảo: "Nếu ngươi                              không đọc theo ta, thì ta sẽ dạy ngươi tiếp". Ðối                              với các đệ tử như vậy, cho đến các Ưu-bà-tắc,                              Ưu-bà-di, gặp trường hợp như thế, cũng không được                              dạy.                              Nếu các Tỉ-kheo                              cùng tụng kinh, thì Thượng tọa nên tụng, còn Hạ tọa                              nên chú tâm im lặng theo dõi. Nếu Thượng Tọa tụng                              không lưu loát, thì Hạ tọa nên tụng, còn Thượng tọa,                              nên chú tâm âm thầm tụng theo, cho đến Ưu-bà-di cũng                              như vậy.                              Khi trong Tăng                              chúng cùng xướng đọc kệ, thì (mọi người) không được                              cùng đọc một bài kệ, mà lúc ấy mỗi người nên đọc một                              bài kệ khác nhau (?). Thế nên nói (như trên).                                                                                                                                                  7. GIỚI: NÓI THẬT RẰNG MÌNH ÐẮC ÐẠO.                              Khi Phật an trú                              tại thành Xá-vệ, nói rộng như trên, cũng như trong                              giới vọng ngữ thứ tư đã nói rõ nhân duyên các sự                              việc, chỗ khác nhau là ở đây nói thật, cho đến chỗ                              Phật nói với các Tỉ-kheo: "Ðó là việc xấu, ví như                              dâm nữ bán nhan sắc để tự nuôi sống. Các ông cũng                              vậy, dùng pháp chân thật vi diệu để nói với người,                              thì chẳng khác gì dâm nữ vì miệng, bụng mà bán nhan                              sắc để nuôi mạng sống". Thế rồi, Phật truyền lệnh                              cho các Tỉ-kheo đang sống tại thành Xá-vệ phải tập                              họp lại tất cả, vì 10 lợi ích mà chế giới cho các                              Tỉ- kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                              -- "Nếu                              Tỉ-kheo tự xưng mình đã được pháp hơn người, rằng:                              "Tôi biết như vậy, thấy như vậy", dù đó là nói thật,                              cũng phạm tội Ba-dạ-đề".                              Giải thích:                              - Tự xưng                              được pháp hơn người: Pháp hơn người như                              trước đã nói. Nếu tự nói: "Tôi được pháp trí                              chăng?", thì phạm tội Việt-tì-ni tâm niệm sám hối.                              Nếu nói: "Tôi được pháp trí", thì phạm tội                              việt-tì-ni. Nếu nói: "Tôi đã chứng đắc pháp trí",                              thì phạm Ba-dạ-đề, từng câu, từng câu như trên đã                              nói rõ, cho đến nói thật về 10 pháp vô học, thì phạm                              Ba-da-đề.                              Nếu Tỉ-kheo nói                              với người nữ: "Các Tỉ-kheo an cư tại chỗ kia đều                              chẳng phải là phàm phu", thì phạm tội Việt- tì-ni                              tâm niệm sám hối. Nếu họ hỏi: "Tôn giả cũng ở trong                              đó chăng?", rồi đáp: "Cũng ở trong đó", thì phạm tội                              Việt-tì-ni. Nếu Ưu-bà-di hỏi: "Tôn giả cũng được                              pháp ấy chăng?", rồi đáp: "Ðược", thì dù là nói                              thật, cũng phạm Ba-dạ-đề.                              Nếu Tỉ-kheo nói                              với Ưu-bà-di: "Tỉ-kheo tự tứ tại chỗ kia chẳng phải                              phàm phu, đều là A-la-hán", thì phạm tội Việt-tì-ni                              tâm niệm sám hối. Nếu Ưu-bà-di hỏi: "[337b]Tôn giả                              cũng tự tứ tại đó chăng?", rồi đáp: "Ðúng vậy", thì                              phạm tội Việt-tì-ni. Nếu lại hỏi: "Tôn giả cũng đắc                              quả A-la-hán chăng?", mà đáp: "Ðắc", thì dù cho nói                              thật cũng phạm tội Ba-dạ-đề.                              Nếu Tỉ-kheo nói:                              "Tỉ kheo Thắng-lí ở nơi kia thường đến nhà của vua,                              nhà của Ðại thần, nhà của trưởng giả, nhà cư sĩ, nhà                              của ngươi và nhà bà con ngươi dạy kinh, Thầy ấy đi,                              đứng, nằm, ngồi như vậy, ăn thức ăn như vậy(đắc quả                              A-la-hán)"Thì cũng như vậy (tức là phạm Ba-dạ-đề).                              Nếu dùng lời nói                              ở trung tâm đất nước mà nói với người ở biên thùy,                              hoặc dùng lời nói của biên thùy mà nói với người ở                              trung tâm đất nước, hoặc dùng lời nói ở trung tâm                              đất nước nói với người ở trung tâm đất nước, hoặc                              dùng lời nói ở biên thùy, nói với người ở biên thùy,                              nếu nói nghĩa mà không nói ẩn ý, thì phạm tội                              Việt-tì-ni. Nếu nói ẩn ý mà không nói nghĩa, thì                              phạm tội Việt-tì-ni tâm niệm sám hối. Nếu nói nghĩa                              và nói cả ẩn ý thì phạm tội Ba-dạ-đề. Nếu không nói                              nghĩa cũng không nói ẩn ý thì không có tội. Nếu viết                              ra chữ, dùng tay ra dấu, biểu thị nghĩa mà không                              biểu thị ẩn ý, thì phạm tội Việt-tì-ni. Nếu biểu thị                              ẩn ý mà không biểu thị nghĩa, thì phạm tội                              Việt-tì-ni tâm niệm sám hối. Nếu biểu thị nghĩa và                              biểu thị ẩn ý, thì phạm tội Thâu-lan-giá. Nếu không                              biểu thị nghĩa, không biểu thị ẩn ý, thì không có                              tội. Cuối cùng cho đến hiện tướng A-la-hán, thì phạm                              tội Việt-tì-ni tâm niệm sám hối. Thế nên nói (như                              trên).
Hán dịch:                  Tam Tạng Phật Đà La người Thiên Trúc, cùng Samôn Pháp Hiển, đời                  Đông Tấn, Trung Quốc 
