Từ song thân, quyết chí bận truy y, ý muốn siêu lên chỗ bực nào! Mai chiều nghĩ xét, đâu nên chần chờ qua giờ!
Câu đầu là chỉ rõ nơi gốc. Câu hai là gạn hỏi lại. Hai câu sau là nhớ nơi gốc, phải chuyên mộ đạo.
Từ thân quyết chí bận truy y là phát cái tâm dũng mãnh, để tạm thời từ giã đôi thân, lập cái chí quyết định, đi sâu vào đại đạo.
ý muốn là cái chỗ của ý thức hi vọng. Vượt lên chỗ bực nào vì vượt lên giai cấp chi? Đồng bực (đẳng) với Phật Tổ nào?
Mai chiều nhớ xét… ta chưa rõ được lòng dạ của ta (chưa minh tâm kiến tánh), cái sanh tử ở trong hơi hô hấp, với chỗ vắng lặng lo lường, đâu chẳng lo cho cần cấp mà có thể còn dời đổi chần chờ, kéo dài cho qua thời, để luống mất qua tấc bóng ngày đêm ru!?
Ký: Người mà được đốn ngộ (14), tức siêu hẳn giai cấp (15), tình thức (16) quên hết, tức đồng với Phật, vì đã chuyển thức thành trí rồi.
Truyện Bửu Lâm chép “Dương Huyễn Chi hỏi Tổ Đạt -ma rằng “Bên nước Tây Trúc, chỗ truyền với nhau mà xưng Tổ là như thế nào?” “Rõ được cái tâm tông của Phật (minh tâm kiến tánh), sự rõ và lý hiểu xứng nhau, gọi là Tổ Sư””.
Truy: màu đen thâm thâm có ửng đỏ, tức hoại sắc y, chính là y phục của Sa -môn thường bận, phi năm màu chính (thực xanh, thực đỏ, thực trắng, thực đen và thực vàng). Cám: xanh mà có ửng màu.
Lòng hẹn làm đống lương cho Phật pháp, để làm qui cánh cho hậu lai. Thường mong lấy cái hi vọng như thế mà, chưa được ảnh hưởng nhau chút nào?
Hai câu trên lập chí nguyện để lại mô phạm. Câu thứ ba cái chí nguyện vẫn còn. Câu thứ bốn sự hành và lý hiểu chưa đủ. Lại, câu ba là túng, tức buông ra cái chí nguyện. Câu bốn là đoạt, tức bắt lại, vì hạnh nguyện bị hỏng.
Lòng hẹn làm rường cốt Phật pháp phát tâm lập nguyện để gánh giữ cái chánh pháp của Như Lai.
Dùng làm bối gương cho hậu lai là để mẫu mực cho học giả đương lai.
Qui kính tức là nghĩa sư phạm. Do vì cái mai qui để bói cho biết những sự đã qua và sẽ đến; cái gương cốt soi rõ được hình tốt xấu trước mặt.
Thường lấy như thế là cái chí nguyện chẳng quên vậy.
Chưa thể chút phần hợp nhau. Tuy sẵn chí nguyện mà hành và giải chưa đủ; ắt cần hành giải tương ưng thì, cái nguyện mới chẳng hỏng. Nhược bằng, có hành mà không nguyện; thì cái hành ắt phải côi quạnh; có nguyện mà không hành thì cái nguyện ắt phải lép. Vậy biết, vừa hành vừa nguyện được song toàn; mới là tương ưng.
Ký: Chỏi đòn dông nhà là cây đống. Đội cây đống là cây lương. Đều có nghĩa là nó hay cõng đội nóc nhà.
Nay đây mượn hai chữ “đống lương”, để tỷ là bực thầy thợ, hay làm đống lương trong pháp môn, do vì hai ngôi Phật bảo, Pháp bảo đều nhờ ngôi Tăng bảo để hoằng truyền, nên nói “Nhân năng hoằng đạo, phi đạo hoằng nhân”, thực thế.
Thốt lời, cần quan thiệp với điển chương, nói chuyện, phải bàng thông nơi kê cổ. Dung nghi phải đúng đắn, chí khí cho rỗng rang.
Hai câu trên lời nói có gốc gác. Hai câu dưới thân tâm tỏ đồ sộ. Nghĩa là, nói năng phải hợp lý nơi kinh điển, luận bàn cốt đúng do rộng xét xưa. Chẳng nên đem ý kiến đặt điều, đồng như lời ma thuyết.
Song, trí hiểu đủ thì lời nói không lầm, công hạnh đầy thì vững vàng cao rảnh. Lại, trong chứa đủ trí đức Bát -nhã, tâm rảnh hướng về một nơi, các trò đời danh lợi thanh sắc không thể làm động đến chí cả. Hằng dùng cái đạo hạnh để tự xử, nên nói là “ý khí cao nhàn”. Ngoài bày đủ giới đức uy nghi, chẳng giống hạng phàm, siêu quần quán chúng, thế là “hình nghi đĩnh đạt).
Ký: Bực Cao Tăng như ngài Pháp An là một Tăng nhân xứng đáng, cái thân của Ngài cao tám thước, có ba đặc điểm tuyệt vời: 1-Tư cách đặc sắc, 2-Hiểu nghĩa tột sâu, 3-Tinh tấn sạch mình.
Cảnh Đức Vân pháp sư nói “ôn làu giáo pháp ba tạng của biển giáo, xem suốt lời lẽ Sáu Kinh (17) của rừng nhu (18). Nói không quấy bàn, lời có sách cứ”. Đây gọi cũng thế.
Điển là điển tịch, tức các kinh luật luận. Chương là chương chú, là những bài giải thích trong các kinh luật luận. Bàng là gần bên. Kê là khảo xét, là những lời và câu của các vị cổ đức.