Phương pháp thứ hai là hoán chuyển ngã tha. Mục đích pháp
tu này là để thấy giữa mình và người vốn không sai khác. Xét
về ước muốn bẩm sinh là cầu hạnh phúc tránh khổ đau, mình
với người hoàn toàn như nhau. Phải nghĩ rằng: “Tôi có quyền
toàn thành ước muốn bẩm sinh là tìm hạnh phúc tránh khổ
đau, người khác cũng vậy. Tôi có khả năng làm tròn ước muốn
này, người khác cũng vậy.” Sự khác biệt giữa tôi và người
khác chỉ nằm ở con số: tôi chỉ có một, còn người khác lại
nhiều không kể xiết. Vậy thử hỏi tôi và người khác, bên nào
quan trọng hơn?
Khi suy nghĩ so sánh về lợi ích của mình và của người, bình
thường ai cũng thấy hai điều này không liên quan gì đến nhau.
Sự thật không như vậy. Người nào cũng là một thành phần
trong một cộng đồng nào đó, luôn thuộc về cả một cấu trúc xã
hội phức tạp. Bất cứ điều gì xảy ra trong đời sống cá nhân
cũng tạo ảnh hưởng trên toàn thể cộng đồng. Ngược lại, bất cứ
điều gì tác động trên cộng đồng cũng sẽ ảnh hưởng đến đời
sống cá nhân.
Ngoài ra, nếu thật sự tâm ái ngã có khả năng thỏa mãn nguyện
vọng cá nhân và mang lại hạnh phúc, thử nghĩ kể từ khi sinh ra
và từ vô lượng kiếp về trước, chúng ta đã không ngừng làm
như vậy, hẳn đã phải thành công, đã đạt hạnh phúc từ lâu.
Nhưng rõ ràng là vẫn chưa thành công. Phải thấy rằng thói
quen ái ngã không bao giờ có thể mang lại hạnh phúc chân
thật, và cũng không thể giải thoát bất cứ một ai, kể cả cái tôi
mà chúng ta rất đỗi cưng quí.
Ngược lại, ngài Tịch Thiên trong cuốn Nhập Bồ Đề Hành
Luận có nói, nếu trong quá khứ chúng ta biết xoay ngược thái
độ, vất bỏ tinh thần cầu lợi cho mình để mở lòng quan tâm đến
tất cả, theo đuổi con đường tu học với thái độ vị tha, chắc chắn
bây giờ chúng ta đã giác ngộ từ lâu. Ngài viết:
Nếu một kiếp nào đó
Bạn đã từng như vậy
[Mở rộng tâm ái ngã
Chuyển thành tâm vị tha]
Thì bây giờ không thể
Ðang ở chốn nào khác
Hơn là chốn an lạc
Của một đấng Phật đà. (30)