Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (36)


Xem mục lục

IV. SỨC CỦA THẦN CHÚ 
LÀM TIÊU NGHIỆP CHƯỚNG TẠO PHƯỚC ĐỨC, SỐNG CHÂN THƯỜNG

Kinh : “Này Anan, như các thế giới, theo chỗ cõi nước có chúng sanh tùy theo sản vật nước mình có : vỏ cây hoa, lá bối, giấy trắng, lụa bạch mà viết chép Chú này, đựng trong túi hương. Người này tâm u tối chưa thể tụng nhớ thì mang trong người hoặc viết trong nhà, phải biết rằng người đó suốt đời không bị tất cả các thứ độc làm hại.

“Anan, nay Ta vì ông nói lại Chú này để cứu hộ thế gian được Đại Vô Úy và thành tựu Trí Xuất Thế Gian của chúng sanh.

“Như sau khi Ta diệt độ, chúng sanh đời mạt thế có người tự tụng hay dạy người khác tụng, phải biết những chúng sanh trì tụng như thế : lửa không thể thiêu; nước chẳng thể chìm; độc yếu, độc mạnh không thể hại được. Cho đến các Chú ác dữ của Thiên, Long, Quỷ, Thần, tinh kỳ, ma mị đều không làm gì nổi, tâm được Chánh Thọ. Tất cả bùa chú, trùng độc, thuốc độc, kim khí độc địa, cỏ cây, trùng rắn, khí độc muôn thứ vào trong miệng người ấy đều thành vị cam lồ. Hết thảy ác tinh cùng các quỷ thần lòng dữ hại người, đối với người ấy không thể khởi ra niệm ác. Tần Na, Dạ Ca, các quỷ vương ác độc cùng với quyến thuộc đều chịu ơn sâu, thường ủng hộ che chở.

“Anan, phải biết Chú này thường có tám vạn bốn ngàn na do tha hằng hà sa cu chi chủng tộc Kim Cang Tạng Bồ Tát mỗi mỗi đều có các chúng Kim Cang làm quyến thuộc, ngày đêm theo hầu. Giả sử có chúng sanh tâm còn tán loạn, chưa vào Tam Ma Địa mà lòng nhớ, miệng trì Chú này thì các Kim Cang Vương thường theo bên mình. Huống là người phát tâm Bồ Đề quyết định thì các vị Kim Cang Tạng Vương Bồ Tát ấy sẽ tinh thành âm thầm phù trợ mà phát khởi thần thức người đó, khiến cho người ấy đúng lúc nhớ lại được tám mươi bốn ngàn hằng hà sa kiếp, rõ biết khắp cả, không còn nghi hoặc. Từ kiếp thứ nhất cho đến thân sau cùng, đời đời không sanh vào các loài dược xoa, la sát, phú đơn na, ca tra phú đơn na, cưu bàn trà, tỳ xá giá... và các ngạ quỷ hữu hình hay vô hình, có tưởng hay không tưởng, và những chốn dữ như thế. Người thiện nam này, hoặc đọc hoặc tụng, hoặc viết hoặc chép, hoặc đeo hoặc cất, hoặc cúng dường nhiều cách Thần Chú này thì kiếp kiếp chẳng sanh vào chỗ không vui, bần cùng hạ tiện. 

“Các chúng sanh ấy, dù tự mình chẳng làm nghiệp phước mà công đức của mười phương Như Lai hẳn thông cho người này. Do vậy mà trải qua a tăng kỳ bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp thường được cùng Chư Phật sanh ở một nơi, vô lượng công đức nhóm lại như chùm cây ác-xoa thành đồng một chỗ huân tu, vĩnh viễn không phân tán. Thế nên có thể khiến người đã phá Giới được Giới Căn thanh tịnh; người chưa đắc Giới khiến người cho đắc Giới; người chưa Tinh Tấn khiến đắc Tinh Tấn; người không Trí Huệ khiến đắc Trí Huệ; người không Thanh Tịnh chóng đắc Thanh Tịnh; người chẳng giữ Trai Giới tự thành Trai Giới. Anan, người thiện nam đó khi trì Chú này, giả sử có phạm Cấm Giới khi chưa thọ trì thì sau khi trì Chú hết thảy tội Phá Giới, không kể nặng nhẹ, nhất thời tiêu diệt. Dù đã từng uống rượu, ăn năm thứ rau cay, các thứ bất tịnh thì tất cả Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cang, Tiên Thiên, Quỷ Thần không cho là lỗi. Giả sử mặc y phục không sạch rách nát thì mỗi cử chỉ đi đứng thảy đồng thanh tịnh. Dù không lập đàn, chẳng vào Đạo Tràng cũng không hành đạo mà trì tụng Chú này thì công đức so vào Đàn, hành đạo giống nhau không khác. Nếu tạo trọng tội Ngũ Nghịch, Vô Gián và tội Tứ Khí, Bát Khí của Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni mà tụng Chú này rồi thì các nghiệp nặng như vậy hẳn đều diệt hết như gió mạnh thổi tan đống cát không còn chút gì. Anan, nếu có chúng sanh chưa hề sám hối hết thảy tội chướng nặng nhẹ từ vô lượng vô số kiếp đến giờ mà nay có thể đọc tụng Chú này, đeo giữ trên người hay để nơi chỗ ở như trại, nhà vườn, quán... thì những nghiệp chứa nhóm trước kia đều tiêu tan như nuớc sôi trên tuyết, chẳng bao lâu đều được ngộ Vô Sanh Nhẫn.

Thông rằng : Chỗ này nói về thành tựu Trí Xuất Thế Gian của chúng sanh, cốt yếu là ngộ Vô Sanh Nhẫn mà thôi vậy. Người ta không ngộ Vô Sanh là do chứa nhóm nghiệp làm chướng ngại vậy. Chứa nghiệp không gì qua Sát, Đạo, Dâm, Vọng, gọi là Tứ Khí. Hàng Tỳ Kheo Ni thì thêm Xúc Chạm, Hẹn Hò, Che giấu, Đi Theo gọi là Bát Khí.

Giới Luật có năm hạng tương đương với năm hình phạt của thế gian. Một là Ba La Di tương đương với tội tử hình; hai là Tăng Tàn tương đương với tội lưu đày; ba là Ba Dật Đề tương đương với khổ sai; bốn là Đề Xá Ni tương đương với tội phạt trượng; năm là Đột Kiết La tương đương với tội đánh bằng roi.

Nếu gặp nghiệp đời trước thì nước, lửa, trùng, rắn cũng đủ làm hại. Tuy Thiên, Long, ác tinh không có lòng hại người nhưng một khi chạm phải khí của các loại đó thì không khỏi bị nạn, cũng là sự chiêu cảm của nghiệp trước vậy. Nghiệp có nặng nhẹ, quả báo cũng nặng nhẹ. Nếu chìm đắm trong các nẻo ác, sanh vào chỗ chẳng vui, thì danh Phật còn chẳng nghe huống là đắc Vô Sanh Nhẫn ư ? Độc chỉ trì Chú này hay tiêu tan nghiệp trước, khỏi các thứ hoạn nạn độc hại. Nếu là người phát tâm Bồ Đề quyết định thì như gió thổi cát, nước sôi trên tuyết, cầu gì mà chẳng toại ư ? Chưa được Chánh Thọ liền đắc Chánh Thọ, chưa thể hành Lục Độ liền đắc Lục Độ, chưa được Túc Mạng liền đắc Túc Mạng, thường sanh cùng một chỗ với Chư Phật, đồng xứ huân tu, do đó mà ngộ Vô Sanh Nhẫn thật là dễ vậy. Công đức trì Chú lớn lao vô cùng, không thể nghĩ bàn vậy.

Thiền sư ni Vô Trước Diệu Tổng nghe Tổ Đại Huệ nêu lên nhân duyên Ngài Dược Sơn ban đầu ra mắt Tổ Thạch Đầu, sau đó đến Đức Mã Tổ, hốt nhiên tỉnh ngộ. 

Tổ Đại Huệ xuống tòa giảng thì cư sĩ Phùng Công Tập đi theo đến phương trượng, nói rằng : 

“Tôi lý hội được công án Hòa Thượng vừa nêu”.

Tổ Huệ nói : “Thế nào ?”

Đáp rằng : “Như thế cũng chẳng được, tô rô ta bà ha ! Chẳng như thế cũng chẳng được, tất rị ta bà ha ! Như thế, chẳng như thế rốt ráo đều chẳng được, tô rô tất rị ta bà ha !

Tổ Đại Huệ đem chuyện này nói với ni Diệu Tổng. 

Ni nói : “Chỉ từng thấy Quách Tượng chú giải Trang Tử. Người hiểu biết lại cho rằng chính Trang Tử chú giải Quách Tượng”.

Tổ Đại Huệ thấy lời nói kỳ dị, lại nêu chuyện Thạch Đầu gặp Bà Tử mà hỏi thì ni Diệu Tổng đáp bằng kệ:

“Một chiếc thuyền nan nổi mấy phương
Cấùt mái múa chèo biệt cung thương 
Núi mây, trăng biển đều vất ráo
Được quá Trang Châu mộng bướm trường”.

Tổ Đại Huệ bèn thôi.

Ông Phùng Công nghi ngờ chỗ ngộ của ni Diệu Tổng chưa căn bản, sau đó qua đất Vô Tích, mới đến thuyền hỏi rằng : “Lão bà sanh bảy đứa con, sáu đứa không gặp tri âm, chỉ tại một đứa cũng chẳng tiêu tan được, bèn quăng xuống nước ! Lão sư Đại Huệ bảo đạo nhân lý hội được là hiểu thế nào ?”

Ni đáp : “Trên mà cùng thông khắp thì cùng đến chỗ Chân Thật !”

Ông Phùng rất kinh hoảng.

Như chỗ ngộ Vô Sanh Nhẫn của ni Diệu Tổng là Chú đấy ư ? Là chẳng phải Chú đấy ư ? Mà sao nhả hơi xuất lời không dễ gì đo đếm, đoán biết vậy ?

Xem mục lục