Phần Na Già Thất Lợi
Đường, Sa Môn Huyền Tắc chế tác tại chùa Tây Minh
Trước chỉ dùng Thanh qui rửa nơi ngoài, mới soi tới chỗ khâm linh ; thần lý yên bên trong , bỗng phát huy được sự nghiệp. nếu chẳng thăm hỏi những điều động tĩnh , e hoặc lầm bởi đón theo .
Vậy nên :
Ngài Diệu Tường bẩm mệnh đi nhờ Xá Vệ, Ngài Long Tường ngăn lại để tiết khí Phần Vệ , cản chân bước xuống lên , đưa tay mà co duỗi ra vào . Lo chẳng lo để suy gẫm , đi không đi mà bước tới . Ăn là ăn như huyễn , lại giống như quả bầu treo; nhờ mà không nhờ , cũng đồng như giếng nước trong trẻo. Bỗng quán ngang không thuật , lóng lòng biển định ; nuôi dưỡng sanh linh là tánh nước , thâu các công đức làm kho báu . Yên sáu động mà chẳng lay , chạy ba xe đến cùng phải ngưng. Không chủ nào chẳng phải chủ, gọt bỏ tâm vương mà thấy lợi; không thân nảo chẳng thân, khôi phục xa nhóm được bạn lành.
Do đấy khiến kẻ thí chủ lấy bình bát, kinh hãi vì tìm quanh mà chẳng thấy cánh tay; ngài Ứng Cúng vén vạt áo mà an ủi lòng kia cho là đã mất. Ví như cảnh lầu đài của loại sò thần biến hiện, biết do tụ khí bởi ý định trèo xem; bỏ sắc đẹp trong gương loan, ngộ duy không mà thôi ôm lấy.
Cho nên :
Năng từ gần mà xem xa, do chơn mới lập tục ; biết sương lộ nhóm là mong manh , hiểu huyễn chất khác gì bọt nổi ! Lằn điện chớp sáng sắc đỏ xanh , mây trên không phủ bóng mái hiên.
Văn từ gọn mà lý dồi dào . Ngày xưa cất kín nay được rộng truyền. Mặc dù một pho và đơn dịch , nhưng đọc đi đọc lại vẫn có nhiều ý vị vậy thay !
Thích Trí Nghiêm phụng dịch
Quyển thứ 576
Hội thứ tám
Phần Na Già Thất Lợi
Tôi nghe như vầy:
Một thuở, Đức Bạc Già Phạm Thế Tôn trụ rừng Thệ Đa,vườn Cấp Cô Độc tại thành Thất La Phiệt, vì các đại chúng tuyên dương Chánh pháp. Bấy giờ, Diệu Cát Tường Bồ tát Ma ha tát nơi ngày buổi sáng mặc áo cầm bát, lần đi sắp vào thành Thất La Phiệt.
Khi đó, có Bồ tát tên Long Cát Tường thấy rồi hỏi rằng: Tôn giả qua chỗ nào?
Diệu Cát Tường đáp: Tôi muốn vào Thành Thất La Phiệt này đi dần khất thực, vì muốn lợi vui nhiều chúng sanh vậy, thương xót thế gian đại chúng sanh vậy, lợi ích an vui các trời người vậy.
Long Cát Tường nói: Dạ, vậy Tôn giả nay đối tưởng ăn vẫn chưa phá ư ?
Diệu Cát Tường đáp : Tôi đối tưởng ăn trọn chẳng thấy có, biết phá cái gì ? Sở dĩ vì sao ? Vì tất cả pháp bản tánh vắng không, giống như hư không, không hoại không dứt, tôi phá sao được? Các trời, ma, phạm, thế gian Sa môn, Bà la môn thảy cũng chẳng phá được. Sở dĩ vì sao? Vì tự tánh các pháp ngang cõi hư không, rốt ráo đều không, chẳng thể động lay, không kẻ năng phá.
Lại tất cả pháp như thái hư không, không có trời, ma, phạm, Sa môn thảy các loại hữu tình năng nhiếp thọ được. Sở dĩ vì sao? Vì tất cả pháp tánh xa lìa vậy, nên chẳng sở nhiếp thọ .
Long Cát Tường nói: Nếu như lời vừa nói, làm sao Bồ tát cùng ma chiến tranh?
Diệu Cát Tường đáp: Bồ tát chưa từng đánh trống lớn chiến tranh cùng ma quân. Bấy giờ, Bồ tát cũng chẳng thấy có chút pháp chơn thật khá nương vào định. Sở dĩ vì sao ? Bồ tát thấy kia dù đánh trống thảy mà không sợ hãi. Ví như thầy huyễn huyễn làm kẻ oán địch, dù hiện rối loạn não hại mà chẳng kinh sợ. Như vậy, Bồ tát biết pháp tánh không, đều như huyễn thảy, trọn không sợ hãi. Nếu khi Bồ tát kẻ có sợ hãi, chẳng phải trời người thảy chỗ nên cúng dường. Nhưng các Bồ tát không, không có sợ hãi, kham làm ruộng phước chơn tịnh cho tất cả.
Long Cát Tường nói : Vả có kẻ năng chứng Bồ đề chăng?
Diệu Cát Tường đáp: Cũng có năng chứng.
Long Cát Tường nói: Ai là chứng được?
Diệu Cát Tường đáp: Nếu không tên họ thi thiết ngôn ngữ kia năng chứng được.
Long Cát Tường nói: Kia đã như thế làm sao chứng được?
Diệu Cát Tường đáp : Kia tâm không sanh, chẳng niệm Bồ đề và tòa Bồ đề, cũng chẳng thương nhớ tất cả hữu tình, dùng tâm vô biểu, tâm vô kiến thảy năng chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề .
Long Cát Tường nói : Nếu vậy Tôn giả dùng những tâm nào sẽ được Bồ đề ?
Diệu Cát Tường đáp: Tôị không sở đến, cũng chẳng năng đến, trọn không sở học, chẳng phải tôi đời sau tới cội bồ đề ngồi tòa Kim cương chứng Đại Bồ đề, quay xe diệu pháp cứu vớt sanh tử. Sở dĩ vì sao ? Vì các pháp không động, chẳng thể phá hoại, chẳng thể nhiếp thọ, rốt ráo vắng không, tôi đem tâm chẳng tới như thế thảy sẽ được Bồ đề.
Long Cát Tường nói : Tôn giả đã nói đều nương thắng nghĩa, khiến các hữu tình tin hiểu pháp này giải thoát phiền não. Nếu các hữu tình phiền não được giải thoát, bèn năng phá được chài lưới ma rốt ráo.
Diệu Cát Tường đáp: Cái chài lưới của ma chẳng thể phá hoại. Sở dĩ vì sao? Vì ma chẳng khác thêm lời Bồ đề. Vì cớ sao ? Vì ma và ma quân tánh đều chẳng có, trọn bất khả đắc. Vậy nên, tôi nói ma ấy chẳng khác thêm lời Bồ đề.
Long Cát Tường nói: Sao gọi Bồ đề?
Diệu Cát Tường đáp: Nói Bồ đề ấy, khắp trong tất cả các pháp, các thời xứ, ví như hư không đều không ngăn ngại, đối pháp thời xứ không chỗ chẳng trụ. Bồ đề cũng thế, không ngăn ngại nên khắp ở trong tất cả pháp thời xứ. Bồ đề như thế rất là Vô thượng. Ngài nay muốn chứng Bồ đề bậc nào?
Long Cát Tường nói: Muốn chứng Vô thượng.
Diệu Cát Tường nói: Ngài nay muốn chứng Vô thượng Bồ đề pháp chẳng thể chứng. Ngài muốn chứng ấy bèn hành hý luận. Vì cớ sao? Vì Vô thượng Bồ đề lìa tướng vắng lặng , Ngài nay muốn lấy thành hý luận vậy.
Ví như có người khởi nói như vầy: Tôi khiến huyễn sĩ ngồi tòa Bồ đề, chứng huyễn Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Nói ra như thế cực thành hý luận, vì các huyễn sĩ hãy bất khả đắc, đâu khiến năng chứng huyễn Đại Bồ đề? Huyễn đối pháp huyễn chẳng hợp chẳng tan, không lấy không bỏ, tự tánh đều không. Chư Phật Thế Tôn nói tất cả pháp chẳng thể phân biệt, đều như việc huyễn. Nay Ngài muốn chứng Vô thượng Bồ đề đâu chẳng phải thành phân biệt huyễn pháp? Nhưng tất cả pháp đều chẳng thể lấy, cũng chẳng thể bỏ, không thành không hoại, chẳng phải pháp đối pháp năng có tạo tác và có diệt hoại, không pháp đối pháp năng có hòa hiệp và có chia lìa. Sở dĩ vì sao ?
Vì tất cả pháp chẳng hợp chẳng tan, tự tánh đều không, lìa ngã ngã sở, ngang cõi hư không, không nói không chỉ, không khen không chê, không cao không thấp, không tổn khong ích, chẳng thể tưởng tượng, chẳng thể hý luận, bản tánh hư vắng đều rốt ráo không, như huyễn như mộng, không đối không sánh, đâu thể đối kia khởi tâm phân biệt.
Long Cát Tường nói: Tôn giả! Hay thay ! Tôi nay do đây định được Bồ đề. Vì cớ sao? Vì nhờ Ngài vì tôi nói thâm pháp vậy.
Diệu Cát Tường nói : Tôi với nay đây chưa từng vì Ngài có tuyên nói gì hoặc hiển hoặc mật, hoặc sâu hoặc cạn, thì làm sao khiến Ngài năng được Bồ đề ?
Sở dĩ vì sao ? Vì tự tánh các pháp đều chẳng thể nói . Ngài bảo tôi nói pháp thậm thâm ấy là hành hý luận. Nhưng tôi thật chẳng phải kẻ năng nói pháp, tự tánh các pháp cũng chẳng thể nói. Như có người nói ta năng biện thuyết tướng biết huyễn sĩ, nghĩa là huyễn sĩ biết có sai khác như thế như thế . Kia bởi nói đây hại thật ngôn mình. Sở dĩ vì sao? Bởi vì kẻ huyễn sĩ hãy chẳng chỗ biết, huống có tướng biết! Nay Ngài chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề cũng lại như thế. Vì tất cả pháp đều như việc huyễn, tánh rốt ráo không, hãy chẳng thể biết huống có tuyên nói.
Bấy giờ, Vô Năng Thắng Bồ tát Ma ha tát đi đến chỗ kia, nghe rồi khen rằng: Hay thay, hay thay Chánh sĩ Đại sĩ năng chung biện nói pháp môn sâu thẳm.
Khi ấy, Diệu Cát Tường gạn hỏi Vô NăngThắng rằng : Chánh sĩ Đại sĩ vì nói pháp nào? Bởi vì Bồ tát chẳng khởi nghĩ này: Ta là Bồ tát Chánh sĩ Đại sĩ năng vì hữu tình nói pháp thẳm sâu. Kẻ khởi nghĩ ấy là hành hý luận.
Lại ,Vô Năng Thắng! Vả có vang hang tự tánh thật có năng phát lời nói, kẻ chúng sanh nghe nhận biết luận nói các pháp chăng?
Khi ấy, Vô Năng Thắng đáp rằng: Chẳng thật vậy.
Diệu Cát Tường nói : Như vậy, các pháp tất cả chẳng thật, đều như hang vang không danh không tướng, không chỗ lấy chấp. Đối đây có chấp là hành hý luận. Nếu hành hý luận trôi lăn sanh tử. Kia đối trong tất cả pháp như vang chẳng như thật biết, khởi các trái tranh. Vì khởi trái tranh nên tâm bị lay động. Khi tâm lay động, nhiều các mê lầm. Mê lầm tăng nên trôi lăn các thú.
Vậy nên, Thế Tôn đích thân với ngày đêm dạy răn trao các Bí sô rằng: Bí sô các ngươi! Chớ hành hý luận. Đối trong pháp vắng dứt Ta nói ra thường nên suy gẫm, quán sát kỹ chắc, tinh tu siêng tập Vô đắc pháp nhẫn.
Như vậy, Đức Năng Tịch Đại Thánh Pháp Vương nói các pháp không, bản tánh vắng lặng không nhiễm không đắc, không chỗ nương trụ; ai năng như thật biết, giải thoát sanh tử, định sẽ chứng Bồ đề, Niết bàn.
Khi đó, Long Cát Tường nghe lời ấy rồi, nhân đấy liền hỏi lại Diệu Cát Tường rằng :
Tôn giả giải thoát từ sanh tử nào?
Diệu Cát Tường nói: Ngài bảo Như Lai từ sanh tử nào mà được giải thoát? Thế Tôn mười lực thuờng nói vì pháp sanh tử quá khứ vị lai hiện tại?
Long Cát Tường nói : Thế Tôn đâu chẳng nói tất cả pháp đều như huyễn hóa? Đã vậy hữu tình lẽ vốn đã chứng Vô thượng Bồ đề, đâu có sanh tử ? Sở dĩ vì sao ? Vì Tôn giả cũng nói các pháp chẳng thật, đều như huyễn hoá?
Diệu Cát Tường nói: Tôi từ xưa nay đối pháp tánh tướng chưa từng tuyên nói, cũng chẳng phân biệt lấy đắm tạo tác. Sở dĩ vì sao ? Vì tánh tướng các pháp chẳng thể nêu chỉ, chẳng thể phân biệt, chẳng thể lấy đắm, chẳng thể tạo tác. Tất cả hữu tình nếu năng như thật thấu rõ các pháp đều như huyễn hóa, lẽ vốn đã chứng Vô thượng Bồ đề. Nhưng bởi hữu tình chẳng thể thông suốt đối tất cả pháp đều như huyễn hó, nên ở các thú trôi lăn sanh tử.
Như thợ huyễn giỏi, tùy nương một vật huyễn làm ra các thứ sự vật huyễn hóa, chỗ gọi thế gia, trời , ma phạm, Sa môn, Bà la môn, Thích, Phạm chí, các rồng, dược xoa, a tố lạc thảy chúng người phi người. Các loại ngu si mê chấp thật có. Kẻ trí, thầy huyễn biết không thật tánh, chỉ có các thứ hư dối tướng hiện.
Như vậy các pháp mặc dù như huyễn hóa mà loại hữu tình ngu si chẳng biết rõ chẳng có thật, vô thường chấp thường, đối trong các pháp các thứ phân biệt: hoặc phân biệt sắc, hoặc phân biệt tâm, hữu vi vô vi, hữu lậu vô lậu, như vậy thảy loại các thứ phân biệt. Bởi phân biệt đây đối trong các pháp chẳng như thật biết đều như huyễn hóa. Bởi chẳng biết nên lăn quanh sanh tử.
Nếu các hữu tình đối tất cả pháp như thật biết rõ đều như huyễn hóa thời đối Phật Pháp chẳng lại tăng trưởng. Sở dĩ vì sao ? Vì các loại hữu tình bản lai đều có diệu pháp chư Phật , tất cả đã có Phật trí không lui, nên các hữu tình đều khá an lập nơi Diệu trí Phật. Giác huệ không động, biết pháp tánh không, không danh không tướng, không nương không trụ, không lấy không chấp, không ngại không trước, in như hư không, không a lại da, không ni diển để, vô thượng vắng lặng, rất cực vắng lặng, không sanh không diệt, không nhiễm không tịnh, không thành không hoại, chẳng có chẳng không. Do đây đối trong thành nhẫn sâu thẳm, thường chẳng xa lià diệu pháp chư Phật. Sở dĩ vì sao ? Vì diệu pháp chư Phật lià tánh lià tướng, chẳng thể thi thiết, chẳng thể tuyên nói, chẳng thể nêu chỉ, khắp loại hữu tình in như hư không.
Khi ấy, Long Cát Tường nghe pháp sâu thẳm, vui mừng nhảy nhót khen Diệu Cát Tường rằng: Hay thay, hay thay ! Tôn giả đã nói thẳm sâu mầu nhiệm chẳng thể nghĩ bàn. Nói các hữu tình thường chẳng xa lià diệu pháp chư Phật, ai tin hiểu được?
Diệu Cát Tường đáp : Các chơn tử Phật đều tin hiểu được. Nghiã là những kẻ tùy tín hành, hoặc tùy pháp hành, hoặc Đệ bát, hoặc Dự lưu, hoặc Nhất lai, hoặc Bất hoàn, hoặc các A la hán, hoặc các Độc giác, hoặc các Bồ tát đã được chẳng quay lui, đối các bạch pháp không động không chuyển, đã khéo an trụ pháp rốt ráo không, pháp vô sở đắc, sâu tin hiểu đuợc. Sở dĩ vì sao ?
Các Bồ tát này tòa Diệu Bồ đề đã hiện trước mặt, năng đối trước thế gian thiên, ma,phạm ,Thích, Sa môn, Phạm chí, a tố lạc thảy, người, phi người làm rống Đại sư tử : Ta đối tòa đây ngồi tréo mu chân, cho đến chưa được Vô thượng Bồ đề quyết chẳng giữa chừng tạm nới ngồi đây.
Vì cớ sao ? Vì các Bồ tát này đã khéo an trụ pháp rốt ráo không, pháp vô sở đắc, chẳng thể động vậy. Ví như cái cọc đóng rất vững chắc, buộc các trâu chúa thảy chẳng lay động được. Như vậy Bồ tát đã khéo an trụ pháp rốt ráo không, pháp vô sở đắc, tất cả hữu tình chẳng thể làm nghiêng động khiến lìa năng giác sở giác và chỗ tòa Bồ đề.
Long Cát Tường hỏi : Năng giác sở giác, chỗ tòa Bồ đề sao gọi thế ư ?
Khi ấy, Diệu Cát Tường gạn lại kia rằng : Vì sao gọi là Như Lai biến hóa? Vì sao gọi chỗ Như Lai biến hóa? Vì sao Như Lai biến hóa sở nương ? Vì sao Như lai biến hóa pháp chứng? Do đây nói là Như Lai biến hóa thuyết pháp chỉ dẫn?
Long Cát Tường nói: Tôi hãy chẳng thấy có thật Như Lai, huống phải thấy có Như Lai biến hóa và chỗ biến hóa, biến hóa, biến hóa sở nương, biến hóa pháp chứng, do đây khá nói nói Như Lai biến hóa thuyết pháp chỉ dẫn.
Diệu Cát Tường bảo: Hay thay, hay thay! Đã nói chỗ biết rất là đúng lý. Ngài đã khởi chứng nơi tất cả pháp vô sở đắc nhẫn, mới năng nói được như thế. Năng giác sở giác thảy nên biết cũng thế.
Long Cát Tường nói : Chẳng phải tất cả pháp vô sở đắc nhẫn có khởi có hoại. Sở dĩ vì sao ? Vì tất cả pháp không, không có tự tánh , tự tướng cũng không. Các pháp như thế không tướng không đối, không sắc không thấy, ngang cùng hư không, làm sao khởi được đối tất cả pháp vô sở đắc nhẫn?
Nếu tất cả pháp vô sở đắc nhẫn có nghiã khởi được, thời nhẫn vang hang, hoặc nhẫn bóng sáng, hoặc nhẫn nhóm bọt, hoặc nhẫn bọt nổi, hoặc ánh nắng, hoặc nhẫn cây chuối, hoặc việc huyễn, hoặc cảnh mộng, hoặc biến hóa, hoặc nhẫn gương tượng, hoặc nhẫn thành tầm hương, hoặc nhẫn cõi hư không, lẽ phải có nghiã khởi. Sở dĩ vì sao? Vì nhẫn hư không thảy có nghĩa khởi ấy, tất không có lẽ đó.
Nếu Bồ tát Ma ha tát nghe pháp như thế chẳng kinh chẳng sợ, không ngờ không nghi , tâm chẳng chìm lặn , tức là Bồ tát Vô thượng pháp nhẫn .
Diệu Cát Tường nói : Chúng các Bồ tát Vô đắc pháp nhẫn đâu không sai khác?
Long Cát Tường nói : Nếu chúng Bồ tát đối pháp có chút phần chấp trước ấy,đấy thời gọi là hành hữu sở đắc. Nếu các Bồ tát khởi nghĩ này rằng : Ta đối thẳm sâu thảy năng hiển rõ. Đấy thời là hành hữu sở đắc .
Nếu các Bồ tát khởi nghĩ này rằng: Ta là kẻ trọn nên nhẫn thẳm sâu. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.
Nếu các Bồ tát khởi nghĩ này rằng: Ta đối thẳm sâu đều năng tín thọ. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.
Nếu các Bồ tát khởi nghĩ này rằng: Ta đối các nghĩa đều năng hiểu rõ. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.
Nếu các Bồ tát khởi nghĩ này rằng: Ta đối các pháp đều năng giác trọn. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc .
Nếu các Bồ tát khởi nghĩ này rằng: Ta năng hiểu rõ bản tánh các pháp. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.
Nếu các Bồ tát khởi nghĩ này rằng: Ta năng tu hành các đạo Bồ tát. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc .
Nếu các Bồ tát khởi nghĩ này rằng: Ta năng nghiêm tịnh các kiểu cõi Phật. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.
Nếu các Bồ tát khởi nghĩ này rằng: Ta năng thành thục các loại hữu tình. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc .
Nếu các Bồ tát khởi nghĩ này rằng: Ta đối Bồ đề quyết định sẽ chứng. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.
Nếu các Bồ tát khởi nghĩ này rằng: Ta định năng quay xe pháp Vô thượng. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.
Nếu các Bồ tát khởi nghĩ này rằng: Ta năng cứu vớt các loại hữu tình. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc .
Nếu các Bồ tát khởi nghĩ này rằng: Ta có sở hành,ta có sở chứng. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.
Nếu các Bồ tát khởi nghĩ này rằng: Ta năng tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.
Nếu các Bồ tát khởi nghĩ này rằng: Ta năng tu hành bốn niệm trụ thảy, ba mươi bảy phần pháp Bồ đề. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.
Nếu các Bồ tát khởi nghĩ này rằng: Ta năng tu hành tĩnh lự, vô lượng, đẳng trì, đẳng chí, đà la ni môn. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc.
Nếu các Bồ tát khởi nghĩ này rằng: Ta năng chứng tới Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng thảy vô lượng vô biên diệu pháp chư Phật. Đấy thời gọi là hành hữu sở đắc nên Vô đắc pháp nhẫn chẳng có sai khác.
Diệu Cát Tường nói : Nếu vậy Bồ tát làm sao tu học tới hạnh Bồ đề?
Long Cát Tường đáp: Nếu chúng Bồ tát đối trong các pháp không điều lấy đắm,đấy là tu học tới hạnh Bồ đề.
Nếu chúng Bồ tát đối trong các pháp không chỗ dựa cậy, đấy là tu học tới hạnh Bồ đề.
Nếu chúng Bồ tát hiện quán các pháp nương gá các duyên không, vô tự tánh, lià ngã ngã sở, đấy là tu học tới hạnh Bồ đề.
Nếu chúng Bồ tát dù có sở hành mà không tưởng hành , đấy là tu học tới hạnh Bồ đề .
Diệu Cát Tường nói: Như vậy, như vậy. Đúng như đã nói. Như người trong mộng, tuy gọi dạo đi đứng nghỉ các xứ chỗ nơi, mà không đến tới đi đứng ngồi nằm, cũng không chôn thật dạo nghỉ nơi chỗ. Bồ tát cũng thế, tuy với lúc tỉnh có sở tu hành mà không tưởng hành. Quán hạnh sở hành bản tánh đều không. Đối trong các pháp không điều lấy đắm. Đạt tất cả pháp không trạng không tướng, không a lại da, không ni diên để, cùng ngang hư không, bản tánh trong vắng. Nếu các Bồ tát năng hành như thế, không chỗ chấp lấy, lià các hý luận, là ruộng phước chơn tịnh trời người thảy, kham nhận thế gian cúng dường cung kính .
Bấy giờ, Long Cát Tường Bồ tát Ma ha tát nghe lời đấy rồi vui mừng nhảy nhót mà nói lời này : Dạ thưa Tôn giả ! Tôi nay muốn đến thành Thất La Phiệt vì hữu tình nên tuần hành khất thực.
Diệu Cát Tường đáp : Tùy ý Ngài đi. Nhưng với khi đi chớ được cất chân, chớ được xuống chân, chớ co chớ dãn, chớ khởi nơi tâm, chớ dấy hý luận, chớ sanh tưởng đường sá, chớ sanh tưởng ấp xóm làng, chớ sanh tưởng nam nữ lớn nhỏ, chớ sanh tưởng đường ngã ba tư, nhõ hẻm, vườn rừng, xá trạch , cửa ngõ thảy. Vì cớ sao? Vì Bồ đề xa lià các tưởng sở hữu, không cao không thấp, không cuốn lại không tung ra, tâm tuyệt động lay, lời mất hý luận, không có số lượng. Đấy là chỗ tới Bồ đề của Bồ tát. Nếu Ngài nay năng đi được như thế ấy, tùy ý đi tới mà hành khất thực.
Khi ấy , Long Cát Tường đã nương uy lực dạy trao dạy bảo vào định Hải Dụ. Ví như biển cả nước nó rộng sâu, đầy rẫy yên lặng, giàu đủ những ngọc báu, chứa nuôi sanh mạng các loài thủy tộc. Định đây như thế, uy lực rộng sâu, thần dụng khó nghĩ, ba nghiệp yên lặng,đủ báu công đức nhiếp dưỡng hàm thức.
Bấy giờ, có Bồ tát tên là Thiện Tư vì muốn khiến kia mau ra định nên mới lập đại gia hạnh xúc động nơi thân kia. Mặc dù làm cho thế giới Tam thiên đại thiên các núi đại địa sáu phản biến động, mà thân tâm Long Cát Tường yên lặng sững sờ chẳng động như núi Diệu Cao. Sở dĩ vì sao?
Vì kia do định đây khiến thân ngữ ý yên trụ không động. Sau từ định khởi mưa các hương hoa hướng về rừng Thệ Đa, cong lưng chấp tay,chí thành cung kính mà nói lời này: Qui mạng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã chứng đã nói không chẳng sâu thẳm, tự tánh đều không, không nhiễm không đắc, năng khiến kẻ nghe được thắng định này .
Thiện Tư Bồ tát bèn hỏi kia rằng : Ngài ở trong định có cảm biết động đất chăng ?
Long Cát Tường đáp : Thiện Tư phải biết: Nếu kẻ thân tâm có động chuyển thấy đất liền thảy cũng có nghiêng lay. Chư Phật Thế Tôn, Bồ tát bậc chẳng lui và Đại Độc giác, Đại A la hán thân tâm yên tĩnh xa lìa động lay, đối trong các pháp chẳng thấy chẳng giác có động co chuyển có nghiêng có lay. Sở dĩ vì sao ? Vì thường an trụ pháp không động không chuyển, không nghiêng không lay, nghĩa là pháp không, vô tướng, vô nguyện, vắng lặng chứng tướng bản không, tánh xa lìa. Do trụ pháp đây thân tâm không động.
Khi đó, Diệu Cát Tường thấy nghe đây rồi vui mừng khen ngợi Long Cát Tường rằng: Hay thay, hay thay! Thành được việc này, hôm nay tùy ý vào thành khất thực.
Long Cát Tường đáp : Tôi nay đã chứng Vô thượng pháp thực thắng định Hải Dụ, đối các đoạn thực chẳng còn mong cầu. Tôi nay chỉ cầu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã, phương tiện khéo léo, diệu nguyện, lực, trí Ba la mật đa và vô biên các thắng hạnh Bồ tát , mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp, vớt loại hữu tình khổ lớn sanh tử khiến trụ Niết bàn thanh tịnh rốt ráo.
Tôi nay muốn cầu nới bỏ các hành, chẳng muốn nuôi dưởng thân tâm tạp uế . Nay tôi nhờ Tôn giả là bạn lành chơn tịnh thương xót trợ lực tôi chứng được thắng định, tôi nay xin đảnh lễ: Thù Diệu Cát Tường, Vô Biên Cát Tường, Dũng Mãnh Cát Tường, Quảng Đại Cát Tường, Diệu Pháp Cát Tường, Thắng Huệ Cát Tường, Nan Tư Cát Tường là bạn lành Đại tiên , bạn lành chơn tịnh .
Diệu Cát Tường nói : Hay thay ! Nhân giả năng được thắng định Hải Dụ như thế, thấy rõ các pháp như vang, như tượng, như mộng, như huyễn, như ánh nắng, như bóng sáng, như việc biến hóa, như thành tầm hương. Ngài nay nên cầu Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi , đại hỷ, đại xả và mười tám pháp Phật bất cộng thảy vô lượng vô biên, là những pháp thực vô thượng dùng tự nuôi thêm Pháp thân giải thoát. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng giác đều do thực đây năng trải lâu đại kiếp vô lượng vô số vô biên chẳng thể nghĩ bàn ngang cát Căng già mà trụ. Sở dĩ vì sao ?
Vì pháp thực như thế không lậu không ràng buộc, năng giải thoát hẳn pháp chấp đắm thế gian chẳng ra lià, cũng năng dứt hẳn tất cả kiêu mạn, không a lại da, không tham đắm chấp lấy, không các hý luậ, bản tánh vắng không. Tất cả chúng Bồ tát Ma ha tát, đều mong cầu thực đây, Ngài cũng nên cầu. Chớ cầu pháp thực thế gian thấp kém!
Long Cát Tường đáp : Tôi nay nghe Ngài đã khen vô thượng pháp thực như đấy đã là no đủ, huống được ăn thật ư ? Tôi đời sau ăn được pháp thực đây, tức đem vô thực mà làm phương tiện, tự no đủ rồi, lại đem làm no đủ cho tất cả hữu tình.
Diệu Cát Tường nói: Ngaì làm cõi hư không no đủ được chăng? Đáp rằng: Chẳng được.
Diệu Cát Tường nói: Ngài năng làm cho vang, tượng, mộng huyễn, ánh nắng, bóng sáng, các việc biến hóa, thành tầm hương no đủ được chăng? Đáp rằng: Chẳng được.
Diệu Cát Tường nói: Ngài vả năng đem các dòng no đủ các biển cả chăng? Đáp rằng: Chẳng được.
Diệu Cát Tường nói: Các pháp cũng vậy, Ngài làm sao muốn no đủ tất cả? Ngài muốn tất cả đều no đủ ấy, thời muốn no đủ cõi thái hư không. Cũng muốn no đủ vang, tượng, mộng thảy. Cũng muốn no đủ tất cả biển lớn, cũng muốn no đủ tất cả pháp không, vô tướng, vô nguyện, vô tạo, vô tác, vô sanh, vô diệt. Cũng muốn no đủ xa lìa, vắng lặng, lìa nhiễm, Niết bàn giải thoát rốt ráo. Cũng muốn no đủ vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng ngang cùng hư không chẳng thể chấp lấy chơn như pháp giới?
Long Cát Tướng nói: Như lời Ngài nói, thức ăn và kẻ ăn không chẳng đề không, thời các hữu tình lẽ chẳng nhờ ăn?
Diệu Cát Tường đáp : Như vậy, như vậy. Tất cả hữu tình đều chẳng nhờ ăn. Như Phật hóa làm các loại hữu tình ngang số cát Căng già không chẳng cần ăn. Ngài khiến ai tạo bấy nhiêu ăn ư ?
Long Cát Tường nói: Hóa không cần ăn, đâu nhờ tạo làm chi!
Diệu Cát Tường nói: Pháp và hữu tình đều như huyễn hóa, vậy nên tất cả không kẻ nhờ ăn. Nếu các hữu tình đều như huyễn hóa, vậy nên tất cả không kẻ nhờ ăn. Nếu các hữu tình chẳng thể như thật thấu rõ các pháp đều như huyễn hóa, thời ở các thú lăn quanh sanh tử, hư dối chấp cho là cần có việc nhờ ăn để duy trì. Nhưng kia nhờ trì đều bất khả đắc, như thật quán sát pháp và hữu tình tự tánh đều không, không chút chơn thật, thời đối các ăn không có gì nhờ ăn duy trì cả.
Long Cát Tường nói: Tôi nay muốn trụ dứt trừ đói khát.
Diệu Cát Tường đáp: Đói khát hay không, nào có năng dứt. Ví như huyễn sĩ nói lời như vầy: Tôi nay muốn tìm nước trong ánh nắng, để dứt trừ đói khát. Ngài nay cũng thế. Sở dĩ vì sao?
Vì tất cả pháp đều như ánh nắng, tất cả hữu tình đều như huyễn sĩ, làm sao muốn trụ dứt trừ đói khát, hư dối phân biệt trong pháp sở tác, năng dứt bị dứt đều bất khả đắc. Đã không đói khát, ai trừ dứt cái gì ? Các pháp xưa nay tự tánh no đủ không đói khát , trừ dứt cái chi ?
Đứa ngu đối đây chẳng như thật biết bảo tôi đói khát muốn cầu trừ dứt . Các kẻ có trí năng như thật biết đói khát vốn không , chẳng cần trừ dứt . Đã được thấu rõ các pháp tánh không , chẳng còn lộn quanh sanh tử các thú nữa , xa lìa hý luận không điều phân biệt. Đối tất cả pháp trụ khong chỗ trụ ,
không nương không nhiễm , không vào không ra , giải thoát rốt ráo , hết hẳn phân biệt .
Long Cát Tường nói : Như Tôn giả nói các pháp yếu, như vậy pháp giới hiện ra ?
Diệu Cát Tường đáp : Chẳng phải chơn pháp giới có ra có vào , có co có dãn . Sở dĩ vì sao ?
Vì chơn pháp giới lìa tướng, vắng lặng, không ra không vào, chẳng thể phân biệt, chẳng thể hý luận, không nương không trụ, không lấy không bỏ, không động không chuyển, không nhiễm không tịnh.
Như cõi hư không không động không chuyển, không lấy không bỏ, không nương không trụ, chẳng thể hý luận, chẳng thể phân biệt, không ra không vào. Các pháp cũng thế, tự tướng bản không, tánh cũng chẳng có, tướng bất khả đắc. Nếu tướng các pháp có khả đắc ấy, Phật vào Niết bàn lẽ cũng khả đắc, nên tất cả pháp không a lại da, không tham đắm chấp lấy, không sắc không kiến, không đối không tướng, bản lai vắng lặng.
Vậy nên, chư Phật như cát Căng già, mặc dù đã vào Niết bàn mà không diệt một pháp. Nghĩa là không diệt sắc uẩn và diệt thọ tưởng hành thức uẩn. Cũng không diệt nhãn xứ và diệt nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Cũng không diệt sắc xứ và diệt thanh hương vị xúc pháp xứ. Cũng không diệt nhãn giới và diệt nhĩ tỷ thiệt thân ý giới. Cũng không diệt sắc giới và diệt thanh hương vị xúc pháp giới. Cũng không diệt nhãn thức giới và diệt nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Cũng không diệt nhãn xúc và diệt nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Cũng không diệt nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ và diệt nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Cũng không diệt địa giới và diệt thủy hỏa phong không thức giới. Như vậy, chư Phật tuy vào Niết bàn không một pháp vào Niết bàn ấy.
Có các kẻ muốn khiến ngôi vào Niết bàn có pháp diệt ấy, tức vì nuốn khiến ngôi cõi thái hư không kia cũng diệt. Sở dĩ vì sao ? Tất cả pháp tánh bản lai tịch diệt, tự tánh vắng lặng, rất cực vắng lặng , chẳng thể lại diệt lại nữa.
Các loại đứa ngu chẳng như thật biết, khi vào Niết bàn mới khởi tưởng diệt, bảo rằng ngã ngã sở ngày nay mới diệt. Kia do chấp trước ngã và hữu tình, nói rộng cho đến tri giả kiến giả, và do chấp pháp tự tánh có không, khi vào Niết bàn tất cả diệt hẳn. Tôi nói loại kia đều chẳng thể giải thoát được sanh lão bệnh tử rầu than khổ ưu khổ não. Sở dĩ vì sao ?
Vì loại ngu si kia đối pháp bản tánh chẳng hiểu chẳng biết. Bởi chẳng hiểu biết pháp bản tánh, nên cùng Phật Thế Tôn và các đại đệ tử Bồ tát chẳng quay lui đối pháp thẳm sâu có thâm tin hiểu, hằng ưa thọ hành, hành vô sở đắc, ở quá khứ Phật trồng nhiều căn lành, có thần thông lớn, đủ thế
lực lớn, chủ buôn chơn tịnh, Thiên tiên vô thượng, thường có chống trái tranh cãi. Vì chống cãi nên các đứa ngu kia đêm dài chìm đắm hôi uế bất tịnh; tất cả Hiền thánh đều xa tránh đi, kẻ trí đồng quở tệ ác sanh tử như đống phân uế gần thành phố xóm làng, như như ngày đêm người vật qua lại, như thế như thế càng thêm bất tịnh hôi uế tiện lội thảy vật đáng ghê.
Như vậy, đứa ngu đối pháp bản tánh chẳng thể hiểu biết gì, càng thêm cực ác sanh những thối tha hôi hám sanh tử bất tịnh; Hiền thánh quở trách, kẻ trí xa lìa. Tôi nói loại kia chẳng thể nào giải thoát được các thứ tội lỗi sanh tử bệnh thảy.
Khi ấy, Long Cát Tường hỏi rằng: Tôn giả! Sao là đối pháp năng như thật biết được?
Diệu Cát Tường đáp: Có những kẻ năng đem tâm không phân biệt, tùy thuận xa lìa, hướng tới xa lìa, vào hẳn xa lìa. Như vậy đối pháp năng như thật biết được.
Long Cát Tường nói: Ai đối việc huyễn mà xa lìa được?
Diệu Cát Tường đáp: Cũng tức đây năng đối việc huyễn xa lìa.
Bấy giờ, thiện hiện đi đến chỗ kia nói : Hai Đại sĩ luận nói gì đấy ?
Khi ấy, Diệu Cát Tường gạn rằng : Đại đức! Nay nói pháp nào gọi là Đại sĩ mà cùng luận nói. Đại Thánh Pháp Vương cũng chưa từng nói có chút thật pháp gọi kẻ Đại sĩ. Các pháp như vang, đều chẳng chơn thật. Vang kia đâu năng có đàm luận gì đâu!
Cụ thọ Thiện hiện nghe lời ấy rồi vào môn tam ma địa vô sở đắc, lâu chừng giây lát, từ định khởi lại, chấp tay cung kính hướng rừng Thệ Đa làm lời như vầy: Tôi nay quy Phật đã chứng đã nói không chẳng thẳm sâu mầu nhiệm vắng lặng, khó thấy khó biết, chẳng thể tầm nghĩ, vượt cảnh tầm nghĩ, hại hẳn chấp lấy, dứt các ràng buộc. Diệu pháp như thế chẳng thể nghĩ bàn, khiến các hữu tình nghe được lợi vui.
Nếu các Bồ tát đã được bậc chẳng quay lui, mạn Thù thất lợi mà làm thượng thủ. Cho đến hoặc có kẻ rất mới phát tâm tới Đại Bồ đề, chúng các Bồ tát đều chung cùng đối trong pháp sâu thẳm đây lần hồi tương thân làm đàm luận đây.
Diệu Cát Tường nói: Đại đức! Phải biết trong đấy không thân, không kẻ chẳng thân, cũng không mê lầm, chẳng kẻ mê lầm. Lại không việc lần hồi đàm luận cùng nhau. Sở dĩ vì sao ? Vì không có chút pháp năng cùng chút pháp làm thân oán thảy. Vì cớ sao ? Vì tất cả pháp vô sở hữu vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện lại nói: Khi nãy thấy hai Đại sĩ cùng luận thâm pháp, vì sao mà nói không việc đàm luận?
Diệu Cát Tường đáp: Đại đức ! Vả nghe huyễn sĩ, mộng cảnh, vang tượng, ánh nắng, bóng sáng, biến hóa và thánh tầm hương lần hồi cùng luận nghĩa thâm pháp chăng ? Đáp rằng: Chẳng nghe.
Diệu Cát Tường nói: Các pháp như huyễn, mộng cảnh, vang thảy, làm sao nói được thấy đàm luận cùng nhau? Đâu có việc huyễn sĩ nghe Hóa Phật nói nghĩa thâm pháp tin hiểu thọ trì lấy tướng suy nghĩ danh thân thảy?
Bấy giờ, Thiện Hiện nghe lời ấy rồi, ở tại chỗ đấy bèn vào Diệt định.
Lúc đó, Xá Lợi Tử đi đến chỗ kia hỏi Diệu Cát Tường: Thưa Đại sĩ ! Vả biết Thiện Hiện nay đã vào những định nào không?
Diệu Cát Tường đáp: Dạ! Xá Lợi Tử ! Đại đức Thiện Hiện chẳng trái Chánh pháp, do thường vào nhưũng định Bất vi pháp, định Vô sở trụ, định Vô y pháp, định Vô chấp tạng, định Hại chấp tạng. Chẳng phải trụ trong đây có lời có nói, có đến có đi, có đứng có nằm. Vì cớ sao ? Vì Đại đức Thiện Hiện tin hiểu các pháp tự tánh đều không, bất khả đắc vậy.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi: Các pháp lấy gì làm tánh ? Diệu Cát Tường đáp : Các pháp đều lấy vô tánh làm tánh. Vô tánh như thế cũng bất khả đắc.
Thiện Hiện bấy giờ bèn từ định khởi. Diệu Cát Tường thúc: Giờ ăn sắp đến, nên mau vào thành lần đi khất thực!
Thiện Hiện đối rằng: Đại sĩ phải biết: Tôi nay chẳng còn vào thành khất thực. Sở dĩ vì sao ? Vì tôi đã xa lìa tất cả tưởng thành ấp xóm làng, cũng đã xa lìa tưởng các sắc thanh hương vị xúc pháp.
Diệu Cát Tường nói: Đại đức Thiện Hiện! Nếu đã xa lìa tất cả tưởng ấy vì sao hiện có đi dẫm qua lại?
Thiện Hiện gạn rằng: Như Lai biến hóa, vì sao hiện có các pháp sắc thọ tưởng hành thức thảy? Vì sao hiện có đi dẫm qua lại, co dãn ngó xem?
Diệu Cát Tường đáp: Hay thay, hay thay! Đại đức Thiện Hiện! Chơn tử củaPhật ! Vậy nên, Như Lai thường nói Thiện Hiện được trụ Vô Tránh rất là đệ nhất.
Lại nói: Đại đức! Vả thôi việc này, tôi muốn vào thành lần đi khất thực. Việc ăn cơm xong, đến chỗ Như Lai, tôi sẽ phụng thỉnh, mời các Đại đức đãi bữa ăn đặc biệt hiếm có, khiến được lợi lành !
Xá Lợi Tử nói: Thưa Đại sĩ ! Hôm nay muốn vì bọn tôi đãi những thức ăn gì?
Diệu Cát Tường đáp: Đại đức! Tôi nay đãi thức ăn ấy, chẳng thể cắt khúc chia cục, chẳng thể nếm ngậm nhai nuốt, chẳng phải hương vị xúc, chẳng nhiếp thuộc ba cõi, cũng chẳng phải chẳng ràng buộc. Đại đức phải biết thức ăn mầu nhiệm như thế là thức ăn Như Lai, chớ chẳng phải các thức ăn thường khác vậy.
Xá Lợi Tử nói : Nay bọn chúng tôi nghe Đại sĩ nói tên thức ăn hiếm có đều đã no đầy huống phải được ăn thật . Diệu Cát Tường nói : Thức ăn của tôi đây mắt thịt mắt trời mắt trời mắt huệ đều chẳng thể thấy được .
Bấy giờ, Thiện Hiện và Xá Lợi Tử nghe lời như thế đều vào Diệt định.
Khi ấy, Thiện Tư Bồ tát hỏi Diệu Cát Tường rằng: Hai thượng nhân đây nay ăn những thức ăn nào ? Vào những định gì?
Diệu Cát Tường đáp: Hai Tôn giả này ăn ăn vô lậu, vào định vô sở y vô tạp nhiễm. Các kẻ ăn ăn
đây trụ định này rốt ráo chẳng còn ăn thức ăn ba cõi.
Bấy giờ, Thiện Hiện và Xá Lợi Tử đều từ định khởi, cùng Diệu Cát Tường và các Bồ tát chúng Thanh văn thảy vui mừng thăm hỏi lẫn nhau rồi,mỗi mỗi vào thành tùy ý chỗ qua lần đi khất thực.
Cụ thọ Thiện Hiện tùy chỗ vào một nhà trống vắng, lặng lẽ mà đứng. Có nàng cận sự thấy rồi hỏi rằng: Đại đức đứng đây vì muốn điều gì.
Thiện Hiện đáp rằng: Chị em phải biết! Vì khất thực nên tôi đến đứng đây.
Nàng cận sự nói: Thánh giả Thiện Hiện nay đối tưởng ăn chưa biết khắp ư ?
Thiện Hiện đáp rằng: Tôi từ xưa nay có bao tưởng ăn đều đã biết khắp. Sở dĩ vì sao? Vì tất cả tưởng ăn ngằn trước giữa sau đều tự nhiên trống không.
Nàng cận sự nói: Dạ phải, Thánh giả nên tự đưa tay ra, tôi sẽ dâng cơm.
Cụ thọ Thiện Hiện bèn đưa tay ra.
Nàng cận sự nói: Thánh giả Thiện Hiện! Tay A la hán nay thế đây ư ?
Thiện Hiện đáp rằng: Tay A la hán chẳng phải thấy được, cũng chẳng thể đưa ra. Ví như huyễn sĩ hỏi huyễn sĩ kia rằng: Cái gì gọi là tay huyễn sĩ ? Tôi nay muốn thấy xin vì đưa ra. Chị em phải biết: Tay huyễn sĩ kia vả có thấy được và khá đưa ư ?
Nàng cận sự nói: Thưa Đại đức! Chẳng có thấy được vậy.
Thiện Hiện nói: Như vậy. Chị em! Đức Phật nói tất cả như huyễn đều không, nên chẳng thể nói tay A la hán thật có khá thấy và có đưa ra được.
Khi đó, người nữ kia nghe nói như thế liền đó chẳng thấy tay Thiện Hiện, bèn qua giây lâu cúng cơm chẳng được, muốn để vào bát, bát lại chẳng hiện. Người cận sự kia xem quanh thân Thiện Hiện theo khắp tìm lại tay trọn chẳng thể được, trong chừng giây lát thân cũng chẳng hiện, tức liền cung kính khen Thiện Hiện rằng: Hay thay,hay thay! Kẻ Thánh! Kẻ Thánh mới được như thế! Thân cũng chẳng trụ, tướng cũng chẳng hiện, thật là hiếm có. Vậy nên, Như Lai thường nói Thiện Hiện được trụ Vô Tránh rất là đệ nhất .
Khi ấy, nàng cận sự tức ở nơi đây dứt hẳn ngã kiến, được quả Dự lưu. Cụ thọ Thiện Hiện bèn hiện thân ra, khen rằng: Hay thay , hay thay! Chị em bèn được thành nghiệp trượng phu như thế.
Bấy giờ, người nữ vui mừng nhảy nhót, đem thức ăn đã sắm phụng thí Thiện Hiện. Thiện Hiện nhận rồi ra về ăn xong.
Khi ấy, Diệu Cát Tường cùng chúng các Bồ tát Thanh văn thảy mỗi đều cơm xong, đồng đến chỗ Phật đảnh lễ đôi chân, quanh hữu ba vòng, lui ngồi một phía, đem việc như trên thưa đủ Thế Tôn.
Bấy giờ, Như Lai nghe kia đã thuật liền bèn khen rằng: Hay thay, hay thay! Các ngươi mới được thành thắng sự đây, phải biết đều là thần lực của Phật. Cụ thọ Thiện Hiện cũng đem sự việc vừa qua giáo hóa nàng cận sự được sơ quả mà thưa lên Phật. Bấy giờ, Thế Tôn cũng khen ngợi kia phương tiện khéo giỏi .
Khi đó, Diệu Cát Tường bảo Thiện Hiện rằng: Nàng cận sự kia đã dứt ngã kiến, tức chẳng ngã kiến, vậy nên Như Lai nói tên ngã kiến. Như vậy, Đại đức! Có các kẻ phát tối Bồ tát thừa đối tất cả pháp nên biết, nên thấy, nên tin hiểu sâu.
Tin hiểu là sao? Nghĩa là đúng như pháp chẳng trụ nơi tưởng. Sở dĩ vì sao ? Đại đức Thiện Hiện! Vì bởi kẻ tưởng pháp tức chẳng tưởng pháp, vậy nên Như Lai nói tên tưởng pháp.
Đại đức phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát vô số thế giới đựng đầy bảy báu đem dùng bố thí. Có thiện nam tử thiện nữ nhân thảy đối Bát nhã Ba la mật đa đây cho đến thọ trì một tụng bốn câu, vì người khai chỉ, không tưởng khai chỉ. Các thiện nam tử thiện nữ nhân này chỗ được đống phước rất nhiều hơn trước.
Bấy giờ, Thế tôn mà nói tụng rằng:
Như sao, mù, đèn, huyễn,
Lộ, bọt, mộng, điện, mây,
Đối tất cả hữu vi
Nên làm quán như thế.
Khi ấy, Đức Bạc Già Phạm thuyết kinh này rồi, tất cả Bồ tát và Bí sô thảy, thế gian trời, người, a tố lạc thảy, tất cả chúng hội nghe Phật đã thuyết đều vui mừng lớn, tín thọ phụng hành.