Chân tông tịch diệt duy tâm sẵn đủ, nhưng diệu đạo viên thông không có người sẽ chẳng thể hoằng truyền được. Hưng khởi phạm sát, mở mang Phổ Môn, bủa mây từ, xối mưa pháp. Nhằm lúc pháp vận đi vào mùa Thu, người chấn hưng đạo Thiền sắp bị tuyệt diệt, chỉ có mình tiên sư Vô Trước Lão Nhân của tôi là người như vậy mà thôi! Thầy húy là Lập Sơn, pháp danh Mãn Viên, biệt hiệu Vô Trước. Năm Đạo Quang thứ năm (1825), tức năm Ất Dậu, ngày Hai Mươi Lăm tháng Hạ, thị hiện giáng sinh vào nhà họ Cố ở Kim Sơn, Tùng Giang, cha Ngài chính là Phước Bổn Ngộ Công. Năm sư mười bốn tuổi, thân phụ bèn xuất gia, tâm muốn đi theo, nhưng mẹ còn tại thế nên chẳng được thỏa nguyện. Đến tuổi nhược quan, xin xuống tóc với cha, đến chùa Đại Sùng Phước thọ Cụ túc giới. Do giặc đang chiếm đóng Nam Kinh nên chẳng tiện tham học các nơi, bèn trụ tại Phổ Đà hoặc sống ở Tùng Giang, ẩn mình giấu tiếng, không có lòng góp mặt với đời.
Đến năm Canh Ngọ (1870) đời Đồng Trị, bế quan tại Bán Sơn Am, hằng ngày lễ kinh Hoa Nghiêm, tham học khắp hải chúng. Khi ấy, chùa Pháp Vũ điêu tàn đến cùng cực, thiếu người Trụ trì. Vị tôn túc trong núi là Hòa thượng Tín Chân suất lãnh pháp quyến gõ cửa thỉnh Sư (làm Trụ trì). Từ tạ không được, phải chấp thuận. Mùa Xuân năm Nhâm Thân (1872) bèn tấn viện, tài sản nhà chùa đơn bạc, chi dụng không đủ, nhà nát, tường xiêu hoang tàn nhức mắt. Sư cảm thương, tự đặt trách nhiệm trùng hưng nhà chùa, tận sức lo liệu , sửa sang, tu bổ, bốn phương đàn tín trải vàng chỉ lo cho chậm chân. Trong vòng mấy năm, trăm chỗ bỏ phế đều được quy mô như cũ, nhưng xét về đại cuộc đã khả quan lắm. Lâu ngày, ý muốn nghỉ ngơi để chuyên tu Tịnh nghiệp, do vậy bèn dựng am tại phía Tây sườn núi Thanh Lương, để biển là Thường Minh. Ấy chính là dùng ý nghĩa “tâm tánh tịch chiếu viên dung, theo chiều ngang trọn khắp, theo chiều dọc thông suốt”, hòng làm cho người khác tu nhân để đắc quả.
Mùa Xuân năm Giáp Thân (1884) đời Quang Tự, Sư thoái ẩn tại am này, quyết chí quy Tây, niệm Phật không để sót. Lại lấy hai thời khóa tụng trong am làm hai thời niệm Phật, dùng đó làm quy định thường hằng vĩnh viễn, nóng lạnh không gián đoạn, tậu ba trăm hai mươi hai mẫu ruộng lúa, trừ ra một trăm mẫu (làm chi phí cúng tế trong) Vô Trước Từ Đường, những khoảnh ruộng còn lại dùng để nuôi chúng thường trụ niệm Phật. Ngoài ra, các vị như Hóa Khai v.v…dành ra bốn mươi mẫu ruộng để giúp tiền chi dụng cho những vị sư niệm Phật, đều ghi chép tường tận ở phần sau.
Lão nhân thường nói: “Chúng sinh đời mạt chướng sâu căn độn, chẳng dễ gì thấu đạt lẽ hướng thượng, đại ngộ còn khó huống chi thật chứng! Chỉ có mỗi một pháp Tịnh độ thích hợp khắp ba căn, lợi độn gồm thu, thượng Thánh hạ phàm đều nên tu trì. Bởi lẽ pháp này hoàn toàn lấy Quả Giác làm cái tâm trong khi tu thân, nhân bao trùm biển quả, quả thấu tột nguồn nhân, dùng chính ngay tướng thế gian để thông đạt Thật Tướng, lấy phàm tâm khế hợp Phật tâm. Pháp có thể nhờ cậy để duy trì Phật Pháp, giúp cho nền chính trị của đất nước, cảm động tâm người chỉ có mình pháp này mà thôi! Các ông hãy nên tận lực tuân hành, chớ nên phế bỏ mới chẳng phụ tứ ân, giúp trọn tam hữu. Nếu sau này hàng đương gia (người cai quản am này) phế bỏ quy cũ đã thành lập này, thì kẻ ấy chẳng phải là đệ tử của ta, hãy nhóm họp pháp quyết lập tức tẫn xuất, chớ cho ẩn náu kẻo phụ lòng ta.”
Đến ngày mồng Một tháng Chạp năm Kỷ Sửu (1889), Sư an nhiên thu thần qua đời, tăng lạp bốn mươi sáu năm, thọ sáu mươi lăm tuổi. Đệ tử thế độ mấy mươi người. nhưng người nối tiếp được công hạnh của Sư chỉ có mình Hóa Văn. Bọn Hoằng tuy được liệt vào hàng đồ đệ nhưng chưa vào được cửa trong, chẳng biết được sở ngộ của Sư, chẳng dám đề cao thầy kẻo đem phàm lạm Thánh, cũng chẳng dám hạ thấp kẻo khuất lấp người hiền, đành nêu đại cương ngôn hạnh của thầy để nêu rõ duyên khởi am này (xét ra, Pháp Vũ Tự khai sơn vào năm Vạn Lịch thứ tám đời Minh, đời Thanh trước kia hai lần được sắc kiến, sau loạn Hồng Dương suy bại đến cùng cực, ngài Vô Trước trùng hưng chùa).
ẤN QUANG PHÁP SƯ VĂN SAO – Tăng Quảng Chánh Biên. NXB PHƯƠNG ĐÔNG, 2008
Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Thế nào đại Bồ Tát tu tập đúng Bát nhã ba la mật tương ứng với Bát nhã ba la mật?”Đức Phật nói:
QUÁN TÁNH KHÔNGTHEO TRUNG QUÁN LUẬN 1. Tại sao phải quán? Sự thực hành chuyển hóa tâm thức của Phật giáo chủ yếu gồm ba pháp: Chỉ (hay Định), Quán, và Chỉ Quán
Song of Enlightenment byYung-chia Hsuan-chueh(Ch'an Buddhist monk, 665 - 713AD) There is the leisurely one,Walking the Tao, beyond philosophy,Not avoiding fantasy, not seeking truth.The real nature of ignorance is the Buddha-nature itself;The empty deluso
Hãy kết giao với bạn lành,Những người sống trong sạch, không lười nhácLời chỉ giáo đầu tiên, về những người bạn tâm linh, là một chủ đề thường xuất hiện trong giáo
[ Tu tập mở đầu ]Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối
QUAN HỆ THẦY TRÒ Theo Tinh thần Kinh Kế thừa Chánh pháp Thầy, vầng mây bậc, thong dong, núi cao biển rộng Con, cánh nhạn chiều, chân trời sải cánh, dõi theo Thầy,
Giữ giới là lựa chọn tự do Giới luật của Phật giáo có nghĩa là: “Anh đừng tự làm thương tổn mình, anh đừng tự làm hại mình”. 1. Tự do của lệ thuộc
Đạo Phật là gì Lama Zopa and Lama Yeshe Khi bạn tìm hiểu về đạo Phật tức là bạn đang tìm hiểu về con người thật của mình, về bản chất của tâm trí
Vô minh bẩm sinh & Vô minh văn hóa(VHPG) Mọi kinh nghiệm của chúng ta, kể cả giấc mộng, khởi lên từ vô minh. Đây là một tuyên bố làm hoảng hốt