Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 23
Thiện  Hiện phải biết: Ví như đất lớn ít chỗ sanh ra vàng bạc các ngọc báu,  nhiều chỗ sanh ra đất nước mặn các vật. Các loại hữu tình cũng lại như  thế, ít học Bát nhã Ba la mật đa, nhiều học Thanh văn bậc Ðộc giác. 
Thiện  Hiện phải biết: Ví như thú người phần ít năng làm nghiệp Chuyển luân  vương, phần nhiều năng làm nghiệp các Tiểu vương. Các loại hữu tình cũng  lại như thế, phần ít năng tu đạo Nhất thiết trí trí, phần nhiều năng tu  đạo Thanh văn, Ðộc giác. 
Thiện Hiện phải biết: Ví như trong  trời Ðịa cư cõi Dục, phần ít năng tạo nghiệp Thiên Ðế Thích, phần nhiều  năng tạo nghiệp các Thiên chúng. Các loại hữu tình cũng lại như thế, ít  cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, nhiều cầu quả Thanh văn, Ðộc giác thừa. 
Thiện  Hiện phải biết: Ví như trong sơ tĩnh lự cõi Sắc, phần ít năng tu nghiệp  Ðại phạm vương, phần nhiều năng tu nghiệp Phạm thiên chúng. Các loại  hữu tình cũng lại như thế, đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề ít được chẳng  quay lui, đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề vẫn nhiều có quay lui. 
Vậy  nên, Thiện Hiện! Các loại hữu tình năng phát tâm Ðại Bồ đề phần ít. Với  trong càng ít năng tu hạnh Bồ tát Ma ha tát. Với trong càng ít năng học  Bát nhã Ba la mật đa. Với trong càng ít năng đối Bát nhã Ba la mật đa  phương tiện khéo léo. Với trong cực ít năng đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ  đề được chẳng quay lui. Vậy nên, Thiện Hiện! Muốn vào số hữu tình cực ít  ấy, nên siêng tu học phương tiện khéo léo Bát nhã Ba la mật đa sâu  thẳm, khiến đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề được chẳng quay lui, mau  chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. 
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ  tát Ma ha tát tu học Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo  như thế, chẳng khởi tâm cùng hành cây còn chồi gốc, chẳng khởi tâm cùng  hành nghi ngờ, chẳng khởi tâm cùng hành tham lẫn, chẳng khởi tâm cùng  hành phạm giới, chẳng khởi tâm cùng hành giận dữ, chẳng khởi tâm cùng  hành lười nhác, chẳng khởi tâm cùng hành tán loạn, chẳng khởi tâm cùng  hành ác huệ. 
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu học  Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo như thế, năng nhiếp  tất cả Ba la mật đa, năng nhóm tất cả Ba la mật đa, năng dẫn tất cả Ba  la mật đa. Sở dĩ vì sao? Vì trong Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm trùm  chứa tất cả Ba la mật đa vậy. 
Thiện Hiện phải biết: Như tà thân  kiến khắp năng nhiếp thọ sáu mươi hai kiến, Bát nhã Ba la mật đa sâu  thẳm cũng lại như thế, trùm chứa tất cả Ba la mật đa. Nếu Bồ tát Ma ha  tát năng chính tu học Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo  léo, năng dẫn tất cả Ba la mật đa khiến khôn lớn dần. 
Thiện Hiện  phải biết: Ví như mạng căn năng trì các căn, Bát nhã Ba la mật đa sâu  thẳm cũng lại như thế, năng trì tất cả pháp lành thù thắng. Sở dĩ vì  sao? Nếu Bồ tát Ma ha tát năng chính tu học Bát nhã Ba la mật đa sâu  thẳm, năng khắp nhiếp trì tất cả pháp lành. 
Thiện Hiện phải  biết: Như mạng căn diệt các căn diệt theo, Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm  cũng lại như thế. Nếu Bồ tát Ma ha tát mất Bát nhã Ba la mật đa sâu  thẳm như thế, thời là lui mất tất cả pháp lành. Nếu Bồ tát Ma ha tát  năng chính tu học Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, năng khắp diệt trừ các  pháp bất thiện. 
Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn  đến tất cả Ba la mật đa bờ kia rốt ráo, nên siêng tu học Bát nhã Ba la  mật đa sâu thẳm. 
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát năng  siêng tu học Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đối các hữu hình rất thượng  rất thắng. Sở dĩ vì sao? Vì Bồ tát Ma ha tát này siêng năng tu học pháp  Vô thượng Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm vậy. 
Lại nữa, Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Các loại hữu tình ở thế giới Tam thiên đại thiên đây hãy là nhiêu chăng? 
Thiện  Hiện thưa rằng: Các loài hữu tình trong châu Thiệm Bộ hãy nhiều vô số,  huống nào các loại hữu tình thế giới Tam thiên đại thiên đâu chẳng là  nhiều. 
Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói.  Thiện Hiện phải biết: Giả sử các loại hữu tình thế giới Tam thiên đại  thiên chẳng trước chẳng sau đều được thân người, được thân người rồi  chẳng trước chẳng sau đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, tu các  hạnh Bồ tát Ma ha tát. Tu hành mãn rồi, chẳng trước chẳng sau đều được  Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Có Bồ tát Ma ha tát hết nơi hình thọ năng  đem thượng diệu ác mặc, uống ăn, phòng nhà, đồ nằm, bệnh duyên chữa  thuốc và các của cải cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen các Như  Lai Ứng Chánh đẳng giác. Nơi ý hiểu sao? Bồ tát Ma ha tát này do nhân  duyên đây được phước nhiều chăng? 
Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. 
Phật  bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát năng tu Bát nhã Ba la mật đa sâu  thẳm như thế qua chừng búng ngón tay, chỗ được công đức rất nhiều hơn  trước vô lượng vô số. Sở dĩ vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đủ  đại nghĩa dụng, năng khiến chúng Bồ tát Ma ha tát mau chứng Vô thượng  Chánh đẳng Bồ đề. 
Vậy nên, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn  chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, muốn làm thượng thủ tất cả hữu tình,  muốn nhiêu ích khắp tất cả hữu tình: kẻ không cứu hộ vì làm không cứu  hộ, kẻ không về nương vì làm về nương, kẻ không vào tới vì làm vào tới,  kẻ không tròng mắt vì làm tròng mắt, kẻ không ánh sáng vì làm ánh sáng,  kẻ mất đường chánh chỉ cho đường chánh, kẻ chưa Niết bàn khiến được Niết  bàn, thời phải nên học Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế. 
Lại  nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn đi cảnh giới chư Phật đã đi,  muốn ngự ngôi đại tiên tôn vị chư Phật, muốn dạo chơi chỗ chư Phật đã  dạo chơi, muốn làm rống Ðại sư tử như chư Phật, muốn đánh trống pháp Vô  thượng của chư Phật, muốn động chuông pháp Vô thượng của chư Phật, muốn  thổi ốc pháp Vô thượng của chư Phật, muốn lên tòa Vô thượng của chư  Phật, muốn diễn nghĩa pháp Vô thượng của chư Phật, muốn xé rách lưới  nghi tất cả hữu tình, muốn vào pháp giới Cam lồ của chư Phật, muốn hưởng  pháp lạc vi diệu chư Phật, muốn chứng công đức viên mãn chư Phật, muốn  dùng một âm vi tất cả hữu tình cõi Tam thiên diễn nói Chánh pháp khiến  khắp tất cả được nhiêu ích lớn, thời phải nên học Bát nhã Ba la mật đa  sâu thẳm như thế. 
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát tu  học Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế, không có công đức thắng lợi  nào tất cả thế gian xuất thế gian mà chẳng năng được. Sở dĩ vì sao? Vì  Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm là tất cả hạt giống công đức căn lành làm  chỗ nương vậy. 
Thiện Hiện phải biết: Ta từng chẳng thấy có Bồ  tát Ma ha tát siêng tu học Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế mà  chẳng năng được công đức thắng lợi thế gian xuất thế gian. 
Bấy  giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Các Bồ tát Ma ha tát tu học Bát nhã  Ba la mật đa sâu thẳm như thế, đâu cũng năng được công đức căn lành  Thanh văn Ðộc giác? 
Phật bảo: Thiện Hiện! Công đức căn lành  Thanh văn Ðộc giác, chúng các Bồ tát Ma ha tát đây cũng đều năng được,  nhưng với trong ấy không trụ không chấp. Dùng thắng trí kiến chính quan  sát rồi vượt khỏi Thanh văn và bậc Ðộc giác, tới vào ngôi Bồ tát Chánh  tánh ly sanh. Nên chúng các Bồ tát Ma ha tát đây không có tất cả công  đức căn lành nào mà chẳng năng được. 
Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ  tát Ma ha tát đối tất cả giống công đức căn lành Thanh văn, Ðộc giác  đều nên tu học. Mặc dù với trong ấy chẳng cầu tác chứng mà đối tất cả  muốn khéo thông suốt, để vì hữu tình kia tuyên nói khai chỉ. 
Lại  nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi học như thế thời là gần kề  Nhất thiết trí trí, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, năng tận vị  lai lợi vui tất cả. 
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát  khi học như thế thời làm ruộng phước chơn tịnh tất cả thế gian trời,  người, a tố lạc thảy vượt trên ruộng phước thế gian Sa môn, Phạm chí,  Thanh văn, Ðộc giác, mau chứng được Nhất thiết trí trí. 
Lại nữa,  Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi học như thế, tùy sanh chỗ nào  chẳng bỏ Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế, chẳng lìa Bát nhã Ba la  mật đa sâu thẳm như thế, thường hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như  thế. 
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát năng hành Bát nhã  Ba la mật đa sâu thẳm như thế, phải biết đã được chẳng quay lui đối  Nhất thiết trí trí. Ðối tất cả pháp năng chính giác biết, xa lìa Thanh  văn và bậc Ðộc giác thảy, gần kề Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. 
Lại  nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu  thẳm khởi nghĩ như vầy: Ðây là Bát nhã Ba la mật đa, đây là thời tu,  đây là xứ tu, ta năng tu Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đây, ta do Bát  nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế, vứt bỏ được pháp nên bỏ như thế mới  năng dẫn phát Nhất thiết trí trí. Bồ tát Ma ha tát này chẳng hành Bát  nhã Ba la mật đa, cũng đối Bát nhã Ba la mật đa chẳng năng hiểu rõ được  gì. 
Sở dĩ vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng khởi  nghĩ này: Ta là Bát nhã Ba la mật đa, đây là thời tu, đây là xứ tu, đây  là kẻ tu, đây là pháp mà Bát nhã Ba la mật đa phải xa lìa, đây là pháp  được Bát nhã Ba la mật đa soi rõ, đây là Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề mà  Bát nhã Ba la mật đa đã chứng. Nếu hiểu như thế là hành Bát nhã Ba la  mật đa. 
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát  nhã Ba la mật đa khởi nghĩ như vầy: Ðây chẳng Bát nhã Ba la mật đa, đây  chẳng thời tu, đây chẳng xứ tu, đây chẳng kẻ tu, chẳng do Bát nhã Ba la  mật đa xa lìa tất cả pháp phải nên bỏ, chẳng do Bát nhã Ba la mật đa  năng chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Sở dĩ vì sao? Vì tất cả pháp đều  trụ chơn như không sai khác vậy. 
Thiện Hiện phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát đối tất cả pháp đều không phân biệt, không sở giác liễu là hành Bát nhã Ba la mật đa.
Bấy  giờ, Thiên Ðế Thích khởi nghĩ này rằng: Nếu Bồ tát Ma ha tát tu hành  Bát nhã Ba la mật đa hãy hơn tất cả loại hữu tình, huống được Vô thượng  Chánh đẳng Bồ đề. Nếu các loại hữu tình nghe thuyết danh tự Nhất thiết  trí trí thâm sanh tin hiểu, hãy vì được lợi lành trong người và được thế  gian thọ mạng rất hơn, huống phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, hoặc  năng lóng nghe Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm. Nếu các hữu tình năng phát  tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, lóng nghe kinh điển Bát nhã Ba la mật đa  sâu thẳm, các hữu tình khác đều nên nguyện muốn chỗ được công đức thế  gian trời người, a tố lạc thảy đều chẳng năng kịp được! 
Bấy giờ, Thế Tôn biết tâm chỗ nghĩ Thiên Ðế Thích bèn bảo đó rằng: Như vậy, như vậy! Như ngươi đã nghĩ. 
Khi  ấy, Thiên Ðế Thích vui mừng nhảy nhót hóa làm hương hoa mầu nhiệm trên  trời phụng rải lên Như Lai và các Bồ tát. Ðã rải hoa rồi, khởi nguyện  này rằng: “Nếu các thiện nam tử thảy Bồ tát thừa cầu tới Vô thượng Chánh  đẳng Bồ đề, đem công đức căn lành tôi đã sanh khiến kia sở nguyện công  đức thù thắng mau được viên mãn. Khiến kia sở cầu Vô thượng Phật pháp  mau được viên mãn. Khiến kia sở cầu các pháp tương ưng Nhất thiết trí  trí mau được viên mãn. Khiến kia sở cầu tự nhiên người pháp mau được  viên mãn. Khiến kia sở cầu vô lậu thánh pháp mau được viên mãn. Khiến  kia sở muốn nghe tất cả pháp đều được như ý. Nếu kẻ cầu Thanh văn Ðộc  giác thừa, cũng khiến sở nguyện chóng được đầy đủ”. 
Làm nguyện  đấy rồi bèn thưa Phật rằng: Nếu các thiện nam tử thảy Bồ tát thừa đã  phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, tôi trọn chẳng sanh một niệm khác ý  khiến kia quay lui tâm Ðại Bồ Ðề. Tôi trọn chẳng sanh một niệm khác ý  khiến chúng các Bồ tát Ma ha tát chán lìa Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề,  lui rơi Thanh văn bậc Ðộc giác thảy. Tôi trọn chẳng khởi một niệm khác  tâm khiến chúng các Bồ tát Ma ha tát lui mất tác ý tương ưng Ðại Bi. 
Nếu  Bồ tát Ma ha tát đã đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hết lòng ưa muốn,  tôi nguyện lòng kia càng bội tăng tiến, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng  Bồ đề. Nguyện chúng Bồ tát Ma ha tát kia thấy các thứ khổ trong sanh tử  rồi, vì muốn lợi vui thế gian trời, người, a tố lạc thảy phát khởi các  thứ đại nguyện vững chắc: 
“Ta đã qua biển cả sanh tử, cũng phải  tinh siêng độ kẻ chưa qua. Ta đã tự mở sanh tử trói buộc, cũng phải tinh  siêng mở kẻ chưa mở. Ta đối các thứ sợ hãi sanh tử đã tự yên ổn, cũng  phải tinh siêng yên kẻ chưa yên. Ta đã tự chứng Niết bàn, cũng phải tinh  siêng khiến kẻ chưa chứng đều đồng chứng được”. 
Bạch Thế Tôn!  Nếu loại hữu tình đối công đức Bồ tát sơ phát tâm, hết lòng tùy hỷ được  bao nhiêu phước? Ðối công đức Bồ tát lâu phát tâm ta các thắng hạnh, hết  lòng tùy hỷ được bao nhiêu phước? Ðối công đức Bồ tát bậc chẳng quay  lui, hết lòng tùy hỷ được bao nhiêu phước? Ðối công đức Bồ tát còn buộc  một đời, hết lòng tùy hỷ được bao nhiêu phước? 
Bấy giờ, Phật bảo  Thiên Ðế Thích rằng: Kiều Thi Ca! Núi chúa Diệu cao khá biết số cân  lạng, loại hữu tình ấy đồng lòng tùy hỷ sanh ra phước đức chẳng thể biết  hạn lượng. 
Kiều Thi Ca! Cõi bốn đại câu khá biết số cân lạng,  loại hữu tình ấy đồng lòng tùy hỷ sanh ra phước đức chẳng thể biết hạn  lượng. 
Kiều Thi Ca! Thế giới Tiểu thiên khá biết số cân lạng,  loại hữu tình ấy đồng lòng tùy hỷ sanh ra phước đức chẳng thể biết hạn  lượng. 
Kiều Thi Ca! Thế giới Trung thiên khá biết số cân lạng,  loại hữu tình ấy đồng lòng tùy hỷ sanh ra phước đức chẳng thể biết hạn  lượng. 
Kiều Thi Ca! Ta đối thế giới Tam thiên đại thiên đây khá  biết số lạng, loại hữu tình ấy đồng lòng tùy hỷ sanh ra phước đức chẳng  thể biết được hạn lượng. 
Kiều Thi Ca! Giả sử thế giới Tam thiên  đại thiên hợp làm thành một biển, có kẻ lấy một lông chẻ thành trăm  phần, cầm đầu một phần chấm vào nước biển kia cho hết, khá biết số giọt.  Loại hữu tình ấy đồng lòng tùy hỷ sanh ra phước đức chẳng thể biết hạn  lượng. 
Khi ấy, Thiên Ðế Thích lại thưa Phật rằng: Nếu các hữu  tình đối các Bồ tát từ sơ phát tâm cho đến chứng được sở cầu Vô thượng  Chánh đẳng Bồ đề vô lượng vô biên công đức thù thắng chẳng sanh tùy hỷ,  hoặc lại đối kia đồng lòng tùy hỷ sở sanh phước đức chẳng nghe chẳng  biết, chẳng khởi nghĩ nhớ, chẳng sanh tùy hỷ, phải biết đều là bị ma nắm  giữ, bị ma ám bắt, bè lũ của ma, chết cõi Thiên ma đến sanh trong đây.  Sở dĩ vì sao?. 
Nếu Bồ tát Ma ha tát cầu tới Vô thượng Chánh đẳng  Bồ đề, tu các hạnh Bồ tát Ma ha tát, nếu có phát tâm đối công đức kia  rất sanh tùy hỷ, hoặc có đối kia tùy hỷ công đức hết lòng nhớ nghĩ sanh ý  tùy hỷ, đều năng phá hoại được tất cả ma quân cung điện, bè lũ, mau  chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề năng tận vị lai lợi vui tất cả thế  gian. 
Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình hết lòng kính mến Phật Pháp  Tăng bảo, tùy sanh chỗ nào thường muốn thấy Phật nghe Pháp gặp Tăng.  Ðối công đức căn lành chúng các Bồ tát Ma ha tát rất nên tùy hỷ. Ðã tùy  hỷ rồi, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề mà chẳng nên sanh tưởng hai  chẳng hai. Nếu được như thế mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, nhiêu  ích hữu tình phá chúng ma quân. 
Bấy giờ, Phật bảo Thiên Ðế  Thích rằng: Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói. Kiều Thi Ca! Nếu các hữu  tình đối công đức căn lành chúng các Bồ tát Ma ha tát hết lòng tùy hỷ  hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, các hữu tình ấy mau được viên mãn  các hạnh Bồ tát, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Nếu các hữu tình  đối công đức căn lành chúng các Bồ tát Ma ha tát hết lòng tùy hỷ hồi  hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, các hữu tình này đủ oai đức lớn,  thường năng phụng thờ tất cả Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác và bạn thiện  tri thức, hằng nghe kinh điển Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, khéo biết  nghĩa thú. Các hữu tình ấy trọn nên công đức căn lành tùy hỷ hồi hướng,  tùy sanh chỗ nào thường được tất cả thế gian trời, người, a tố lạc thảy  cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Chẳng thấy ác sắc, chẳng nghe  ác thanh, chẳng ngửi ác hương, chẳng nếm ác vị, chẳng giác ác xúc,  chẳng nghĩ ác pháp, chẳng đọa ác thú. Sanh trong trời người hằng hưởng  các thú vui tốt mà không nhiễm đắm. Thường chẳng xa lìa chư Phật Thế  Tôn. Từ một nước Phật đến một nước Phật, gần gũi chư Phật trồng các căn  lành, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Vì cớ sao? 
Kiều  Thi Ca! Các hữu tình này năng đối vô lượng công đức căn lành chúng các  Bồ tát hết lòng tùy hỷ hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Nhờ nhân  duyên đây, căn lành tăng tiến mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Ðã  được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, năng tận vị lai như thật nhiêu ích vô  lượng vô số vô biên hữu tình, khiến trụ cõi Vô dư bát Niết bàn. 
Vì  vậy nên, Kiều Thi Ca! Các thiện nam tử thảy trụ Bồ tát thừa đối công  đức căn lành chúng Bồ tát đều nên tùy hỷ hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng  Bồ đề. Với khi sanh tùy hỷ và hồi hướng, chẳng nên chấp trước tức tâm tu  hành, lìa tâm tu hành. 
Nếu không sở chấp trước được như thế,  tùy hỷ hồi hướng tu hạnh các Bồ tát Ma ha tát mau chứng Vô thượng Chánh  đẳng Bồ đề, độ các trời, người, a tố lạc thảy khiến thoát sanh tử được  vào Niết bàn. Nhờ nhân duyên đây, các loại hữu tình đối công đức căn  lành các Bồ tát đều nên phát sanh tùy hỷ hồi hướng, năng khiến vô lượng  vô biên hữu tình trồng các căn lành được đại lợi vui. 
Bấy giờ, Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Tâm đều như huyễn Bồ tát Ma ha tát làm sao năng chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề? 
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Ngươi vì thấy có tâm như huyễn chăng? Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thấy. 
Phật  bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Ngươi thấy huyễn chăng? Thiện Hiện  thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thấy. Tôi chẳng thấy huyễn cũng chẳng  thấy có tâm như huyễn. 
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi ý hiểu sao? Nếu  ngươi chẳng thấy huyễn, chẳng thấy tâm như huyễn, nếu chỗ không huyễn  không tâm như huyễn, ngươi thấy có tâm ấy năng được Vô thượng Chánh đẳng  Bồ đề chăng? 
Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thấy.  Tôi đều chẳng thấy có chỗ không huyễn không tâm như huyễn, lại có tâm ấy  năng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. 
Phật bảo: Thiện Hiện! Nơi  ý hiểu sao? Nếu chỗ lìa huyễn lìa tâm như huyễn, ngươi thấy có pháp ấy  năng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề chăng? 
Thiện Hiện thưa  rằng: Bạch Thế Tôn! Chẳng thấy. Tôi đều chẳng thấy có chỗ lìa huyễn lìa  tâm như huyễn lại có pháp ấy năng lực được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. 
Bạch  Thế Tôn! Tôi đều chẳng thấy tức lìa tâm pháp nói những pháp là có là  không, vì tất cả pháp lìa rốt ráo vậy. Nếu tất cả pháp lìa rốt ráo ấy,  chẳng thể thi thiết là có là không. Nếu pháp chẳng thể thi thiết có  không, thời chẳng thể nói năng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vì chẳng  phải pháp vô sở hữu năng được Bồ đề vậy. Sở dĩ vì sao? 
Vì tất  cả pháp đều vô sở hữu, tánh bất khả đắc, không nhiễm không tịnh, pháp  lìa rốt ráo vô sở hữu, nên chẳng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vậy  nên, Bát nhã Ba la mật đa cũng lìa rốt ráo. Nếu pháp lìa rốt ráo, pháp  này chẳng nên tu, cũng chẳng nên khiển, cũng lại chẳng nên có sở dẫn  phát. 
Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đã lìa rốt  ráo, làm sao khá nói các Bồ tát Ma ha tát nương Bát nhã Ba la mật đa sâu  thẳm chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề? Bạch Thế Tôn! Vô thượng  Chánh đẳng Bồ đề của chư Phật cũng lìa rốt ráo, làm sao pháp lìa rốt ráo  năng được lìa rốt ráo vậy? Vậy nên, Bát nhã Ba la mật đa lẽ chẳng thể  nói chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề? 
Phật bảo: Thiện Hiện!  Hay thay, hay thay! Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói. Bát nhã Ba la  mật đa sâu thẳm đã lìa rốt ráo, Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề của chư Phật  cũng lìa rốt ráo. 
Thiện Hiện phải biết: Bát nhã Ba la mật đa sâu  thẳm lìa rốt ráo, nên được rốt ráo, nên được rốt ráo lìa chư Phật Vô  thượng Chánh đẳng Bồ đề. 
Thiện Hiện phải biết: Nếu Bát nhã Ba la  mật đa sâu thẳm chẳng lìa rốt ráo, lẽ chẳng phải Bát nhã Ba la mật đa.  Vì Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm lìa rốt ráo nên được gọi Bát nhã Ba la  mật đa. 
Vậy nên, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát chẳng phải  nương dựa Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chứng được Vô thượng Chánh đẳng  Bồ đề. 
Thiện Hiện phải biết: Tuy chẳng lìa pháp năng được lìa  pháp mà được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, chẳng phải chẳng nương dựa Bát  nhã Ba la mật đa sâu thẳm. Vậy nên, chúng Bồ tát Ma ha tát muốn được Vô  thượng Chánh đẳng Bồ đề, nên siêng tu học Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm.  
Cụ thọ Thiện Hiện bèn thưa Phật rằng: Các Bồ tát Ma ha tát sở hành nghĩa thú cực là sâu thẳm? 
Phật bảo: Thiện Hiện! Như vậy, như vậy. Các Bồ tát Ma ha tát sở hành nghĩa thú cực là sâu thẳm. 
Thiện  Hiện! Phải biết các Bồ tát Ma ha tát năng làm việc khó mặc dù hành  nghĩa thú sâu thẳm như thế mà đối pháp Thanh văn bậc Ðộc giác được chẳng  tác chứng. 
Bấy giờ, Thiện Hiện lại thưa Phật rằng: Như tôi hiểu  nghĩa Phật đã nói đó, các Bồ tát Ma ha tát sở làm chẳng khó, chẳng nên  nói kia năng làm việc khó. Sở dĩ vì sao? Vì các Bồ tát Ma ha tát sở  chứng nghĩa thú trọn bất khả đắc, năng chứng Bát nhã Ba la mật đa cũng  bất khả đắc, pháp chứng, kẻ chứng, xứ chứng, thời chứng cũng bất khả  đắc. 
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát nghe lời như thế tâm  chẳng chìm đắm, chẳng lo hối, chẳng kinh chẳng sợ, là hành Bát nhã Ba la  mật đa. 
Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát này khi hành như thế  chẳng thấy các tướng, chẳng thấy ta hành, chẳng thấy chẳng hành. Chẳng  thấy Bát nhã Ba la mật đa là ta sở hành, chẳng thấy Vô thượng Chánh đẳng  Bồ đề là ta sở chứng, cũng lại chẳng thấy xứ thời chứng thảy. 
Bạch  Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát này đối việc như thế cũng lại chẳng thấy là  hành Bát nhã Ba la mật đa, bèn gần Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. 
Bạch  Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát này đối việc như thế cũng lại chẳng thấy là  hành Bát nhã Ba la mật đa, bèn xa Thanh văn bậc Ðộc giác thảy. 
Bạch  Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát này đối việc như thế cũng chẳng phân biệt,  tuy hành Bát nhã Ba la mật đa chẳng khởi nghĩ này: Ta hành Bát nhã Ba la  mật đa, gần kề Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, xa lìa Thanh văn bậc Ðộc  giác thảy. 
Bạch Thế Tôn! Ví như hư không chẳng khởi nghĩ này: Ta  cách việc kia hoặc xa hoặc gần. Sở dĩ vì sao? Vì hư không không động,  cũng không phân biệt, không phân biệt vậy. Các Bồ tát Ma ha tát cũng lại  như thế, hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng khởi nghĩ này: Ta xa  Thanh văn bậc Ðộc giác thảy, ta gần Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Sở dĩ vì  sao? Vì Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đối tất cả pháp không phân biệt  vậy. 
Bạch Thế Tôn! Ví như huyễn sĩ chẳng khởi nghĩ này: Huyễn  chất huyễn sư cách ta là gần, mọi kẻ bàng quan ta là xa. Sở dĩ vì sao?  Vì kẻ sở huyễn hóa không phân biệt vậy. Các Bồ tát Ma ha tát cũng lại  như thế, hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng khởi nghĩ này: Ta xa  Thanh văn bậc Ðộc giác thảy, ta gần Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Sở dĩ vì  sao? Vì Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đối tất cả pháp không phân biệt  vậy. 
Bạch Thế Tôn! Ví như bóng tượng chẳng khởi nghĩ này: Ta  nhân kia hiện cách ta là gần, gương nước thảy pháp cách ta là xa. Sở dĩ  vì sao? Vì bóng tượng hiện ra không phân biệt vậy. Các Bồ tát Ma ha tát  cũng lại như thế, hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm chẳng khởi nghĩ  này: Ta xa Thanh văn bậc Ðộc giác thảy, ta gần Vô thượng Chánh đẳng Bồ  đề. Sở dĩ vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đối tất cả pháp không  phân biệt vậy. 
Bạch Thế Tôn! Như các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng  Giác đối tất cả pháp không ưa không ghét. Sở dĩ vì sao? Vì các Như Lai  dứt hẳn tất cả phân biệt ưa ghét thảy vậy. Các Bồ tát Ma ha tát cũng lại  như thế, hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đối tất cả pháp không ưa  không ghét. 
Sở dĩ vì sao? Như các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác sở  đắc Bát nhã Ba la mật đa dứt hẳn tất cả vọng tưởng phân biệt, nên đối  các pháp không ưa không ghét. Các Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa phục hẳn tất cả vọng tưởng phân biệt, nên đối với các pháp không  ưa không ghét. 
Bạch Thế Tôn! Như kẻ do các Như Lai Ứng Chánh  Ðẳng Giác biến hóa ra chẳng khởi nghĩ này: Ta xa Thanh văn bậc Ðộc giác  thảy, ta gần Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Sở dĩ vì sao? Vì kẻ được biến  hóa không phân biệt vậy. Hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, các Bồ tát  Ma ha tát cũng lại như thế, chẳng khởi nghĩ này: Ta xa Thanh văn bậc Ðộc  giác thảy, ta gần Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Sở dĩ vì sao? Vì Bát nhã  Ba la mật đa sâu thẳm đối tất cả pháp không phân biệt vậy. 
Bạch  Thế Tôn! Như các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác muốn có sở tác hóa làm kẻ  hóamkhiến làm việc kia. Nhưng kẻ sở hóa chẳng khởi nghĩ này: Ta năng gây  làm được sự nghiệp như thế. Sở dĩ vì sao? Vì các kẻ sở hóa đối sở tác  nghiệp không phân biệt vậy. Hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm các Bồ  tát Ma ha tát cũng lại như thế, vì có sở vi mà siêng tu học. Ðã tu học  rồi, tuy năng thành xong sự nghiệp sở tác mà đối sở tác mà đối sở tác  không chỗ phân biệt. Sở dĩ vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đối  tất cả pháp không phân biệt vậy. 
Bạch Thế Tôn! Ví như thợ khéo  hoặc học trò kia có sở vi nên mới tạo tác cơ quan, hoặc nam hoặc nữ,  hoặc voi ngựa thảy. Các cơ quan ấy tuy có sở tác mà đối việc kia trọn  không phân biệt. Sở dĩ vì sao? Vì máy móc lẽ vậy không có phân biệt.  Hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm các Bồ tát Ma ha tát cũng lại như  thế, vì có sở vi mà thành lập đó. Ðã thành lập rồi, tuy năng thành xong  được các thứ sự nghiệp mà với trong ấy trọn chẳng phân biệt. Sở dĩ vì  sao? Vì Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm lẽ vậy đối các pháp không phân  biệt vậy. 
 
Hội Thứ Tư 
Phẩm Bền Chắc 
Thứ 27 – 1 
Khi  ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát  nhã Ba la mật đa sâu thẳm, vì hành pháp bền chắc hay hành pháp chẳng bền  chắc? 
Thiện Hiện đáp rằng: Các Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát  nhã Ba la mật đa sâu thẳm hành pháp bền chắc, chẳng hành pháp bền chắc.  Vì cớ sao? 
Xá Lợi Tử! Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm và tất cả  pháp rốt ráo đều không có tánh bền chắc vậy. Sở dĩ vì sao? Các Bồ tát Ma  ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, đối Bát nhã Ba la mật đa  sâu thẳm và tất cả pháp hãy chẳng thấy có pháp chẳng bền chắc khá được,  huống thấy có pháp bền chắc khá được. 
Khi ấy, có vô lượng Thiên  Tử cõi Dục, Thiên Tử cõi Sắc đồng khởi nghĩ này: Nếu các thiện nam tử  thảy Bồ tát thừa năng phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, tuy hành Bát  nhã Ba la mật đa nghĩa thú sâu thẳm mà đối thật tế năng được chẳng tác  chứng, chẳng rơi Thanh văn và bậc Ðộc giác. Do nhân duyên đây, loại hữu  tình này đấy là hiếm có, năng làm được việc khó, phải nên kính lễ. Sở dĩ  vì sao? Vì các thiện nam tử thảy Bồ tát thừa này tuy hành pháp tánh mà  với trong ấy năng được chẳng tác chứng! 
Bấy giờ, Thiện Hiện biết  chỗ nghĩ nơi tâm các Thiên Tử, liền bảo đó rằng: Các thiện nam tử thảy  Bồ tát thừa đây chẳng chứng thật tế, chẳng rơi Thanh văn và bậc Ðộc giác  chẳng phải hiếm có lắm, cũng chưa là khó. Nếu Bồ tát Ma ha tát biết tất  cả pháp và các hữu tình rốt ráo chẳng có, đều bất khả đắc mà phát tâm  Vô thượng Chánh đẳng giác, mặc áo giáp tinh tiến, thề độ vô lượng vô  biên hữu tình khiến vào cõi Vô dư bát Niết bàn, Bồ tát Ma ha tát này mới  lắm hiếm có, năng làm được việc khó. 
Thiên Tử phải biết: Nếu Bồ  tát Ma ha tát mặc dù biết hữu tình rốt ráo chẳng có, trọn bất khả đắc,  mà phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, mặc giáp tinh tiến, vì muốn điều  phục các loại hữu tình như có kẻ vì muốn điều phục hư không. Vì cớ sao? 
Các  Thiên Tử! Hư không lìa, nên phải biết tất cả hữu tình cũng lìa. Hư  không không, nên phải biết tất cả hữu tình cũng không. Hư không chẳng  bền chắc, nên phải biết tất cả hữu tình cũng chẳng bền chắc. Hư không vô  sở hữu, nên phải biết tất cả hữu tình cũng vô sở hữu. Do nhân duyên  đây, Bồ tát Ma ha tát này mới là hiếm có, năng làm được việc khó. 
Thiên  Tử! Phải biết Bồ tát Ma ha tát này mặc giáp đại nguyện, vì muốn điều  phục tất cả hữu tình mà các hữu tình rốt ráo chẳng có, trọn bất khả đắc,  như có kẻ mặc giáp chiến cùng hư không. 
Thiên Tử! Phải biết Bồ  tát Ma ha tát này mặc giáp đại nguyện, vì muốn nhiêu ích tất cả hữu  tình, mà các hữu tình và giáp đại nguyện rốt ráo chẳng có, đều bất khả  đắc. Vì cớ sao? 
Các Thiên Tử! Hữu tình lìa nên giáp đại nguyện  đây phải biết cũng lìa. Hữu tình không, nên phải biết giáp đại nguyện  đây cũng không. Hữu tình chẳng bền chắc, nên phải biết giáp đại nguyện  đây cũng chẳng bền chắc. Hữu tình vô sở hữu, nên phải biết giáp đại  nguyện đây cũng vô sở hữu. 
Thiên Tử! Phải biết Bồ tát Ma ha tát, việc điều phục nhiêu ích các hữu tình cũng bất khả đắc. Vì cớ sao? 
Các  Thiên Tử! Hữu tình lìa, nên việc điều phục nhiêu ích đây phải biết cũng  lìa. Hữu tình không, nên việc điều phục nhiêu ích đây phải biết đây  cũng không. Hữu tình chẳng bền chắc, nên việc điều phục nhiêu ích đây  phải biết cũng chẳng bền chắc. Hữu tình vô sở hữu, nên việc điều phục  nhiêu ích đây phải biết cũng vô sở hữu. 
Thiên Tử! Phải biết các  Bồ tát Ma ha tát cũng vô sở hữu. Vì có sao? Các Thiên Tử! Vì hữu tình  lìa, nên các Bồ tát Ma ha tát phải biết cũng lìa. Hữu tình không, nên  các Bồ tát Ma ha tát phải biết cũng không. Hữu tình chẳng bền chắc, nên  các Bồ tát Ma ha tát phải biết cũng chẳng bền chắc. Hữu tình vô sở hữu,  nên các Bồ tát Ma ha tát phải biết cũng vô sở hữu. 
Thiên Tử phải  biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát nghe lời như thế tâm chẳng chìm đắm, cũng  chẳng lo hối, chẳng kinh chẳng sợ, phải biết Bồ tát Ma ha tát này hành  Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm. 
Vì cớ sao? Các Thiên Tử! Vì hữu  tình lìa nên phải biết sắc uẩn cũng lìa, hữu tình lìa nên phải biết thọ  tưởng hành thức uẩn cũng lìa. Hữu tình lìa nên phải biết nhãn xứ cũng  lìa, hữu tình lìa nên phải biết nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng lìa. Hữu  tình lìa nên phải biết sắc xứ cũng lìa, hữu tình lìa nên phải biết thanh  hương vị xúc pháp xứ cũng lìa. Hữu tình lìa nên phải biết nhãn giới  cũng lìa, hữu tình lìa nên phải biết nhĩ tỷ thiệt thân ý giới cũng lìa.  Hữu tình lìa nên phải biết sắc giới cũng lìa, hữu tình lìa nên phải biết  thanh hương vị xúc pháp giới cũng lìa. Hữu tình lìa nên phải biết nhãn  thức giới cũng lìa, hữu tình lìa nên phải biết nhĩ tỷ thiệt thân ý thức  giới cũng lìa. Hữu tình lìa nên phải biết nhãn xúc cũng lìa, hữu tình  lìa nên phải biết nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc cũng lìa. Hữu tình lìa nên  phải biết nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng lìa, hữu tình lìa nên  phải biết nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng lìa. 
Hữu  tình lìa nên phải biết địa giới cũng lìa, hữu tình lìa nên phải biết  thủy hỏa phong không thức giới cũng lìa. Hữu tình lìa nên phải biết nhân  duyên cũng lìa, hữu tình lìa nên phải biết đẳng vô gián duyên, sở duyên  duyên, tăng thượng duyên cũng lìa. 
Hữu tình lìa nên phải biết  vô minh cũng lìa; hữu tình lìa nên phải biết hành, thức, danh sắc, lục  xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng lìa. Hữu tình lìa nên phải  biết bố thí Ba la mật đa cho đến Bát nhã Ba la mật đa cũng lìa. Hữu  tình lìa nên phải biết nội không cho đến vô tánh tự tánh không cũng lìa.  Hữu tình lìa nên phải biết chơn như cho đến bất tư nghì giới cũng lìa. 
Hữu  tình lìa nên phải biết khổ thánh đế cho đến đạo thánh đế cũng lìa. Hữu  tình lìa nên phải biết bổn niệm trụ cho đến tám thánh đạo chi cũng lìa.  Hữu tình lìa nên phải biết bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định  cũng lìa. Hữu tình lìa nên phải biết không, vô tướng, vô nguyện giải  thoát môn cũng lìa. Hữu tình lìa nên phải biết tám giải thoát cho đến  mười biến xứ cũng lìa. 
Hữu tình lìa nên phải biết Tịnh quán địa  cho đến Như Lai địa cũng lìa. Hữu tình lìa nên phải biết Cực hỷ địa cho  đến Pháp vân địa cũng lìa. Hữu tình lìa nên phải biết tất cả đà la ni  môn, tam ma địa môn cũng lìa. Hữu tình lìa nên phải biết năm nhãn, sáu  thần thông cũng lìa. 
Hữu tình lìa nên phải biết Như Lai mười lực  cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng lìa. Hữu tình lìa nên phải  biết đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả cũng lìa. Hữu tình lìa nên phải biết  ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hảo cũng lìa. Hữu tình lìa nên phải  biết pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả cũng lìa. 
Hữu tình lìa  nên phải biết nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí cũng  lìa. Hữu tình lìa nên phải biết quả Dự lưu cho đến Ðộc giác Bồ đề cũng  lìa. Hữu tình lìa nên phải biết tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát, chư Phật  Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề cũng lìa. Hữu tình lìa nên phải biết Nhất  thiết trí trí cũng lìa. Hữu tình lìa nên phải biết tất cả pháp cũng lìa.  
Thiên Tử phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát khi nghe thuyết tất cả  pháp không chẳng lìa, nơi tâm chẳng kinh chẳng sợ chẳng hãi, chẳng chìm  chẳng đắm, phải biết Bồ tát Ma ha tát này hành Bát nhã Ba la mật đa sâu  thẳm. 
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiện Hiện rằng: Vì nhân duyên nào  các Bồ tát Ma ha tát khi nghe thuyết tất cả pháp không chẳng lìa, nơi  tâm chẳng kinh chẳng sợ chẳng hãi, chẳng chìm chẳng đắm? 
Cụ thọ  Thiện Hiện thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Vì tất cả pháp đều xa lìa, nên các  Bồ tát Ma ha tát khi nghe thuyết tất cả pháp không chẳng lìa, nơi tâm  chẳng kinh chẳng sợ chẳng hãi, chẳng chìm chẳng đắm. Sở dĩ vì sao? Vì  các Bồ tát Ma ha tát đối tất cả pháp hoặc năng sợ thảy, hoặc sở sợ thảy,  hoặc xứ sợ thảy, hoặc thời sợ thảy, hoặc kẻ sợ thảy, do đây sợ thảy đều  vô sở đắc, vì tất cả pháp bất khả đắc vậy. 
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ  tát Ma ha tát nghe thuyết việc này tâm chẳng chìm chẳng đắm, cũng chẳng  kinh sợ, chẳng lo chẳng hối, phải biết Bồ tát Ma ha tát này hành Bát  nhã Ba la mật đa sâu thẳm. 
Sở dĩ vì sao? Vì Bồ tát Ma ha tát này  quan tất cả pháp đều bất khả đắc, chẳng thể thi thiết: đây năng chìm  thảy, đây sở chìm thảy, đây xứ chìm thảy, đây thời chìm thảy, đây kẻ  chìm thảy, do đây chìm thảy. Vì nhân duyên này các Bồ tát Ma ha tát nghe  việc như thế tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng kinh sợ, chẳng lo chẳng  hối. 
Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ tát Ma ha tát năng hành Bát nhã Ba la  mật đa sâu thẳm như thế, các Thiên Ðế Thích, Ðại Phạm thiên vương chủ  thế giới thảy đều chung kính lễ, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi  khen. 
Phật bảo: Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát năng hành Bát  nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế, chẳng những hằng được các Thiên Ðế  Thích, Ðại Phạm thiên vương chủ thế giới thảy đều chung kính lễ, cúng  dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. 
Bồ tát Ma ha tát này cũng  được hơn đây, trời Cực quang tịnh, hoặc trời Biến tịnh, trời Quảng quả,  hoặc trời Tịnh cư và các trời khác, a tố lạc thảy đều chung kính lễ cúng  dường cung kính tôn trọng ngợi khen. 
Bồ tát Ma ha tát này năng  hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế cũng được tất cả Như Lai Ứng  Chánh Ðẳng Giác và chúng các Bồ tát Ma ha tát mười phương vô lượng vô số  vô biên thế giới thường chung hộ niệm. 
Thiện Hiện phải biết: Bồ  tát Ma ha tát này năng hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế, tức  khiến tất cả công đức căn lành chóng được viên mãn. 
Thiện Hiện  phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát năng hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm  như thế, thường được chư Phật và các Bồ tát cùng các trời, rồng, a tố  lạc thảy giữ hộ nhớ nghĩ. Phải biết nên đi chỗ Phật đã đi, cũng chính tu  hành hạnh Phật đã hành, mau chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. 
Thiện  Hiện phải biết: Bồ tát Ma ha tát này đã đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề  được chẳng quay lui. Tất cả ác ma và các ngoại đạo, bạn ác tri thức thảy  chẳng thể làm lưu nạn được. 
Sở dĩ vì sao? Vì Bồ tát Ma ha tát  này nơi tâm vững chắc hơn nơi kim cương. Giả sử các loại hữu tình thế  giới Tam thiên đại thiên đều biến làm ma, mỗi mỗi ma này đều lại hóa làm  chừng nấy ác ma. Chúng ác ma đây đều có vô lượng vô số thần lực. Các ác  ma này dùng hết thần lực chẳng thể làm lưu nạn được, khiến Bồ tát Ma ha  tát ấy chẳng năng hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm và đối Vô thượng  Chánh đẳng Bồ đề hoặc có quay lui. 
Sở dĩ vì sao? Vì Bồ tát Ma ha tát đã được phương tiện khéo léo Bát nhã Ba la mật đa biết tất cả pháp bất khả đắc vậy. 
Lại  nữa, Thiện Hiện! Vả thôi các loại hữu tình một thế giới Tam thiên đại  thiên đều biến thành ma. Giả sử tất cả hữu tình thế giới chư Phật mười  phương Căng già sa thảy đều biến làm ma. Các chúng ma này đều lại hóa  làm chừng nấy ác ma. Các ác ma đây đều có vô lượng vô số thần lực. Các  ác ma ấy đem dùng hết thần lực chẳng thể làm lưu nạn khiến Bồ tát Ma ha  tát này chẳng năng hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm và đối Vô thượng  Chánh đẳng Bồ đề hoặc có quay lui. 
Sở dĩ vì sao? Vì Bồ tát Ma ha tát này đã được phương tiện khéo léo Bát nhã Ba la mật đa biết tất cả pháp bất khả đắc vậy. 
Thiện  Hiện phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên hai pháp, tất cả ác ma  chẳng thể làm lưu nạn khiến chẳng năng hành Bát nhã Ba la mật đa sâu  thẳm và đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc có quay lui. Những gì là  hai? Một là chẳng bỏ tất cả hữu tình, hai là quan sát các pháp đều  không. 
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha tát trọn nên hai  pháp, tất cả ác ma chẳng thế gian ngăn ngại khiến chẳng năng hành Bát  nhã Ba la mật đa sâu thẳm và đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc có quay  lui. Những gì là hai? Một là thảy đều năng làm như đã nói, hai là  thường được chư Phật hộ niệm. 
Thiện Hiện phải biết: Nếu Bồ tát  Ma ha tát năng hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế, chư Thiên  thần thảy thường đến kính lễ, gần gũi cúng dường, cung kính thỉnh hỏi  khuyến phát, nói lời như vầy: “Hay thay, Ðại sĩ! Ngài năng hành Bát nhã  Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo như thế, mau chứng Vô thượng  Chánh đẳng Bồ đề”. Tất cả hữu tình kẻ không nương nhờ năng nương nhờ, kẻ  không về nương năng làm về nương, kẻ không cứu hộ năng làm cứu hộ, kẻ  không tới vào năng làm vào tới, kẻ không nhà cửa năng làm nhà cửa, kẻ  không cồn bãi năng làm cồn bãi, cùng kẻ tối mù năng làm ánh sáng, cùng  kẻ điếc đui năng làm tai mắt. 
Vì cớ sao? Thiện nam tử! Nếu năng  an trụ Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo, mau chứng Vô  thượng Chánh đẳng Bồ đề, tất cả ác ma chẳng thể làm lưu nạn được.
