17. Công đức của ao
Phẩm này trình bày công đức chẳng thể nghĩ bàn của các ao nơi cõi Cực Lạc:
a. Trước hết là những đặc tánh tổng quát của những ao ấy và những tướng trạng riêng biệt như kích thước, tánh chất của nước, cây mọc bên bờ ao, hoa nở trong ao…
b. Ao tuyên dương diệu pháp, thành thục thiện căn.
c. Chúng sanh trong mười phương sanh về Cực Lạc đều hóa sanh trong hoa sen.
Chánh kinh: Hai bên giảng đường lại có ao, suối chảy quanh, ngang, dọc, sâu, cạn đều giống hệt nhau, hoặc là mười do tuần, hai mươi do tuần, cho đến trăm ngàn do tuần, trong lặng, thơm, sạch, đủ tám công đức.
Giải: ‘Hai bên giảng đường lại có ao, suối chảy quanh’ là tổng tướng, hàm ý: cây báu, ao sen trọn khắp cõi nước. Quán kinh nói: ‘Nước trong mỗi một ao do bảy báu hợp thành… Nước ma ni ấy chảy rót vào hoa, lên xuống theo thân hoa’. Ta thấy cõi nước Cực Lạc vi diệu, trang nghiêm vượt xa hết thảy.
Trong phần biệt tướng, trước hết nói đến hình dáng, kích thước của từng ao. ‘Dọc’ là nói về độ dài, ‘ngang’ là nói về chiều rộng. Kích thước, độ sâu cạn của mỗi ao đều ứng hiện theo căn cơ nên chẳng phải chỉ có một kích thước. Do hình thể tương xứng nên mỗi chúng sanh đều thấy các ao giống hệt nhau. Ao to từ mười do tuần cho đến trăm ngàn do tuần; đấy đều là thích ứng với từng căn cơ mà hiện ra lớn hay nhỏ.
Kế đó, kinh nói đến đức tánh của nước. Các ao ấy là ao nước tám công đức. Nước trong ao lặng, sạch, trong trẻo, thơm tho nên bảo là ‘trong lặng, thơm, sạch’. Nước có đủ tám công đức nên gọi là ‘bát công đức thủy’.
Kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ bảo: ‘Những gì là nước tám công đức? Một là lặng sạch, hai là trong mát, ba là ngon ngọt, bốn là mềm mại, năm là nhuần thấm sáng bóng, sáu là an hòa, bảy là uống vào trừ được đói, khát, vô lượng khổ sở, tám là uống xong quyết định trưởng dưỡng các căn và tứ đại, tăng ích các thứ thiện căn thù thắng. Chúng sanh nhiều phước rất thích thọ dụng’. Nước trong cõi Cực Lạc lại có thể khiến cho người uống vào được tăng trưởng các thiện căn thù thắng, thật là cõi Cực Lạc chẳng thể nghĩ bàn.
Chánh kinh: Trên bờ có vô số cây hương chiên đàn, cây cát tường quả. Hoa quả luôn thơm ngát, quang minh chói ngời, cành to, lá dày, chen bóng phủ mặt ao, tỏa các mùi thơm không thể dùng vật gì trong thế gian này để ví nổi. Hương thơm lan theo gió thoảng, nước cuốn dậy mùi thơm.
Giải: Ðoạn kinh này mô tả tướng trạng trang nghiêm của các loại cây mầu nhiệm mọc bên bờ ao.
Chữ ‘chiên đàn’ xin xem chú giải ở phần trước.
‘Cát tường quả’ chỉ có ở Ấn Ðộ, Trung Hoa không có, hình dạng từa tựa trái dưa nhỏ, màu vàng ửng đỏ. Ta có thể tạm dùng trái thạch lựu để hình dung trái cát tường; trái thạch lựu một hoa nhiều hạt nên có thể dùng để hình dung trái cát tường.
Kinh dạy: ‘Cây hoa bên bờ ao, dòng suối…đều do vô lượng hương báu hợp thành’ nên ‘hoa quả luôn thơm ngát’. Các cây cối cõi ấy đã tỏa hương thơm ngát, lại còn phóng diệu quang.
‘Cành to’ tức là những cành cây lớn. ‘Chen bóng’ là các cành nhánh chạm vào nhau. ‘Phủ’ là che trùm lên. Cả câu ý nói: rừng cây báu bên bờ ao, cành to khỏe, lá xum xuê, vươn dài ra khắp không gian, chạm ngọn vào nhau, soi bóng xuống mặt ao. Các rừng cây như thế tỏa ra các thứ diệu hương. Những hương ấy thù thắng chẳng phải là thứ thế gian này có nổi nên kinh mới bảo: ‘Không thể dùng vật gì trong thế gian này để ví nổi’.
‘Nước cuốn dậy mùi thơm’ nghĩa là theo dòng nước chảy, mùi thơm ngào ngạt lan đi. Ðây chính là kết quả của nguyện bốn mươi ba ‘hương báu xông khắp’.
Chánh kinh: Lại nữa, ao trang hoàng bằng bảy báu, đáy trải cát vàng. Hoa ưu bát la, hoa bát đàm ma, hoa câu mâu đầu, hoa phân đà lợi nhiều màu tỏa sáng rạng ngời, phủ kín mặt nước.
Giải: Ðoạn kinh này mô tả tướng trang nghiêm trong ao.
Về ý‘ao trang hoàng bằng bảy báu’, bản Ngô dịch chép như sau:‘Lại đều có suối chảy, ao tắm, đều do bảy báu tự nhiên hợp thành’.
Câu ‘đáy trải cát vàng’ mô tả cát phủ đáy ao, bản Hán dịch ghi: ‘Có ao thuần bằng bạc trắng, cát nơi đáy ao thuần là vàng ròng. Trong ấy lại có ao thuần bằng vàng ròng, đáy ao phủ cát bạc trắng…Trong ấy lại có ao bằng hai thứ báu hợp thành, đáy ao trải cát bằng vàng lẫn bạc’ cho đến ‘trong ấy có ao do bảy báu hợp thành, đáy ao dùng vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly, san hô, xa cừ, mã não làm cát trải’.
Tiếp đó, kinh nói đến bốn thứ hoa xinh đẹp trong ao. Sách Hội Sớ giảng: ‘Ưu Bát La Tàu dịch là Thanh Liên Hoa, Bát Ðàm Ma dịch là Hồng Liên Hoa, Câu Mâu Ðầu dịch là Hoàng Liên Hoa, Phân Ðà Lợi dịch là Bạch Liên Hoa. Ðó là hoa sen bốn màu nói trong kinh Tiểu Bổn’.
Sách Tiên Chú lại bảo: ‘Sen nơi trời Tây gồm có bốn thứ: xanh, vàng, trắng, đỏ. Lại còn tùy theo hoa còn búp, đã nở, rụng cánh mà gọi tên khác nhau. Phân Ðà Lợi là tên gọi của hoa sen trắng đang nở. Thứ hoa này lại rất to, có đến vài trăm cánh hoa nên còn có tên là Bách Diệp Liên (sen trăm cánh). Chữ “liên hoa” dùng trong tựa đề kinh Diệu Pháp Liên Hoa chính là hoa Phân Ðà Lợi màu trắng trăm cánh này. Loại hoa này thường mọc trong ao A Nậu Ðạt không thấy trong nhân gian nên nó được xưng tụng là hoa đẹp nhất trong loài người, là hoa hiếm có v.v…’
Trong câu ‘nhiều màu tỏa sáng rạng ngời’, chữ ‘nhiều màu’ diễn tả nhiều thứ màu sắc hòa hợp lại, chữ ‘tỏa sáng ngời’ diễn tả các ánh quang minh sáng chói. Câu kinh trong Tiểu Bổn: ‘Hoa sen trong ao to như bánh xe, màu xanh ánh sáng xanh, màu vàng ánh sáng vàng, màu đỏ ánh sáng đỏ, màu trắng ánh sáng trắng’ cũng diễn tả hoa có các thứ ánh sáng cùng chói rực. Chữ ‘kín’ diễn tả ý khắp cả, ý nói: hoa sen mọc khắp cả mặt nước ao báu, che lấp mặt nước nên kinh bảo ‘phủ kín mặt nước’.
Chánh kinh: Nếu những chúng sanh cõi kia đến tắm trong nước ấy thì hễ muốn nước dâng đến chân, muốn nước ngập đến gối, muốn nước ngập ngang lưng hay nách, muốn nước dâng đến cổ, hoặc muốn nước xối lên thân, hay muốn nước lạnh, ấm, nước chảy gấp, hay nước chảy thong thả thì nước đó đều thuận theo ý của mỗi một chúng sanh. [Nước làm cho] khai hiển thần thức, thân thể vui sướng. [Nước] sạch dường như vô hình, cát báu chiếu rực lên, dẫu sâu cách mấy cũng chiếu thấu.
Giải: Ðoạn này diễn tả nước có các diệu dụng, khéo đáp ứng ý muốn con người.
Sách Hội Sớ giảng câu ‘đến tắm trong nước ấy’ như sau: ‘Nhân thiên trong cõi ấy chẳng phải là thân ăn cơm, uống nước, thân họ được thành tựu một cách thanh tịnh sao lại cần phải tắm rửa? Ấy chẳng qua chỉ là để tùy ý hưởng vui, gột rửa cấu nhiễm trong tâm mà thôi’. Ý nói: Trời, người trong cõi Cực Lạc là liên hoa hóa thân, chẳng cần phải dùng đến cơm ăn, nước uống để duy trì thân mạng. Thân họ vốn sẵn thanh tịnh sao lại cần phải tắm gội? Chẳng qua là họ thích vui nên tắm cũng như để gột rửa cấu nhiễm trong tâm mà thôi. Cấu nhiễm trong tâm đã tiêu trừ thì tự nhiên tinh thần sảng khoái, thân thể an vui nên kinh bảo ‘khai hiển thần thức, thân thể vui sướng’.
Diệu dụng của nước công đức ấy thật chẳng thể nghĩ bàn. Nước ấy dâng cao hay hạ thấp, nước nóng hay lạnh, dòng nước chảy gấp hay từ từ ‘đều thuận ý mỗi một chúng sanh’. Nếu ai thoạt đầu muốn nước chỉ ngập đến chân, hoặc ngập đến hông, đến cổ, hoặc muốn nước phủ toàn thân thì cũng chỉ một dòng nước đó lại có thể tùy theo ý nghĩ mỗi người mà dâng lên hay hạ xuống tự tại; thậm chí nước có thể dâng đến tận hư không để xối xuống. Tánh của nước trong cõi thế gian này là luôn chảy xuống; còn nước trong cõi kia dẫu lên hay xuống đều vô ngại.
Hiểu ở mức cao hơn, chỉ cùng là một khối nước trong ao, nhiều người vào tắm trong ao, tùy theo ý thích mỗi người mà hiển hiện các sự bất đồng: hoặc cao, hoặc thấp, hoặc ấm, hoặc mát, hoặc gấp, hoặc thong thả. Dòng nước ấy biết được ý của mỗi chúng sanh và còn có thể thuận theo ý của từng người khiến họ thỏa mãn. Dẫu cùng một lúc, cùng một chỗ nhưng nước lại có thể ứng hiện khắp các sự như thế thì nước ấy là thứ nước gì, cảnh giới ấy là cảnh giới nào? Kinh Pháp Hoa bảo: ‘Thôi, thôi, chớ nên nói, pháp của ta mầu nhiệm khó nghĩ nổi’. Những công dụng của nước chính là diệu pháp khó nghĩ nổi.
Với điều chẳng diễn tả nổi ấy, nay tôi lại miễn cưỡng trình bày: Phật Di Ðà khi tu nhân đã trụ trong chơn thật huệ để trang nghiêm Tịnh Ðộ, khai hóa, hiển thị chơn thật tế. Nói một cách miễn cưỡng, cái chơn thật tế ấy chính là thật tế lý thể, là tự tâm của đương nhân, mà cũng chính là một pháp cú, thanh tịnh cú, chơn thật trí huệ vô vi Pháp Thân. Nước ấy chính là chơn thật tế nên có thể phổ môn thị hiện, thỏa mãn các nguyện một cách trọn vẹn, với mỗi người đều ban cho cái lợi chơn thật.
Trong đoạn sau, kinh nói nước ấy còn có khả năng diễn nói diệu pháp, điều này càng hiển thị rõ hơn ý nghĩa trên.
Trong câu ‘khai hiển thần thức’, chữ ‘thần’ có nghĩa là sáng suốt. Do tâm thức của chúng sanh linh diệu chẳng thể nghĩ bàn nên tâm thức còn gọi là ‘thần thức’ (thế tục thường gọi lầm là “linh hồn”). Trí huệ thấy thông suốt sự lý một cách tự tại nên gọi là ‘thần trí’. Như vậy chữ ‘khai hiển thần thức’ có thể hiểu là khai hiển thần trí sẵn có trong thức tánh vậy.
Nước có đủ tám công đức, điều hòa, hợp ý nên bảo là ‘thân thể vui sướng’. ‘Sạch’ là trong lặng không nhơ. Chữ ‘vô hình’ diễn tả nước hết sức thanh tịnh. Do nước quá trong sạch nên cát báu trải đáy ao có thể phản chiếu ánh sáng lên tận mặt nước, vì vậy bảo là ‘cát báu chói rực lên’, trông thấu tận đáy nên bảo ‘sâu cách mấy cũng chiếu thấu’. ‘Sạch dường như vô hình’ là tướng của nước; ‘khai hiển thần thức, thân thể vui sướng’ là công dụng của nước. Tướng lẫn dụng đều vi diệu là vì bổn thể của nước cũng rất vi diệu.
Chánh kinh: Gợn sóng từ từ lan ra, lan khắp mặt nước. Sóng vỗ vang vô lượng âm thanh vi diệu, hoặc nghe tiếng Phật, Pháp, Tăng, tiếng ba la mật, tiếng chỉ tức tịch tĩnh, tiếng vô sanh vô diệt, tiếng thập lực vô úy; hoặc nghe tiếng vô tánh, vô tác, vô ngã, tiếng đại từ, đại bi, hỷ xả, tiếng cam lộ quán đảnh thọ vị.
Giải: Ðoạn kinh nêu lên chủ điểm thứ hai của phẩm kinh này: nước có khả năng diễn thuyết diệu pháp.
Ðoạn này thuật tỉ mỉ một sự thật mầu nhiệm: Trong cõi Cực Lạc, những thứ vô tình có khả năng thuyết pháp để thành thục thiện căn cho chúng sanh.
‘Gợn sóng’ (vi lan): những nếp nhăn nho nhỏ sanh trên mặt nước gọi là ‘lan’, sóng lớn là ‘ba’. Chữ ‘vi lan’ chỉ những gợn sóng lăn tăn. Những gợn sóng từ từ lan ra khiến mặt nước bập bềnh, tạo nên những gợn sóng khác nên bảo là ‘lan khắp mặt nước’. Sóng vỗ lẫn nhau phát ra những tiếng êm tai. Những âm thanh ấy nhiều đến vô lượng loại mà cũng vi diệu vô lượng nên kinh bảo ‘sóng vỗ vang lên vô lượng âm thanh vi diệu’. ‘Vô lượng âm thanh vi diệu’ nghĩa là tiếng sóng có khả năng diễn nói vô lượng diệu pháp.
‘Tiếng Phật, Pháp, Tăng’: Phật, Pháp, Tăng là Tam Bảo. Kinh Tiểu Bổn chép: ‘Nghe những âm ấy tự nhiên đều sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng’.
‘Ba la mật’ dịch là Ðáo Bỉ Ngạn hay Ðộ Vô Cực, hoặc là Sự Cứu Cánh. Dùng đại hạnh Bồ Tát hoàn tất các sự nghiệp của tự hạnh và hóa độ người khác nên bảo là Sự Cứu Cánh. Nương đại hạnh ấy để từ bờ này sanh tử vượt đến bờ kia Niết Bàn nên bảo là Ðáo Bỉ Ngạn. Do đại hạnh nên có thể thấu đạt chỗ rộng sâu của các pháp, vì thế gọi là Ðộ Vô Cực.
Trong chữ ‘Chỉ Tức’, ‘Chỉ’ có nghĩa là đình chỉ, ngưng nghỉ nơi lý chơn thật bất động. ‘Tức’ là ngưng nghỉ. Sách Chỉ Quán quyển ba nói: ‘Tức có nghĩa là các ác giác quán, vọng niệm, tư tưởng đều ngưng bặt vắng lặng’. Vì vậy, ‘tức’ là ngừng dứt các vọng niệm. ‘Tức’ là do Quán mà thành nên ‘Chỉ Tức’ chính là ‘Chỉ Quán’.
Sách Chỉ Quán, quyển 3 còn nói: ‘Các pháp vắng lặng là Chỉ, tịch mà thường chiếu là Quán’ và: ‘Vô minh chính là minh, chẳng bị động chuyển nữa nên gọi là Chỉ. Ðại tịnh rạng ngời nên bảo là Quán’. Sách Chỉ Quán Phụ Hành cũng nói: ‘Trung Ðạo chính là pháp giới, pháp giới chính là Chỉ Quán. Chỉ và Quán bất nhị, cảnh và trí cùng bao la’.
Về chữ ‘tịch tĩnh’ xin xem lời giải thích nơi câu ‘các căn tịch tĩnh’ ở phần trước.
‘Vô sanh vô diệt’ là lý thể của Niết Bàn vốn chẳng sanh, chẳng diệt. Kinh Nhân Vương dạy: ‘Tánh của hết thảy các pháp là chơn thật không, chẳng đến, chẳng đi, vô sanh, vô diệt’. Kinh Viên Giác cũng bảo: ‘Hết thảy chúng sanh đối với vô sanh lại thấy lầm lạc là có sanh diệt. Vì thế gọi là trôi lăn sanh tử’. Ngài Thanh Lương lại bảo: ‘Nếu nghe vô sanh thì liền biết hết thảy các pháp đều là không tịch, vô sanh vô diệt’.
‘Thập lực’ chính là trí được chứng đắc bởi Như Lai: rõ hiểu hết thảy. Do trí ấy chẳng thể hoại được, chẳng có gì hơn được nên gọi là Lực (xin xem phần giải thích tường tận về Thập Lực trong phẩm bốn mươi sáu). Thập Lực là: tri thị xứ phi xứ trí lực, tri tam thế nghiệp báo trí lực, tri chư thiền giải thoát trí lực, tri chư căn thắng liệt trí lực, tri chủng chủng giải trí lực, tri chủng chủng giới trí lực, tri nhất thiết chí xứ đạo trí lực, tri thiên nhãn vô ngại trí lực, tri túc mạng vô lậu trí lực, tri vĩnh đoạn tập khí trí lực. Ðấy là ‘thập lực’.
‘Vô úy’ còn gọi là ‘vô sở úy’; giữa đại chúng Phật thong dong thuyết pháp chẳng hãi sợ. Có bốn loại vô úy:
a. Nhất thiết trí vô sở úy: Giữa đại chúng, đức Phật nói rõ ta là bậc nhất thiết trí lòng không e ngại.
b. Lậu tận vô sở úy: Giữa đại chúng, Phật nói ta đoạn sạch hết thảy phiền não lòng không e ngại.
c. Thuyết chướng đạo vô sở úy: Giữa đại chúng Phật nói các chướng pháp như hoặc nghiệp v.v… mà không hãi sợ.
d. Thuyết tận khổ đạo vô sở úy: Ở giữa đại chúng, Phật nói chánh đạo diệt khổ như giới, định, huệ v.v… lòng không hãi sợ.
Ðó là bốn vô sở úy.
‘Vô tánh’ là như kinh Pháp Hoa nói: ‘Biết các pháp thường vô tánh’. Tánh là thể, hết thảy các pháp đều không có thực thể nên bảo là ‘vô tánh’. Các kinh, luận như kinh Lăng Nghiêm, Duy Thức Luận lại nói đến ba thứ vô tánh:
a. Tướng vô tánh: Hết thảy chúng sanh do vọng tâm nên thấy có sự vật, so đo rằng đây là ta, đây là pháp, mê chấp là thật ngã và thật pháp. Ðó gọi là ‘biến kế sở chấp tánh’. Chẳng hạn như thấy sợi dây ngỡ là con rắn. Vốn chẳng thật sự có rắn, nhưng do vọng tình mê chấp nên thấy có tướng rắn. Tướng rắn ấy chẳng thật sự có, chỉ là do suy tưởng lầm lạc nên mới hiện hữu. Ðây gọi là ‘tướng vô tánh’.
b. Sanh vô tánh: Do nhân duyên nên sanh khởi hết thảy vạn pháp, đấy gọi là ‘y tha khởi tánh’. Chữ ‘tha’ chỉ nhân duyên. Ví dụ: Sợi dây thừng do chánh nhân là những sợi gai và những trợ duyên khác cùng tạo thành. Không còn có ý tưởng lầm lẫn thì sợi thừng chính là sợi thừng, nhưng sợi thừng chẳng có thật tánh. Hễ các duyên chia lìa thì sợi thừng không còn. Vì vậy, gọi là ‘sanh vô tánh’.
c. Thắng Nghĩa vô tánh: Thắng Nghĩa còn gọi là Viên Thành Thật tánh, tức là tánh chơn thật thành tựu viên mãn. Viên Thành Thật tánh còn gọi là Pháp Tánh, hoặc là Chơn Như, nó chính là thể tánh của hết pháp hữu vi. Chẳng hạn như thật tánh của sợi dây thừng là gai. Viên Thành Thật tánh là pháp dứt bặt các đối đãi, lìa hết thảy tướng. Nếu thấy biết là gai thì lìa được cả tướng rắn lẫn tướng thừng. Vì vậy bảo là ‘Thắng Nghĩa vô tánh’.
‘Vô tác’ là không có nhân duyên tạo tác, đồng nghĩa với chữ ‘vô vi’. Sách Hoa Nghiêm Ðại Sớ bảo: ‘Do còn có tạo tác nên gọi là hữu vi; hữu vi là vô thường. Không còn tạo tác thì gọi là vô vi. Vô vi chính là thường’. Sách Thám Huyền Ký nói: ‘Pháp được phát khởi bởi duyên thì gọi là hữu vi; chơn lý vô tánh gọi là vô vi’. Như vậy, ‘vô tác’ lẫn ‘vô vi’ chỉ là những tên gọi khác nhau của ‘chơn lý’.
Sách Pháp Sự Tán lại bảo: ‘Cực Lạc vô vi Niết Bàn giới’. Niết Bàn là chẳng sanh chẳng diệt, dứt sạch hết thảy tướng hữu vi nên gọi là Vô Vi. Xa lìa hết thảy tạo tác hữu vi nên bảo là ‘vô tác’. Toàn thể cõi nước Cực Lạc là thanh tịnh cú: ‘Chơn thật trí huệ vô vi Pháp Thân’ nên Cực Lạc được gọi là ‘vô vi Niết Bàn giới’.
‘Vô ngã’: Ngã được hiểu là cái gì có thể tánh thường hằng, chẳng biến đổi, có tác dụng làm chủ tể. Nếu chấp trong thân người có cái Ngã như vậy thì gọi là ‘nhân ngã’. Chấp rằng pháp có cái Ngã như thế thì gọi là ‘pháp ngã’. Nhưng thân người vốn là do ngũ uẩn giả hợp thành, thể của cái Ngã đó nào phải là thường hằng bất biến như sách Chỉ Quán đã nói: ‘Do không trí huệ nên chấp rằng có Ngã; dùng trí huệ quán sát thì thật chẳng có Ngã! Ngã ở chỗ nào: đầu, mắt, chân tay? Quán sát kỹ càng mỗi thứ trọn chẳng thấy Ngã’.
Sách Nguyên Nhân Luận cũng bảo: ‘Từ vô thỉ đến nay, do sức nhân duyên nên sắc thái hình hài và cái tâm suy lường cứ sanh diệt liên tục không ngừng trong mỗi niệm như sóng lớp sau đùa lớp trước, như ngọn đèn cháy liên tục. Thân tâm giả hợp tựa hồ là một, dường như là thường (nhưng thật ra trong mỗi sát na đều sanh diệt không ngừng). Phàm phu chẳng hay biết nên chấp đấy là Ngã, quý báu cái Ngã ấy, sanh khởi ba độc tham, sân, si. Ba độc khích động ý căn nên phát động thân, miệng tạo tác hết thảy các nghiệp’.
‘Pháp’ thì cũng là do nhân duyên sanh ra; nó cũng chẳng có một cái Ngã thể thường hằng bất biến. Sách Ðại Thừa Nghĩa Chương quyển hai bảo: ‘Pháp chẳng có thật tánh nên bảo là Vô Ngã’. Vì vậy, kinh Thập Ðịa nói: ‘Trí vô ngã có hai thứ: ngã không và pháp không’. Kinh Kim Cang cũng dạy: ‘Người hiểu rõ không có Ngã và Pháp thì Như Lai gọi là Bồ Tát’.
‘Tiếng đại từ đại bi hỷ xả’ (chữ ‘hỷ xả’ trích từ bản Tống dịch). Từ bi hỷ xả chính là tứ vô lượng tâm: Từ vô lượng tâm là tâm ban vui; bi vô lượng tâm là tâm dẹp khổ; hỷ vô lượng tâm là thấy người lìa khổ hưởng vui thì sanh lòng vui thích; xả vô lượng tâm là buông bỏ cả ba thứ tâm trên, chẳng hề chấp trước. Xả vô lượng tâm còn có nghĩa là với kẻ oán lẫn người thân đều bình đẳng, không chấp trước là oán hay thân. Bốn vô lượng tâm này duyên khắp chúng sanh, dẫn khởi vô lượng phước, đắc vô lượng quả nên gọi là ‘tứ vô lượng tâm’.
Trong câu ‘tiếng cam lộ quán đảnh thọ vị’, ‘cam lộ’ là thứ sương ngọt mà chư thiên thường ăn; vị nó ngọt như mật. Sách Kim Quang Minh Văn Cú, quyển 5 bảo: ‘Cam lộ là thuốc bất tử của chư thiên, ăn vào sống lâu, thân an ổn, sức thêm mạnh mẽ, thân thể sáng ngời’.
Trong Hiển giáo, ‘quán đảnh thọ vị’ là khi Ðẳng Giác Bồ Tát sắp đạt địa vị Diệu Giác thì hết thảy mười phương Phật dùng nước trí huệ rưới lên đảnh Bồ Tát giống như Chuyển Luân Thánh Vương dùng nước bốn biển rưới lên đầu Thái Tử xướng rằng: ‘Thái Tử đã nhận lấy địa vị’. Ðấy là ‘quán đảnh thọ vị’.
Còn trong Mật giáo thì như sách Bí Tạng Ký Sao nói: dùng nước để rưới lên đảnh thì gọi là cam lộ quán đảnh. Sách Ðại Nhật Kinh Sớ bảo: ‘Nay đức Như Lai pháp vương cũng giống như thế: vì muốn cho giống Phật chẳng đoạn tuyệt nên dùng cam lộ pháp thủy rưới lên đảnh của Phật tử nhằm khiến cho dòng giống Phật vĩnh viễn chẳng dứt. Vì thuận theo pháp thế gian nên có pháp phương tiện ấn trì này. Từ nay trở đi, hết thảy thánh chúng đều phải kính ngưỡng người này, cũng phải biết là người này rốt ráo chẳng thối chuyển Vô Thượng Bồ Ðề, quyết định nối ngôi vị pháp vương’. Sách Bí Tạng Ký cũng nói: ‘Bồ Tát từ Sơ Ðịa dần dần đạt tới Ðẳng Giác, lúc gần rốt ráo thành Phật, chư Phật dùng nước đại bi rưới lên đảnh thì tự hạnh viên mãn chứng đắc Phật quả’.
Các pháp âm vi diệu như vậy đều từ tiếng sóng tự nhiên phát ra. Vô tình thuyết pháp khắp trọn cõi nước. Ao nước rừng cây đều tuyên dương diệu pháp.
Chánh kinh: Ðược nghe các thứ tiếng như vậy xong tâm họ thanh tịnh không có các phân biệt, chánh trực bình đẳng, thành thục thiện căn. Ðiều gì được nghe cũng tương ứng với pháp. Ðiều gì mong nghe tai liền nghe ngay, pháp chẳng muốn nghe trọn chẳng nghe thấy. Vĩnh viễn chẳng thối thất tâm A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề.
Giải: Ðoạn kinh này tường thuật việc nghe tiếng được lợi ích: lắng nghe diệu pháp tâm không còn vọng niệm, lìa các cấu nhiễm nên bảo ‘tâm họ thanh tịnh’.
‘Phân biệt’ là suy lường, nhận thức các sự việc. Do tánh của nó là phân biệt một cách lầm lạc nên với cái vô ngã, vô pháp lại nhận lầm là có ngã, có pháp. Nếu không thấy có ta, người, chúng sanh, thọ giả (*), tất cả đều là bình đẳng không sai biệt, giống hệt nhau chẳng khác thì bảo ‘không có các phân biệt’.
‘Chánh trực’ là đoan chánh, chất trực, không tà, không cong vạy. Vãng Sanh Luận Chú bảo: ‘Chánh trực là ngay thẳng. Do chánh trực nên sanh lòng thương xót hết thảy chúng sanh’. Kinh Pháp Hoa cũng bảo: ‘Chánh trực xả phương tiện, chỉ nói đạo Vô Thượng’. Chữ ‘chánh trực’ trong câu kinh trên chỉ cho bổn hoài chỉ nói diệu pháp Nhất Thừa Viên Giáo.
‘Bình đẳng’ là chẳng sai biệt. Vãng Sanh Luận Chú nói: ‘Bình đẳng là thể tướng của các pháp’. Do Chơn Như hiện diện trong khắp các pháp nên vạn pháp đều như một; vì thế bảo là ‘bình đẳng’. Vãng Sanh Luận Chú còn bảo: ‘Nghe danh hiệu chí đức của A Di Ðà Như Lai, nghe tiếng thuyết pháp thì đều được thoát khỏi các điều ràng buộc nơi khẩu nghiệp, sanh trong nhà Như Lai, rốt ráo được khẩu nghiệp bình đẳng’.
Như vậy, người trong cõi Cực Lạc được nghe các pháp âm như thế nên xa lìa phân biệt, chánh trực chẳng tà, rốt ráo đắc khẩu nghiệp bình đẳng của Như Lai. Do đó, bảo là ‘bình đẳng’.
Sách Pháp Hoa Khoa Chú, quyển 4 cũng nói: ‘Bình đẳng có hai thứ: một là pháp bình đẳng tức là Lý Trung Ðạo, hai là chúng sanh bình đẳng tức là hết thảy chúng sanh đều đắc Phật huệ’. Nghĩa là: Thứ nhất, bình đẳng chính là lý thể của Trung Ðạo, một mảy lông, một hạt bụi không gì chẳng phải là Trung Ðạo nên bảo là ‘bình đẳng’. Thứ hai, chúng sanh vốn sẵn đủ trí huệ, đức tướng của Như Lai, cùng đắc Phật huệ nên bảo là ‘bình đẳng’.
Về ‘thiện căn’, kinh Tiểu Bổn dạy: ‘Chẳng thể dùng chút ít thiện căn, phước đức, nhân duyên mà được sanh về cõi kia’. Sách Di Ðà Yếu Giải giảng câu này như sau: ‘Bồ Ðề chánh đạo gọi là thiện căn’. Sách Viên Trung Sao giảng: ‘Chấp trì danh hiệu, phát nguyện vãng sanh thì mới gọi là nhiều thiện căn’. Sách Di Ðà Sớ Sao giảng: ‘Chấp trì danh hiệu, nguyện thấy Di Ðà chính là nhiều thiện căn, đại thiện căn, thiện căn tối thắng, thiện căn chẳng thể nghĩ bàn’. Chúng sanh cõi ấy do nghe nước chảy thuyết pháp nên tất cả các thiện căn như vậy đều được thành thục cả.
Câu kinh ‘điều gì được nghe cũng tương ứng với pháp cả’ được bản Ðường dịch ghi là: ‘Ðược nghe các thứ tiếng như thế xong liền đạt được sự vui mừng yêu thích lớn lao, tương ứng với quán sát, tương ứng với nhàm lìa... cho đến tương ứng với Niết Bàn’. ‘Tương ứng’ nghĩa là khế hợp. Sách Vãng Sanh Luận Chú bảo: ‘Tương ưng’ nghĩa là như hộp và nắp hộp vừa khít nhau’. Khởi Tín Luận lại bảo: ‘Với cảnh giới ly niệm thì chỉ có chứng tương ứng’ (Chỉ có thật chứng mới có thể khế nhập được cảnh giới ly niệm). Hoa Nghiêm Luận cũng bảo: ‘Một niệm tương ứng một niệm Phật, một ngày tương ứng một ngày Phật’. Nay kinh này dạy: ‘Ðiều gì được nghe cũng tương ứng với pháp’ quả thật đã hiển thị sâu xa bổn nguyện công đức của Phật Di Ðà thật chẳng thể nghĩ bàn. Những người đã vãng sanh do thiện căn thành thục nên với diệu pháp đã được nghe đều lãnh hội được cả. Do giải ngộ nên khởi hạnh, hạnh khởi thì giải tuyệt. Vừa quên mất (không chấp trước vào điều mình đã hiểu) vừa quán chiếu nên năng, sở chẳng hai; lý, trí thăm thẳm đến nỗi với các điều được nghe liền khế hội ngay, tương ứng với pháp.
Tiếp đó, kinh dạy: ‘Ðiều gì mong nghe tai liền nghe ngay. Ðiều chẳng muốn nghe trọn chẳng nghe thấy’. Câu này lại càng nói rõ tánh chất viên minh cụ đức, tự tại vô ngại khéo ứng hợp đến vô cùng tận của nước đều ‘tùy thuận ý của mỗi một chúng sanh’.
Trong cõi Cực Lạc, nước, chim, cây cối đều diễn thuyết diệu pháp, ánh sáng nhiều màu, tiếng động, mùi thơm cùng làm Phật sự. Những điều đập vào mắt, dội vào tai đều hiển hiện bổn tâm; giở bước, đặt chân đều làm Phật sự. Vì vậy, tâm Vô Thượng Bồ Ðề vĩnh viễn chẳng thối chuyển, tất cả thuần là nhân duyên tăng thượng.
Chánh kinh: Những người từ mười phương vãng sanh đều tự nhiên hóa sanh trong hoa sen nơi ao bảy báu, đều thọ thân thanh hư, thể vô cực.
Giải: Ðoạn này nói đến điểm chính thứ ba trong phẩm này: người từ mười phương vãng sanh đều hóa sanh trong hoa sen nơi ao báu. Ðây chính là kết quả của nguyện hăm bốn: ‘Liên hoa hóa sanh’.
Ngài Nghĩa Tịnh giảng chữ ‘tự nhiên’ trong câu ‘tự nhiên hóa sanh’ như sau: ‘Chẳng sanh trưởng từ thai tạng nên là tự nhiên’. Sách Hội Sớ giảng: ‘Chẳng phải do vọng nghiệp chiêu cảm mà là kết quả tự nhiên của lời Phật nguyện nên bảo là tự nhiên’. Về chữ ‘hóa sanh’ xin xem lại lời giải thích về lời nguyện hăm bốn ở phần trước.
Trong câu ‘thân thanh hư, thể vô cực’, hai chữ ‘thanh hư’ trích từ bản Hán dịch và Ngô dịch; bản Ngụy dịch ghi là ‘hư vô’, nhưng ý nghĩa vẫn tương đồng. Ngài Nghĩa Tịch bảo: ‘Chẳng do uống ăn mà được khôn lớn nên bảo là hư vô; chẳng già chết, tổn hoại nên bảo là vô cực’. Gia Tường Sớ giảng: ‘Do thần thông không đâu chẳng đạt đến nên bảo là thể vô cực. Giống như ánh sáng nên bảo là hư vô’. Sách Hội Sớ lại bảo: ‘Có mà dường như không, thong dong vô ngại nên bảo là thân hư vô; một phen được sanh về thì chẳng hề có lúc dứt mạng nên bảo là thể vô cực’. Ngài Cảnh Hưng nói: ‘Hư vô, vô cực là không chướng ngại, là hy hữu; phải nên lần lượt hiểu như thế’. Ý nói: Do không chướng ngại nên ‘hư vô’; do hy hữu nên bảo là ‘vô cực’. Các lời giải thích của các vị đã bổ trợ ý nghĩa lẫn nhau.
Chánh kinh: Chẳng nghe danh từ tam đồ, phiền não, khổ nạn, [những danh từ ấy] còn chẳng được giả bày ra huống là thật có; chỉ có âm thanh khoái lạc tự nhiên. Do đó, cõi nước ấy tên là Cực Lạc.
Giải: Những điều được nói trong đoạn kinh này chính là do nguyện thứ nhất ‘nước không có ác đạo’ và nguyện hăm tám ‘nước không có sự bất thiện’ thành tựu.
Kinh Tiểu Bổn dạy: ‘Cõi nước Phật ấy còn chẳng có cái tên ác đạo huống là thật có’ và: ‘Chúng sanh cõi ấy chẳng có các nỗi khổ, chỉ hưởng các niềm vui nên cõi ấy tên là Cực Lạc’. Sách Luận Chú cũng viết: ‘Vĩnh viễn dứt hết các khổ não nơi thân và tâm; thường hưởng vui không gián đoạn’. Vì thế, kinh dạy: ‘Chỉ có âm thanh tự nhiên khoái lạc. Vì thế cõi nước ấy tên là Cực Lạc’.