CHƯƠNG VIII
PHƯƠNG DIỆN ĐẠO ĐỨC CỦA ĐỜI SỐNG : 
“HẠNH KIỂM CHÂN CHÁNH”
Không làm điều ác,
Thực hành đức hạnh, 
Điều phục tâm mình,
Là lời Phật dạy.
Phật Cồ Đàm
Những  dòng này tinh lọc triết lý của đức Phật. Chúng tóm tắt một cách gọn  gàng nhưng đầy đủ một dạy bảo có thể có một ý nghĩa cho mỗi người, bất  kể mức độ phát triển tâm linh của họ đến đâu. Mới nhìn, lời khuyên có vẻ  đơn giản, nhưng trên thực tiễn không dễ luôn luôn kiêng cữ điều ác để  chỉ thuần làm điều thiện. Về phần điều phục tâm thức, việc này đòi hỏi  khá nhiều kiên nhẫn và khéo léo. Tuy nhiên, không nên nản lòng, vì người  ta sẽ có được tất cả khi theo những lời khuyên này. Những lợi lạc thì  không thể tính toán được. Một “chánh hạnh”, một đời sống chân chánh là  nguồn hạnh phúc cho mình và cho những người khác, và khi nào người ta  còn gắn bó với nó, người ta có thể chắc chắn đang ở trên con đường tốt  đẹp, đúng đắn.
 
Tất cả chúng ta đều tìm kiếm hạnh phúc, dù cho  nhân danh nó mà có quá nhiều thái quá và ngu xuẩn đã mắc phải. Người ta  đi đến chỗ giết hại, lường gạt hay trộm cắp những người khác với niềm  tin rằng mình đang theo đuổi hạnh phúc cho riêng mình. Nếu người ta  không có đạo đức để hướng dẫn những hành động của mình, thì có ai nói  cho người ta rằng người ta thật sự chịu trách nhiệm về sự khổ đau của  một người khác, chưa tính đến khổ đau mà người ta đang tự sửa soạn cho  mình, trong cùng một cơ hội ?
 
Đâu là nguyên nhân của những hành  động bất thiện của chúng ta ? Chúng phát xuất từ vô minh của chúng ta về  bản tánh của những sự vật khiến chúng ta tin vào sự hiện hữu của một  bản ngã hay một cái ta cá biệt. Cái tôi thì rất thân thiết với chúng ta,  và rộng ra, người ta cũng quá bám luyến mọi thứ liên hệ với cái tôi đó.  Người ta bám níu vào cái họ có và vào những người họ yêu, vào những cảm  giác dễ chịu. Và chính từ ý niệm về cái ngã này và về tính sở hữu của  cái ngã mà kiêu căng, tham lam, ghen tỵ, ham muốn phát triển. Mặt khác,  người ta ghét mọi cái gì chống lại cái nhìn quy ngã của mình, chống lại  cảm tưởng mình là cái rốn của vũ trụ, và thế là nảy sinh sự không khoan  dung, giận dữ và thù hận.
 
Ý tưởng cái tôi rõ ràng là một quan  niệm thích nghi và thậm chí hữu ích trong đời sống hàng ngày, nhưng phải  biết rằng, trên bình diện chân lý tuyệt đối, cái tôi đó không có hiện  hữu riêng, không có thực tại độc lập, nói theo kinh điển là vô tự tánh.  Điều này trở nên rõ ràng khi người ta hiểu sự tùy thuộc lẫn nhau của tất  cả mọi hiện tượng và bản chất tương đối và bị điều kiện chi phối của  chúng (duyên sanh).
 
Vậy thì chính sự không biết, vô minh và sai  lầm là những nguyên nhân cho những lỗi lầm của chúng ta và tạo ra những  đau buồn cho mọi người. Ngược lại, sự chính trực về đạo đức sẽ cải thiện  phẩm chất và giá trị của đời sống, cho chính chúng ta và cho những  người khác. Nó tán trợ cho sự hiểu biết chính mình và sự điều phục tâm  thức, như thế cho phép chữa lành những chuỗi sai lầm quá khứ.
 
Trong  những cách đánh giá về những hành động của mình, có một cách khá thuận  tiện : người ta xem mọi cái gì đức hạnh là tích cực, mọi hành vi ác hại  là tiêu cực. Mỗi ngày, người ta tính sổ cái tích cực và tiêu cực, mục  đích của thực tập là tối đa hóa cái tích cực và tối thiểu hóa cái tiêu  cực, để cuối cùng chỉ có cái tích cực. Mỗi ngày, người ta củng cố động  lực của mình bằng cách tái xác nhận ý chí làm thiện và tránh làm ác cho  người khác, và người ta tập giữ gìn ý tưởng này hiện diện trong trí suốt  ngày, dù đang làm việc, vui chơi hay thư giãn, một mình hay với những  người khác. Người ta tự nhớ lại điều đó mọi lúc, biến nó thành sợi dây  dẫn đường của mọi điều người ta làm, nói hay nghĩ. Sống với ý tưởng “an  vui của những người khác” trong đầu óc, thì ngay cả một việc tầm thường  nhất cũng có giá trị, in dấu của một phẩm giá mới.
 
Chiều tối,  trước khi ngủ, người ta tính sổ ngày hôm đó, đánh giá những hành vi, lời  nói và tư tưởng của mình. Với một ít sáng suốt, người ta có thể phán  đoán chính mình về sự tiến bộ của mình mà không cần tham khảo một ai.  Người ta sẽ học nhận ra những khuynh hướng tiêu cực của mình và thấy  chúng biểu lộ như thế nào, nhờ đó người ta sẽ có thể giảm thiểu sự xuất  hiện thường xuyên của chúng. Đồng thời, người ta biết nhận ra và kích  thích những vận hành tích cực. Về phần mọi hành vi “trung tính” mà người  ta phải làm hàng ngày (ăn, tắm rửa, đi, ngủ...), không cần thiết phải  bận tâm chút nào với chúng.
 
Tính sổ hàng ngày không phải là một  kiểu cách thực tập đơn giản. Người ta sẽ không nhận xét lỗi lầm của mình  bằng cách tự nhủ mình là một con quái vật, hay củng cố cho ý kiến tốt  về mình bằng cách tự chúc mừng đã làm điều tốt. Mục đích của công việc  này là nhổ sạch hay chuyển hóa cái ít tốt ở nơi mình, bằng cách nuôi  dưỡng cái tốt nhất của chính mình. Đó thật sự là làm thế nào cải thiện  phẩm chất cuộc sống của mình.
 
Còn phải biết phân biệt giữa tốt và  xấu, thiện và ác. Truyền thống Phật giáo định nghĩa hạnh kiểm đạo đức  nhờ hai phạm trù : tất cả cái gì người ta làm bởi thân, ngữ, tâm bắt  buộc nằm trong “mười thiện hạnh” hay “mười ác hạnh”. Từ hơn hai ngàn năm  trăm năm những nguyên tắc đạo đức này đã được áp dụng, đã tỏ ra lợi  ích, và người ta có thể nhận thấy rằng ngày nay chúng không mất sự chính  đáng thích hợp.
 
Có mười hành vi làm hại được khuyên là phải  tránh : ba của thân, bốn của ngữ và ba của tâm. Về những hành vi của  thân, (1) không giết hại bất kỳ chúng sanh nào, (2) không trộm cắp –  không lấy cái mà người ta không cho mình, (3) không tà dâm. Điều thứ ba  này hiểu là không cưỡng ép người nào vào những liên hệ dục tính trái với  ý muốn của họ, và không dẫn dắt ai phạm vào những lời nguyện tôn giáo  của họ hay phá vỡ những cam kết đã có của họ với một người khác.
 
Bốn  hành vi làm hại của ngữ (4) nói dối, dẫn dụ người khác lầm lẫn khi nói  điều mà người ta biết là sai. (5) Nói những sự việc gây bất hòa và xáo  trộn giữa những người bạn hay những người thông cảm nhau, khiến họ có  thể chia rẽ nhau. (6) Nói điều xấu cho những người khác, gièm pha, chê  bai họ hay chưởi mắng, làm nhục họ bằng cách trưng bày những lỗi lầm của  họ ra giữa thanh thiên bạch nhật. (7) Cuối cùng nói lăng nhăng như  không nói điều gì cả, tiêu phí thời gian trong những thói lắm mồm vu vơ  và vô ích.
 
Ba hành vi làm hại cuối cùng thuộc về tâm thức. Vậy là  tâm thức là cái quan trọng nhất, vì chính nó quyết định phẩm chất mọi  cái người ta làm hay nói. Hôm nay người ta để cho mình cắm rễ trong một  tư tưởng tiêu cực, và chắc chắn người ta sẽ gặt hái không lâu những trái  quả đau buồn, khi tư tưởng nhiễm độc này đã chín và bắt đầu ảnh hưởng  đến những hành vi và lời nói của chúng ta. Thế nên có ba khuynh hướng  tiêu cực phải tuyệt đối tránh không để chúng phát triển trong tâm thức.  Cái thứ nhất là tham muốn, khi người ta thèm khát cái của người bên  cạnh, dù đó là vợ anh ta, xe cộ hay địa vị xã hội của anh ta (8). Tiếp  theo là ác cảm, ý muốn làm hại hay làm điều xấu cho những người khác,  bằng bất cứ phương tiện nào (9). Cuối cùng, người ta phải không bao giờ  nghi ngờ những định luật nhân quả – sự không thể tránh, không thể sai  chạy của mối liên hệ giữa một nguyên nhân và kết quả của nó (10). Mọi  nguyên nhân đều có hậu quả của chính nó, và người ta luôn luôn gặt cái  người ta đã gieo, tốt cũng như xấu.
Người ta có thể tự hỏi tại  sao tránh những hành động có hại này là quan trọng đến thế. Câu trả lời  thì đơn giản : khi phạm vào chúng, người ta chỉ tạo ra những khổ đau  tương lai cho mình, và như vậy mất đi hạnh phúc và bình an mà người ta  đang tìm kiếm. Thật vậy, đó là một sự tính toán rất sai lầm, tệ hại :  nếu người ta hành động bất kể thế nào, người ta sẵn sàng bước qua xác  chết của những người khác với lý do say mê một hạnh phúc không bị ngăn  ngại, rồi người ta phải trả giá cho những gì đổ vỡ – chịu những hậu quả  của những sai lầm của mình. Đó sẽ không phải là hạnh phúc, mà chính là  những lo buồn khổ đau trầm trọng người ta tự mang đến cho mình : ai gieo  thù hận sẽ gặt cơn bão. Kiêng cữ mười hành động làm hại tức là tránh  được nhiều vấn đề, bởi vì người ta thôi tự tạo ra chúng ; và tự động,  những sự việc diễn tiến tốt hơn cho chúng ta và cho những người khác.  Nhưng những thói quen thì cần thay đổi, người ta phải học cẩn trọng với  điều mình làm, với điều mình nói và suy nghĩ.
 
Song song với sự  tránh làm các ác hạnh, người ta cố gắng trau dồi mười hành vi công  chính, chúng là cái đối nghịch, cái đối trị của mười hành vi làm hại.  Thay vì giết, người ta tập tôn trọng và bảo tồn sự sống dưới mọi hình  thức của nó. Hơn là lấy cái người ta không cho, chúng ta chia xẻ cái  chúng ta có, dù đó là cái nhỏ nhặt. Thay vì tự cho phép bất cứ điều gì,  người ta sẽ trau dồi sự chính trực trong những liên hệ cá nhân và tình  dục.
 
Về lời nói, người ta sẽ cố gắng nói sự thật và trung thực,  giảng hòa và đưa lại gần nhau những người cãi cọ nhau hay không thông  cảm với nhau, nói tốt về những người khác – nếu người ta phải nói về họ –  và nói một cách tổng quát, sử dụng lời nói một cách có ý thức.
 
Trên  bình diện tâm thức, thay vì luôn luôn ước ao, đố kỵ với những người  khác, người ta sẽ tùy hỷ với may mắn của họ ; người ta sẽ cố gắng muốn  điều tốt đẹp cho họ ; và người ta tìm cách hiểu rõ hơn những định luật  nhân quả và chấp nhận chúng.
 
Sự xếp loại mười hành vi làm hại và  muời hành vi chân chánh này tiêu biểu cho một căn cứ đạo đức cần thiết  cho những ai muốn sống một cuộc đời ngay chính, dù họ có là người Phật  giáo hay không. Nếu người ta biết chế ngự thái độ cư xử của mình, người  ta sẽ ít phạm vào những luật tắc của trò chơi đời sống trong cộng đồng  và ít làm thương tổn hay làm hại những người khác. Như vậy người ta sẽ  có những quan hệ tương giao tốt đẹp với họ và cái vũ trụ cá nhân của  chúng ta sẽ rõ ràng sống động đáng sống hơn. Hơn nữa, người ta có sự  thanh thản khi biết rằng người ta không đang liên tục tạo ra sự bất hạnh  cho riêng mình và bất hạnh cho những người khác như trước kia nữa.
 
Dù  người ta đã tiến bộ nhiều, tuyệt đối giữ gìn không phê phán những người  khác và lần lựa nơi những khuyết điểm mà người ta tìm thấy nơi họ. Nếu  người ta lưu tâm quá nhiều cái mà họ làm, cái mà họ có thể nói hay nghĩ,  hay người ta luôn luôn tự so sánh với họ, người ta sẽ làm mạnh hơn sự  kiêu căng của mình hay ngược lại sẽ chán nản mình. Sẽ tốt hơn rất nhiều  khi chú ý điều phục tâm thức mình, nhắm vào những mục tiêu cao hơn mà  những giáo huấn đề nghị cho chúng ta. Không phải tìm những câu trả lời ở  ngoài mình : chỉ nhìn vào trong mình để tìm thấy ở những chỉ dẫn của sự  tiến bộ đã làm được, hay của công việc còn phải làm.
 
Một tiêu  chuẩn tuyệt hảo để đo lường sự tiến hóa của chúng ta nằm ở sự khảo sát  thái độ người ta có với những khuyết điểm của người khác. Tâm thức càng  được thuần hóa, người ta càng ít thấy những khuyết điểm ở những người  khác. Ngược lại, tâm thức càng ít được thuần hóa thì người ta càng có  nhiều khuynh hướng nghĩ rằng không có cái gì là lỗi của mình cả. Khi  người ta có một thái độ và một động cơ tích cực, người ta có khuynh  hướng xem sự vật về phía tốt nhiều hơn ; trong khi, nếu sự ích kỷ và vô  minh trộn lẫn vào, người ta có một tri giác rất ít bằng lòng với thế  giới, vì tri giác đó phản chiếu những khuyết điểm riêng của chúng ta.  Cũng như cái đẹp, sự trong sạch thanh tịnh nằm trong con mắt người nhìn  sự vật.
 
Rõ ràng đơn giản hơn khi thích ứng với thế giới thay vì  tìm cách uốn bẻ nó theo chiếu hướng thích hợp với chúng ta. Hãy tưởng  tượng chẳng hạn khắp mặt trái đất phủ đầy cây tầm ma và gai, không biết  đặt chân ở đâu nữa, nếu cố gắng cắt tất cả thì đó là một việc không chấm  dứt và hầu như không thể. Ngược lại, chỉ cần mang một đôi giày to  tướng, để giày vào chân là có thể đi bất cứ nơi đâu. Sự việc cũng như  vậy với tâm thức : một khi người ta đã thuần hóa nó, rõ ràng người ta ít  khó chịu để đảm đương mọi cái đến với mình, từ trong cũng như chung  quanh chúng ta, và đối mặt với nó một cách tích cực.
 
Điều ấy sẽ  thay đổi một cách căn bản cách thế nhìn những sự vật của chúng ta, nhưng  không nên chờ đợi mọi sự xảy ra tự động, ngày một ngày hai. Phải có vài  chuyện hỏng, lúc ban đầu, tuy nhiên đó không phải là một lý do để nản  lòng, để tức giận hay tự trừng phạt mình. Trái lại, phải biết kiên nhẫn  và giữ một thái độ có lòng bi với chính mình, thử rút ra những bài học  từ những sai lầm của mình. Chúng ta đang dấn thân vào một tiến trình  giáo dục lại toàn diện để học đối mặt với bất kỳ hoàn cảnh nào, dù khó  khăn thế nào, và để trở nên có thể có những tương quan đích thực hơn và  quân bình hơn với những người khác.
 
Thái độ của người ta khi  những sự việc trục trặc là rất quan trọng. Thật ra không khó khăn lắm  bình thản với chính mình trước thành công và hạnh phúc, nhưng đặc biệt  rắc rối trong trường hợp thất bại hay bất hạnh. Với một số người, phải  trấn tỉnh lại và ổn định mình để có thể rút ra những bài học từ những  sai lầm và tránh chúng tái diễn. Với những người khác, phải dùng cách  dịu dàng và suy nghĩ yên tĩnh cái gì trục trặc. Điều đó chứng tỏ quan  trọng đến mức độ nào cần học cách tự hiểu biết mình để tìm ra phương  cách tốt nhất để tiến bộ theo chiều hướng tích cực trên cả ba mặt trận :  thân, ngữ, tâm.
 
Hạnh kiểm chúng ta càng cải thiện và những  khuynh hướng xấu càng chuyển hóa, thì song song với chuyện đó chúng ta  sẽ nhận ra một sự gia tăng những thúc đẩy xấu hay những toan tính tự để  cho xao lãng. Đó không phải là dấu hiệu xấu, mà trái lại : mặt trời càng  sáng chiếu càng để lộ rõ những bóng hơn khi nó yếu ớt hay bị che. Nói  cách khác, mặt tích cực càng mạnh mẽ bao nhiêu, người ta càng thấy rõ  mặt tiêu cực bấy nhiêu. Vậy thì không có gì ngạc nhiên hay hốt hoảng nếu  điều đó xảy đến. Chỉ cần tiếp tục làm tốt hết sức mình.
Với phần  đông người mới học như chúng ta, học phân biệt tốt với xấu, tích cực  với tiêu cực và nhận biết cần phải huấn luyện tâm thức cho có kỷ luật là  điều ích lợi. Đấy là những quan niệm nhị nguyên, hẳn thế, nhưng chúng  cần thiết lúc khởi hành, bởi vì chúng cung cấp cho chúng ta những dụng  cụ làm việc và chỉ cho hướng phải theo. Sau này, khi người ta đã tiến bộ  trong con đường tâm linh, người ta không cần phải quy chiếu trực tiếp  vào những quan niệm này nữa, sự tiến hóa của chúng ta sẽ tự nhiên hướng  theo chiều hướng đúng. Nhờ những phản ứng mới của tâm thức, hoạt động  của chúng ta ở mọi cấp độ – thân, ngữ, tâm – sẽ tự động có lợi lạc cho  những người khác. Đấy cũng hơi giống với học lái xe : ban đầu, phải rất  chú ý đến mỗi cử chỉ, mỗi thao tác. Nhưng khi đã có thói quen lái xe,  người ta không cần học lại tất cả lý thuyết mỗi khi muốn đi đâu và thậm  chí người ta còn nói chuyện và ngắm cảnh khi đang lái. Nhờ những sự tự  động đã tự hình thành khi học điều phục tâm thức, hạnh kiểm đạo đức trở  thành một bản chất thứ hai.
 
Một điểm chót rất quan trọng : người  ta phải học tin cậy vào những phương pháp tâm linh mà người ta dùng và  không nhường bước cho sự muốn bỏ cuộc khi người ta thấy có chút khó  khăn. Những giáo huấn từ đó những phương pháp này được rút ra là hoàn  toàn xác thực đáng tin cậy trên bình diện lý thuyết – từ chân lý của  những nguyên tắc trên đó những phương pháp ấy được đặt nền – cũng như  bình diện thực hành : đức Phật, và sau ngài biết bao thế hệ nam nữ đã  thí nghiệm những kỹ thuật và đã nếm những quả trái. Đến lượt chúng ta  hội nhập chúng vào đời sống hàng ngày của chúng ta, làm cho chúng thành  thật sự của chúng ta. Nếu được như thế, toàn bộ cuộc sống của chúng ta  sẽ được biến hình, chuyển hóa : hoạt động của chúng ta sẽ làm lợi lạc  một cách tự động cho những người khác, không làm hại bất kỳ ai. Người ta  cũng tự mình trở thành một mắt xích trong chuỗi dài đảm bảo sự chuyển  giao truyền thống tâm linh này từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Câu  hỏi : Người ta có thể tự hỏi tại sao người ta phải tự ép mình tuân theo  những phép tắc thiện hạnh, trong khi vài người làm trái ngược lại thì  không có vẻ gì bị chuyện xấu cả. Người ta thường thấy những cá nhân ít  đáng tin cậy lại trở nên rất giàu và rất quyền lực, trong khi những  người rất tốt lại nghèo suốt đời.
 
Trả lời : Có thể có những người  lừa đảo, lường gạt giàu có lớn lao, nhưng điều đó không có nghĩa là họ  được hạnh phúc. Sự giàu có thật sự là sống thỏa mãn với cái mình có, hân  thưởng mọi cái đến với mình. Sự giàu có đó theo bạn đi khắp nơi, dầu  bạn ở đâu, trong hoàn cảnh nào. Dầu người ta sống ngoài đường và ngủ  dưới gầm cầu, trong một thùng bằng cạc-tông, người ta vẫn có thể có cái  cảm thức đó, cái cảm giác bạn đã đầy đủ. Không phải mất gì cả, người ta  không lo về chuyện này nữa : người ta không phải run vì viễn cảnh có ai  lấy cái thùng cạc-tông của bạn, có khối gì các thứ ấy... Không phải  người ta có nhiều sự vật mà người ta giàu có, theo nghĩa đích thực của  danh từ. Nhưng nếu người ta biết hành động theo cách chính đáng và biết  cảm kích, hân thưởng cái mình có, bây giờ người ta thực sự giàu có.
 
Câu  hỏi : Hình như có những cách giải thích khác nhau về sự thực hành hạnh  kiểm đạo đức. Người ta nói tổng quát rằng cần trau dồi những hành vi  tích cực và lìa bỏ những hành vi tiêu cực, hầu như phải nhổ sạch chúng.  Nhưng đôi khi, về vài điểm riêng biệt, người ta khuyên chúng ta chớ có  đánh nhau với chính mình hay với cái tiêu cực trong chúng ta, mà nhìn  vào trạng thái tâm thức như chính nó là, trong tính chất đặc biệt riêng  của nó. Ngài có thể nói nhiều hơn về hai đường lối này ?
 
Trả lời :  Đường lối thích hợp là do mức độ phát triển mỗi người, tùy theo người  ta còn là một người mới học, hơi tiến bộ hay rất tiến bộ. Với người mới  học, rất quan trọng là học không trau dồi khía cạnh tiêu cực của tư  tưởng, lời nói và hành vi của mình, và vào mức độ này, hoàn toàn vô ích  khi nhìn vào chúng hay chấp nhận chúng. Tâm thức chưa đủ chín cho việc  đó. Trái lại, đó là lúc phải loại bỏ cái tiêu cực và trau dồi cái tích  cực. Đường lối đầu tiên này là thiết yếu cho những “chiến dịch” tiếp  theo, bởi nó là nền tảng cần thiết cho sự phát triển của chúng ta.
 
Giai  đoạn thứ hai là khi đã học đối mặt với những khía cạnh tiêu cực của  chính mình, người ta không thải bỏ chúng một cách đơn giản và tinh  thuần, mà người ta có thể nhận biết chúng và thưởng thức tính chất đặc  biệt của chúng.
 
Giai đoạn thứ ba là khi tâm thức đã đạt đến sự  chín muồi, trưởng thành của nó, bây giờ không có gì loại bỏ khỏi sự thực  hành tâm linh : tất cả những gì đến với chúng ta đều hòa nhập vào đó  một cách tự động và nuôi dưỡng sự tiến hóa của chúng ta. Có thể vài  người đã trưởng thành đủ về tâm linh để được miễn những giai đoạn sơ bộ.  Trong trường hợp nào, dù mức độ phát triển cá nhân có thế nào, sự quan  trọng là không bao giờ làm hại những người khác và luôn luôn cố gắng  hành động, nói và nghĩ theo một cách có lợi lạc cho họ.