BÀI THỨ NĂM                 Hỏi:_ Trên đã                nói sáu loại tâm sở tương ưng rồi, bây giờ làm sao biết được phần                vị hiện khởi của các thức?  Đáp:_ Nguyên văn                chũ Hán  Tụng viết:  Y chỉ căn bản                thức   Dịch nghĩa  Luận chủ nói hai                câu tụng trên để trả lời rằng: Sáu thức trước đều nương nơi thức                căn bản (A lại da) mà hiện khởi; cũng như sóng nương nơi nước mà                sanh.  Năm thức trước                tuỳ duyên mà khởi; hoặc chung sanh hoặc chẳng chung sanh. Duy có ý                thức thường hiện khởi, trừ ra năm chỗ nó không sanh khởi: 1. Sanh                ở cõi trời Vô tưởng, 2. Nhập định Vô tưởng, 3. Nhập định Diệt tận,                4. Ngủ mê, 5. Chết giả.  LƯỢC GIẢI Sáu thức trước,                bên trong đều nương nơi thức Căn bản (A lại da) bên ngoài nhờ các                duyên (căn, cảnh, tác ý, v.v...) và tuỳ theo phận vị của nó mà                sanh khởi không đồng. Nếu đủ duyên thì sanh khởi, còn thiếu duyên                thì nó không sanh. Cũng như sóng nương nơi nước và nhờ gió, nên có                khi sanh, khi diệt. Duy có ý thức vì ít duyên nên dễ đủ; vì thế mà                được thường sanh khởi, chỉ trừ năm chỗ không sanh:  1. Trời Vô                tưởng; do hành giả khi tu định, nhàm ghét diệt trừ cái "tưởng", mà                được sanh về cõi trời này, nên cõi trời này không có ý thức.  2. Nhập định Vô                tưởng; do hành giả diệt trừ 6 thức trước, mới được định này.  3. Nhẫp định                Diệt tận; do hành giả diệt trừ phần hiện hành của bảy thức trước,                mới được định này. Hai định trên đây đều không có "ý thức".  4. Khi ngủ mê                không chiêm bao, cũng không có ý thức.  5. Khi bịnh nặng                gần chết, hoặc khi bất tỉnh nhơn sự (chết giả) cũng không có ý                thức.  Xem biểu đồ Nước: Dụ thức A                lại da   1. Trời Vô                tưởng   CHÁNH VĂN Hỏi:_ Trên đã                phân biệt rành rõ hành tướng của ba thức năng biến, đều nương nơi                hai phần, rồi tự nó biến ra; bây giờ lám sao biết được các pháp                chỉ do thức biến hiện, rồi giả gọi Ngã, Pháp chớ không phải thật                có, nên nói "tất cả Pháp Duy thức"?  Đáp:_ Nguyên văn                chữ Hán  Tụng viết  Thị chư thức                chuyển biến   Dịch nghĩa  Luận chủ nói một                bài tụng để trả lời rằng: Chỉ do các thức biến ra Năng phân biệt                thức (kiến phần) và Sở phân biệt (tướng phần). Song Năng phân biệt                (thử) và Sở phân biệt (bỉ) đều không thật có, nên nói: "tất cả                pháp Duy thức".  LƯỢC GIẢI Mỗi thức và mỗi                Tâm sở đều có 4 phần: 1. Kiến phần (phần Năng phân biệt), 2. Tướng                phần (phần bị phân biệt, tức là cảnh vật), 3. Tự chúng phần: phần                này tự chứng minh cho Kiến phần, 4. Chứng tự chứng phần: Phần này                chứng minh cho phần tự chứng.  Trong bốn phần                này, về phần thứ ba là Tự chứng, không những có công năng chứng                minh cho phần thứ hai là Kiến phần, mà cũng có công năng đặc biệt                là trở lại chứing minh phần thứ tư là Chứng tự chứng phần. Bởi thế                nên không cần phải có phần thứ năm.  (hình)  Xin nói một thí                dụ để giải rõ bốn phần: Thí như anh A và anh B hùn nhau buômn bán.                Anh A ra tiền (vật có hình tướng) là dụ cho "Tướng phần". Anh B ra                công (không hình tướng) là dụ cho "Kiến phần". Hai ngườilập một tờ                hợp đồng (giao kèo) để chứng minh một bên ra công và một bên xuất                của. Tờ hợp đồng là dụ cho "Tự chứng phần". Vì hai anh tranh giành                nhau, nên đem đến quan kiện. Ông quan chiếu theo tờ hợp đồng mà                phân xử. Ông quan là dụ cho "Chứng tự chứng phần".  Trên đã nói rõ                hành tướng của ba thức năng biến: Từ nơi hai phần bên trong là Tự                Chứng Phần và Chứng Tự Chứng Phần, biến sanh ra hai phần bên ngoài                là Kiến phần và Tướng phần. Vậy thì hai phần bên trong là "thể"                làm chỗ bị y chỉ (nương tựa), còn hai phần bên ngoài là "dụng" là                "năng y chỉ".  Thí dụ như con                ốc hương, đầu và mình con ốc là dụ cho "Tự chứng phần" và "Chứng                tự chứng phần"; còn hai cái vòi là dụ cho Kiến phần và Tướng phần.                Hai vòi có khi lòi ra, có lúc lại thụt vào, là dụ cho cai dụng                Kiến phần và Tướng phần, sanh diệt không thường; còn cái đầu và                mình của con ốc thì thường còn, để dụ cho cái thể Tự chứng phần và                Chứng tự chứng phần, không sanh không diệt.  Luận chủ và                ngoại nhơn hai bên rất mâu thuẫn nhau. Nếu lý Duy thức của Luận                chủ được thành thì sự chấp thật có Ngã, Pháp của ngoại nhơn không                thành; trái lại, nếu sự chấp Ngã, Pháp của ngoại nhơn được thành,                thì lý Duy thức của Luận chủ bất thành.  Ý của ngoại nhơn                hỏi: Làm sao biết Ngã, Pháp đều nương nơi thức biến ra, chẳng phải                thật có, nên nói "Tất cả Pháp đều Duy thức"?  Ý của Luận chủ                đáp: Trên đã nói ba thức Năng biến, mỗi thức đều từ nơi tự thể mà                biến sanh ra Kiến phần và Tướng phần; Kiến phần là phần năng phân                biệt, mà Tướng phần là phần bị phân biệt. Phần bị phân biệt là các                cảnh vật như núi, sông, đại địa, v.v ...Phần năng phân biệt tức là                tác dụng thấy, nghe, hay biết các cảnh vật.  Bởi phần năng                phân biệt (thấy) và phần bị phân biệt (cảnh) đều do thức thể biến                ra, toàn không thật có, nên nói "Tất cả pháp Duy thức".  Thức thể (tự                chứng phần sanh ra Dụng) ---> Phần biết (Kiến) Phần bị biết                (Tướng) đều là thức 
CHÁNH VĂN
Ngũ thức tuỳ duyên hiện  
Hoặc câu hoặc bất câu  
Như đào ba y thủy  
Ý thức thường hiện khởi  
Trừ sanh Vô tưởng thiên  
Cập vô tâm nhị định  
Thuỷ miên dữ muộn tuyệt. 
Sóng: Không gián đoạn: Dụ ý thức thường hiện khởi (trừ 5 chỗ)  
Năm chỗ ý thức Không sanh 
2. Định Vô tưởng  
3. Định Diệt tận  
4. Ngủ mê (không chiêm bao)  
5. Chết giả 
Phân biệt, sở phân biệt  
Do thử, bỉ giai vô  
Cố nhứt thế Duy thức. 
