Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (37)


Xem mục lục

BẤT CHÂN KHÔNG

GIẢI ĐỀ :

Luận nầy nói "Chân Không" bất "không", đặt ra chân đế làm cảnh sở quán, "Bất Chân" có hai nghĩa :

1. Là pháp hữu vi: Vì pháp do duyên sanh là giả, giả mà chẳng thật thì thể tánh vốn không, ấy là tục đế; chẳng chân nên không, gọi là "Bất Chân Không".

2. Là chân tánh duyên khởi thành tất cả pháp, thể tánh chẳng phải đoạn diệt, nên chẳng phải thật không, gọi là "Bất Chân Không".

Sự "hữu" là giả tạm có, nói là "diệu hữu"; sự "không" chẳng phải là "đoạn diệt không", nói là "diệu không"; thế thì phi hữu phi không là trung đạo đệ nhất nghĩa đế. Lấy diệu không để phá hai tông Tâm Vô Luận và Bổn Vô Luận; lấy diệu hữu để phá tông Tức Sắc Du Huyền Luận; chỉ ba chữ đầu đề đã bao gồm hết diệu dụng của chân đế, nếu chẳng phải khế ngộ ý chỉ Trung Đạo, đâu được sự chiếu soi huyền diệu, linh động như thế! 

CHÁNH VĂN

Việc "Chí Hư Vô Sanh" là chỉ trung đạo đệ nhất nghĩa đế, chẳng phải cảnh giới do ý thức phân biệt, suy lường được. Bởi vì diệu dụng chiếu soi nhiệm mầu của Bát Nhã là tông thể căn bản của vạn vật. Thật trí của Bát Nhã chiếu soi chánh lý, nên nói sự chiếu soi nhiệm mầu; trung đạo là chỗ dụng của thật trí nên nói diệu dụng, thế thì không mà chẳng không; vạn vật lấy Trung Đạo làm căn bản của tông thể nên hữu mà chẳng hữu; phi không, phi hữu là tả hết thể dụng của Trung Đạo, ở đây là kiến lập tông thể.

Nếu chẳng phải bậc thánh có minh trí thông suốt, đâu được khế ngộ giữa nơi "có" và "không"! Cho nên, bậc chí nhân thông đạt tâm thần diệu nơi vô cùng; sự vô cùng ấy không vật nào làm chướng ngại được; ở sự nghe thấy cùng tột của tai mắt, chẳng phải sức mạnh của thanh sắc có thể hạn chế được. Bởi vì tánh thể của vạn vật tự không, nên vạn vật chẳng thể làm lao nhọc cái tâm thần diệu quang minh được.

Cho nên bậc thánh dùng chân tâm để thuận theo chánh lý thì không có sự chướng ngại nào mà chẳng thông; dùng thật trí để quán sát vạn pháp, nên gặp cảnh nào cũng đều tự do tự tại. Không có sự chướng ngại nào mà chẳng thông, nên được lẫn lộn trong muôn loài mà bản thể vẫn thuần chân; gặp cảnh nào cũng tự do tự tại nên tiếp xúc vạn vật cũng như một.

Như thế thì vạn tượng dù cho khác nhau mà chẳng thể tự thành cách biệt; chẳng thể tự thành cách biệt nên biết "tượng" phi chân tượng, vì "tượng" phi chân tượng nên "tượng" chẳng phải tượng; vậy thì vật và ngã đồng một gốc, thị (chân đế) và phi (tục đế) chẳng phải hai.

Cảnh giới vi ẩn thâm sâu của bậc thánh thật chẳng phải kẻ mê chấp phàm tình có thể hiểu được. Nên người đời đàm luận đến chỗ Hư tông (lấy hư vô làm tông) đều mỗi mỗi chẳng đồng, các Luận đua nhau ra đời, mỗi nhà chấp theo kiến giải của mình mà thành sự bất đồng; lấy sự bất đồng đem vào lý đại đồng thì đâu còn việc gì có thể đồng được nữa!

Tại sao? Tông Tâm Vô là vô tâm nơi vạn vật; vạn vật chưa từng vô, nói vô tâm chỉ là không có tâm để đuổi theo vạn vật mà vạn vật chưa từng không; đó là chưa thông đạt được vạn vật thể tánh tự không, nay đắc ở nơi tâm tịnh, thất ở nơi vật hư. Tâm chẳng đuổi theo vật thì không bị ngoại cảnh rung động, nên đắc ở nơi tâm tịnh; vì không hiểu vạn vật duyên sanh tánh không, nên thất ở nơi vật hư. Bởi vì còn chấp tâm không, cảnh có, nên chẳng hợp với trung đạo (đoạn nầy phá Tâm Vô Tông).

Tức Sắc Du Huyền Luận chỉ rõ được sắc chẳng tự sắc, nên dù sắc mà phi sắc (1). Phàm phu nói sắc chỉ cho sắc vốn là sắc, đâu phải người đặt tên rồi mới thành sắc đâu? Cho nên lời "Tức Sắc Du Huyền" chỉ nói sắc chẳng tự sắc mà thôi; chưa hiểu được bản thể của sắc vốn không, vì chỉ biết "y tha khởi", tên là giả, chẳng biết "viên thành thật", thể là chân, nên không phải chánh luận (đoạn nầy phá Tức Sắc Du huyền Luận).

Bổn Vô Luận là có tình cảm ham thích sự vô, hễ gặp việc gì nói ra đều tôn sùng nơi "vô", nên nói đến phi hữu thì chấp hữu tức "vô", nói đến phi vô thì chấp "vô" cũng "vô"; "hữu" với "vô" đều vô, cho là hư huyền, chẳng biết đã đọa vào đoạn kiến, chưa rõ chánh lý. Nếu hiểu được bản ý lập ngôn của bậc thánh, thì chỉ cho lời "phi hữu" là chẳng phải thật có, lời "phi vô" là chẳng phải thật không mà thôi, chẳng phải cho phi hữu là không có hữu nầy, cho phi vô là không có vô kia; đó là lời của người ham "vô", đâu phải người thuận theo chánh lý thông suốt sự thật mà đạt đến chỗ ý chỉ "Tức vật Tức chân"! (đoạn nầy phá Bổn Vô Luận).

Lấy tên để đặt tên cho vật là có vật thật để đặt tên, lấy tên để đặt tên cho phi vật như lông rùa sừng thỏ, thì chỉ có tên mà không có vật; cho nên vật chẳng phải do tên mà thành vật thực, tên cũng chẳng phải do vật mà thành tên chân. Vậy thì, chân đế độc tịnh (2) ở ngoài danh tướng giáo lý, đâu phải văn tự, ngôn ngữ có thể biện biệt cho rõ được. Nay vì cần phá mê chấp để hiển bày chánh lý mà chẳng thể nín đặng, nên đặt ra ngôn ngữ phương tiện để luận bàn thử.

Đại Thừa Luận nói : "Các pháp chẳng phải có tướng, cũng chẳng phải không có tướng". Trung Quán luận nói: "Các pháp chẳng có, chẳng không, là đệ nhứt Chân đế vậy". Cứu xét sự chẳng có, chẳng không, đâu phải tẩy sạch vạn vật, lấp bít thấy nghe, vắng lặng hư vô, có, không đều bặt, rồi mới cho là chân đế ư? Kỳ thật, "tức vật thuận thông chánh lý" nên nghĩa chánh của vạn vật không thể phản nghịch được, ấy là "phi hữu", nói đến "Tức ngụy tức chân" thì tánh vật không thể sửa đổi, nếu sửa đổi hay phân tách để tìm chân thì chẳng phải thiệt chân vậy, ấy là "phi vô".

Tánh vật không thể sửa đổi nên dù "không" mà "có", chẳng phải thật "không"; nghĩa chánh của vạn vật chẳng thể phản nghịch được, nên dù "có" mà "không", chẳng phải thật "có". Dù có mà không, ấy là phi hữu (bất chân nên không); dù không mà có, ấy là phi vô (chẳng phải thật không), như thế thì chẳng phải tuyệt đối vô vật, chỉ là vật ấy chẳng phải vật thật mà thôi! Vật chẳng phải vật thật (xứng với nghĩa đề "Bất Chân") thì ở đâu mà có vật để gọi? (xứng với nghĩa "không").

GHI CHÚ :

(1) Sắc chẳng tự cho là sắc, chỉ vì người đặt tên nó là sắc, nếu tâm chẳng cho là sắc thì sắc tức phi sắc.

(2) Chân đế độc tịnh rỗng không, lìa tướng, lìa danh, hiện tượng và số lượng chẳng thể giải thích, siêu việt sự hiểu biết của phàm tình, ý thức suy lường chẳng thể đến, nên gọi là độc tịnh.

Xem mục lục