CHƯƠNG  BỐN 
CÚNG DƯỜNG MẠN ĐÀ LA ĐỂ  
VUN BỒI PHƯỚC  TUỆ 
Ngài hiểu rõ  những gì tương đối đều là dối gạt, nhưng Ngài vẫn vun bồi (hai bồ công đức).  Ngài thấu suốt rằng trong viên mãn chẳng có gì để thiền định, nhưng Ngài vẫn  thực hành thiền định. Ngài thấy tương đối và viên mãn thảy hợp nhất,* nhưng Ngài  vẫn tinh tấn thực hành. Đạo Sư Vô Song, con đảnh lễ dưới chân  Ngài. 
* Theo nghĩa  đen. “Ngài đã thể nhập trạng thái hợp nhất bất khả  phân.”
I. SỰ CẦN  THIẾT CỦA VIỆC VUN BỒI HAI BỒ CÔNG ĐỨC 
Ta không thể đạt  được sự thuần tịnh hỗ tương200  của Phật Quả hoặc hoàn toàn thấu suốt chân lý  của tánh Không mà không hoàn tất  việc vun bồi hai bồ công đức (phước đức và trí  tuệ). Như trong Kinh điển có nói: 
Chừng nào ta  chưa hoàn tất vun bồi hai bồ công đức  thiêng liêng,   
Ta sẽ không  bao giờ chứng ngộ được tánh Không  vi diệu. 
Và: 
Trí tuệ  nguyên sơ tối thượng chỉ có thể hình thành   
 Như là dấu  hiệu của công đức đã được tích lũy và chướng   
ngại đã được  tịnh hóa,  
Cũng như nhờ lực gia trì của một bậc Thầy chứng  ngộ.  
Hãy biết rằng đặt niềm tin vào bất kỳ phương tiện  nào khác là điều điên rồ. 
Ngay cả những  người đã thực sự chứng ngộ tánh Không cũng cần duy trì  những bước tiến của họ  trên con đường tu cho tới khi họ đạt được Phật Quả viên mãn, và vì thế họ vẫn  cần nỗ lực vun bồi công đức. Đức Tilopa, Pháp Vương của các hành giả du già, đã  nói với Naropa rằng: 
Naropa, con  ta, cho tới khi con chứng ngộ được rằng Mọi hình tướng –những gì xuất hiện do  duyên tương khởi Thực ra không bao giờ sinh khởi, không bao giờ xa lìa, Thì hai  bánh xe cho cỗ xe của con, là sự tích lũy công đức. 
Bậc hành giả du  già vĩ đại Virupa đã nói trong Doha (bài chứng đạo ca) của  Ngài: 
Bạn có thể có  sự xác tín vĩ đại không mong cầu Phật Quả tương đối * Nhưng đừng bao giờ từ bỏ  việc vun bồi công đức vĩ đại; hãy nỗ lực tối đa trong khả năng của  bạn. 
*  Điều này  ám chỉ một trạng thái tu chứng, có lòng tin không thể lay chuyển nơi Phật tánh  đã vẫn từng hiện diện trong bản tâm. 
Và Đức Dagpo  Rinpoche vô song nói: 
Ngay cả khi  sự chứng ngộ của bạn siêu vượt các ý niệm cho rằng chẳng có gì để vun bồi hay  tịnh hóa,201 hãy cứ tiếp tục  tích tụ ngay cả những lượng công đức nhỏ bé  nhất. 
Đấng Chiến  Thắng, nương nơi lòng đại bi và nương nơi các phương tiện thiện xảo, đã giảng  dạy vô số phương pháp để giúp ta thực hiện việc tích tụ công đức. Phương pháp  tốt nhất trong các phương pháp này là cúng dường mạn đà la. Trong một Mật điển  có nói: 
Cúng dường  chư Phật trong tất cả các cõi Phật  
Toàn thể tam thiên đại  thiên thế giới  
Tràn đầy tất cả những gì có thể ao  ước,  
Sẽ làm viên mãn trí huệ nguyên sơ của chư  Phật.** 
** Có nghĩa  là sự tích tụ công đức qua pháp tu này sẽ cho phép trí huệ viên mãn của Phật  tánh của ta hiển lộ. 
Theo truyền  thống này, khi cử hành cúng dường mạn đà la như thế, chúng ta sử dụng hai mạn đà  la riêng rẽ: mạn đà la thành tựu và mạn đà la cúng dường. 
Vật liệu nào có  thể dùng để làm mạn đà la thì tùy thuộc vào khả năng tài chánh của bạn. Loại đế  mạn đà la (mandala base) tốt nhất được cấu tạo bằng các chất liệu quý như vàng  và bạc. Một đế mạn đà la chất lượng trung bình làm bằng thứ kim loại để đúc  chuông hoặc một vài vật liệu tốt khác. Trong trường hợp tệ nhất, bạn có thể sử  dụng ngay cả một phiến đá nhẵn phẳng hoặc một miếng gỗ. 
Những phẩm vật  cúng dường lý tưởng nhất được đặt trên đế (base) củïù ù  
a mạn đà la gồm  có các loai đaquy: ngọc lam, san hô, ngọc bích, ngọc trai và những thứ khác. Tốt  bậc nhì là các loại trái cây có dược tính như arura, và kyurura. Bình thường thì  chúng gồm có các loại hạt như lúa mạch, lúa mì, gạo hay các hạt đậu, nhưng trong  trường hợp tệ nhất thì bạn cũng có thể sử dụng ngay cả đá cuội, sỏi, cát và v.v…  - đây chỉ đơn thuần là một sưhỗ trơ cho công phu quán tưởng của bạn. Dù đế mạn  đà la của bạn được làm bằng bất kỳ vật liệu gì, hãy lau chùi sạch sẽ với sự cẩn  trọng cao độ. 
II. MẠN ĐÀ LA  THÀNH TỰU202 
Hãy khởi sự bằng  cách xếp đặt năm tụ (pile) trên mạn đà la thành tựu.203 
Hãy đặt một tụ  nhỏ ở giữa tượng trưng cho Đức Phật Tỳ Lô Giá Na (Vairocana) có các Bổn Tôn  trong Phật Bộ vây quanh. Đặt một tụ khác ở hướng đông - có nghĩa là hướng về  phía bạn204- tượng trưng cho Đức Phật Vajra A Súc Bệ (Aksobhya) được vây quanh  bởi các Bổn Tôn thuộc Kim Cương Bộ. Rồi đặt một tụ ở phương nam tượng trưng cho  Đức Phật Bảo Sanh (Ratnasambhava) được vây quanh bởi các Bổn Tôn của Bảo Sanh  Bộ, đặt một tụ ở phương tây tượng trưng cho Đức Phật A Di Đà (Amitabha) được vây  quanh bởi các Bổn Tôn thuộc Liên Hoa Bộ, và một tụ ở phương bắc tượng trưng cho  Đức Phật Bất Không Thành Tựu (Amoghasiddhi) có các Bổn Tôn thuộc Nghiệp Bộ vây  quanh. 
Cũng có thể quán  tưởng ruộng công đức như trong phần thực hành quy y. Thêm vào đó, tụ trung tâm  (central pile) tượng trưng cho Đại Đạo sư xứ Oddiyana, bất khả phân với vị Thầy  gốc của bạn cùng tất cả các bậc Thầy của dòng Đại Viên Mãn ở trên Ngài, được sắp  xếp trật tự, vị này trên vị kia. Tụ phía trước (front pile) tượng trưng cho Đức  Phật Thích Ca Mâu Ni, được vây quanh bởi một ngàn lẻ hai Đức Phật của Hiền Kiếp  này. Tụ bên phải (right pile) sẽ tượng trưng cho Tám Trưởng Tử Vĩ Đại (Tám Đại  Bồ Tát) của Đức Thích Ca, vây quanh bởi Tăng đoàn cao quý của chư vị Bồ Tát, và  tụ bên trái (left pile) tượng trưng Hai Thanh Văn trưởng tử, được Tăng đoàn cao  quý gồm các Thanh Văn và Phật Độc Giác vây quanh. Tụ phía sau sẽ là Viên Ngọc  Quý của Pháp (Pháp Bảo), trong hình thức các quyển sách dựng lên được bọc trong  một cái lưới bằng tia sáng. 
Trong bất kỳ  cảnh ngộ nào, hãy đặt ‘mạn đà la thành tựu’ này trên bàn thờ hoặc trên một giá  đỡ thích hợp khác. Nếu có thể có được thì bạn hãy đặt năm vật cúng dường sau đây  (hoa, hương nhang, đèn, dầu thơm, và thực phẩm) quanh mạn đà la và đặt mạn đà la  ấy trước các biểu tượng thân, khẩu và ý của Đức Phật. Nếu không thể làm được như  vậy, thì cũng có thể bỏ qua mạn đà la thành tựu, và chỉ cần quán tưởng ruộng  công đức. 
III. MẠN ĐÀ  LA CÚNG DƯỜNG 
Dùng tay trái  cầm đế của mạn đà la cúng dường, còn cổ tay phải liên tục lau  mặt đế trong khi  tụng bài thất chi nguyện (seven-lined prayer) và những bài nguyện khác, không  được sao lãng khi đang quán tưởng. 
Việc lau chùi đế  mạn đà la này không chỉ tẩy sạch bất kỳ bụi bậm nào trên đế. Đây cũng là một   cách nỗ lực dụng công để tự giải thoát khỏi hai chướng ngại ngăn che tâm thức  chúng ta. Chuyện kể rằng các hành giả Kadampa vĩ đại trong quá khứ đã lau chùi  mạn đà la của các Ngài bằng mặt dưới cổ tay cho tới khi da mòn đi và bắt đầu làm  thành các vết thương. Các Ngài vẫn tiếp tục và dùng tới cạnh của cổ tay. Khi vết  thương hình thành ở đó, các Ngài thay thế bằng lưng cổ tay. Vì vậy khi tẩy chùi  đế mạn đà la, bạn đừng dùng khăn len hay vải mà chỉ dùng cổ tay giống như các  hành giả Kadampa vĩ đại trong quá khứ. 
Khi xếp đặt  những tụ cúng dường trên cái đế, hãy làm trong lúc tụng bài nguyện tên là Mạn Đà  La Ba Mươi Bảy Cúng Phẩm, do Ngài Chogyal Pakpa, bậc Gia Hộ Chúng Sinh của phái  Sakya soạn ra. Phương pháp này dễ thực hành, và vì thế được mọi truyền thống cũ  và mới chấp nhận không phân biệt. Ở đây chúng ta bắt đầu bằng việc cúng dường  mạn đà la theo cách này bởi đó cũng là truyền thống của  ta. 
Cả Cổ phái lẫn  Tân phái đều có những phương pháp khác nhau, mỗi phương pháp phù hợp với tập  quán riêng của truyền thống đó. Quả thật, mỗi kho tàng tâm linh của truyền thống  Nyingma có cách cúng dường mạn đà la riêng. Trong truyền thống đặc biệt này của  chúng ta có một vài bài nguyện cúng dường mạn đà la chi tiết của ba Thân được  Đức Toàn Giác Longchenpa giảng dạy trong các tài liệu Tâm-Yếu205 khác nhau. Một  vài tâm yếu trong số này có thể được chọn lựa. 
1. Cúng Dường  Mạn Đà La Ba Mươi Bảy Cúng Phẩm 
Hãy bắt đầu bằng  cách đọc câu minh chú: 
Om Vajra  Bhumi Ah Hum 
đồøng thời cầm  mạn đà la trong bàn tay trái và với bàn tay phải, bạn rắc nước hoa có chứa  bajung** lên đó. Sau đó, với ngón tay cái và ngón đeo nhẫn, hãy lấy một nhúm hạt  và đọc: 
Om Vajra  Rekhe Ah Hum, 
hãy xoay bàn tay  phải trên đế mạn đà la theo chiều kim đồng hồ và sau đó đặt nhúm hạt ở chính  giữa. Nếu bạn có một “hàng rào núi sắt”206 được làm sẵn thì bây giờ là lúc đặt  nó trên mạn đà la và đọc: 
Núi Tu Di,  Vua của các Núi, 
đặt một tụ lớn  hơn ở giữa. Để sắp đặt bốn đại châu, hãy đọc:  
* ba byung, một chuẩn bị  có tính cách nghi lễ làm bởi năm chất liệu khác nhau lấy từ một con  bò.  
Ở phương Đông, cõi Đông Thắng Thần  Châu  
(Purvavideha)... 
và đặt một tụ  nhỏ ở phương đông, nó có thể ở về phía bạn, hoặc ở phía đối nghịch hướng về  những vị mà bạn đang cúng dường.207 Rồi đặt ba tụ cho các châu lục khác, xoay  tròn theo chiều kim đồng hồ bắt đầu từ phương đông. 
Để biểu tượng  cho các trung châu, Deha, Videha và v.v... lần lượt đặt một tụ ở mỗi bên của  từng đại châu. 
Kế đó, đặt Núi  Báu ở phương đông, Cây Như Ýù ở phương nam, Bò Cái Dồi Dào Vô Tận ở phương tây  và Mùa Thu Hoạch Tự Nhiên ở phương bắc. 
Sau đó đến Bảy  Báu Vật tượng trưng của Vương Quyền cộng thêm Bảo Bình Châu Báu Vĩ Đại, chúng  được lần lượt đặt ở bốn hướng chính và bốn hướng phụ (kèm giữa các hướng  chính). 
Kế đó, đặt bốn  thiên nữ bên ngoài ở mỗi hướng chính, bắt đầu là Thiên Nữ Sắc Đẹp; và bốn Thiên  Nữ bên trong ở bốn hướng trung gian, bắt đầu với Thiên Nữ Tràng  Hoa... 
Đặt Mặt Trời ở  phương đông và Mặt Trăng ở phương tây. Đặt Bảo Cái ở phương nam và Phướn Chiến  Thắng Toàn Phương ở phương bắc. 
Trong khi bạn  đọc, 
Tất cả tài  sản của Chư Thiên và loài người,  
          không sót thứ  gì... 
thì hãy đổ thêm  hạt trên phần còn lại khiến không chỗ nào là không đầy tràn. Nếu bạn có một vật  trang hoàng trên đỉnh, bây giờ hãy đặt lên đỉnh và đọc: 
Con dâng cúng  mạn đà la này  lên tất cả các bậc Bổn Sư quang vinh và cao cả của dòng truyền  thừa, và lên tất cả chư Phật và Bồ Tát. 
Ở điểm này, một  vài người thêm vào những lời như: “..tất cả mọi phần đều xinh tươi vàø đầy đủ,  không thiếu món gì,” nhưng theo Đạo Sư của tôi, đó là một thêm thắt không được  tìm thấy trong nguyên bản. 
Đối với những gì  cần được quán tưởng trong mỗi cúng phẩm, Đạo Sư của tôi khi ban giáo lý đã không  nói thêm bất kỳ điều gì ngoài điều này, vì thế bản thân tôi sẽ không viết gì  thêm ở đây. Tuy nhiên, đối những ai muốn hiểu thêm chi tiết thì nên tham khảo  Yếu Nghĩa Mật Kinh, như  đã được đề nghị trong bản văn căn bản dùng để giảng  giải về các pháp thực hành dự bị này.208 
2.  Cúng  Dường Mạn Đà La Của Ba Thân Theo  Bản Văn Này 
2.1. MẠN ĐÀ LA  THÔNG THƯỜNG209 CỦA HOÁ THÂN 
Bốn trung châu  (lục điạ) được đề cập ở trên được  sắp xếp theo cách sắp xếp các tụ vật cúng  dường, với Núi Tu Di ở giữa và các cõi trời Phạm Thiên (Brama) ở trên,  tạo  thành một thế giới. Một ngàn thế giới này tạo thành cái được gọi là “một thế  giới bậc nhất gồm một ngàn thế giới.” Lấy một thế giới gồm một ngàn thế giới như  thế, mỗi thế giới với bốn trung châu, và nhân một ngàn thế giới này lên một ngàn  lần, chúng ta có một cái gọi là “một thế giới trung gian bậc hai gồm một ngàn  lần một ngàn thế giới,” hay một thế giới gồm một triệu thế giới. Lấy một thế  giới gấp triệu lần như thế và lại nhân nó lên một ngàn lần cho ta “một hệ thống  thế giới vĩ đại bậc ba gồm một ngàn triệu thế giới,” hay một vũ trụ gồm cóù một  tỉ thế giới. Một thế giới ở bậc này, tạo bởi một ngàn triệu thế giới, mỗi thế  giới có bốn trung châu, nằm dưới sự cai quản của một Hóa Thân Phật duy nhất -  chẳng hạn Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, mà cõi Phật của Ngài được gọi là Thế Giới  Kham Nhẫn.210 
Hãy tưởng tượng  trong khắp hằng hà sa sốø thế giới không thể nghĩ bàn này, tất cả những kho tàng  tuyệt hảo nhất được tìm thấy trong các cõi người hay cõi Trời, như bảy báu vật  tượng trưng cho vương quyền và v.v... cho dù những kho tàng hay châu bảo này có  thuộc quyền sở hữu hay không thuộc quyền sở hữu của bất kỳ ai. Thêm vào những  thứ này là thân thể, tài sản, cuộc đời, vận may, năng lực và sức mạnh của riêng  bạn, cũng như tất cả các nguồn công đức mà bạn đã tích tụ trong mọi lúc và sẽ  tích tụ trong tương lai, cùng tất cả những gì đã từng có thể đem lại niềm vui và  hạnh phúc cho bạn. Hãy chất  đầy  tất cả những gì tốt đẹp nhất và đáng ao ước  nhất, ngay cả một tham muốn hay bám luyến nhỏ bé như hạt mè cũng không thiếu,  hãy cúng dường đầy đủ và tất cả những cúng phẩm này không thiếu thứ gì cho Thầy  của bạn và các Bổn Tôn Hóa Thân. Đây là pháp cúng dường mạn đà la thông thường  của Hóa Thân. 
2.2. MẠN ĐÀ LA  PHI THƯỜNG CỦA BÁO THÂN 
Trên tất cả  những thứ đó, hãy tưởng tượng vô vàn các cõi Trời và cung điện không thể nghĩ  bàn trong năm cõi Phật vĩ đại,211 tất cả được các Thiên Nữ Tuyệt Mỹ gia trì,  được các thiên nữ khác cúng dường bao niềm vui của các cảm thọ, tất cả những  năng lực gia hộ và niềm vui này được nhân lên vô hạn. Hãy cúng dường tất cả  những thứ này cho Thầy của bạn và các Bổn Tôn Báo Thân. Đây là pháp cúng dường  mạn đà la phi thường của Báo Thân. 
2.3. MẠN ĐÀ LA  ĐAËC BIỆT CỦA PHÁP THÂN 
Trên cái đế mạn  đà la tượng trưng cho Pháp Giới vô sanh tuyệt đối, hãy đặt các tụ tượng trưng  cho bốn thị kiến cũng như cho bất kỳ tư tưởng tạo tác nào. Hãy cúng dường tất cả  cho vị Thầy và các Bổn Tôn Pháp Thân. Đây là pháp cúng dường mạn đà la đặc biệt  của Pháp Thân. 
Đối với pháp  cúng dường mạn đà la này của ba Thân, hãy duy trì một ý niệm trong sáng về tất  cả những giáo huấn thực hành này và với lòng quy ngưỡng, hãy lập lại lời cầu  nguyện, bắt đầu bằng: 
Om Ah Hum.  Tam thiên đại thiên thế giới, cõi giới gồm một ngàn triệu thế  giới... 
...Trong khi bạn  tính đếm (counting) các cúng phẩm bạn đang dâng cúng, hãy cầm cái đế  của mạn đà  la trong bàn tay trái, để  nguyên các vật cúng dường lần đầu trên đó, và cứ mỗi  lần trì tụng bản văn thì bạn lại đặt thêm một tụ lên trên bằng bàn tay phải. Hãy  thực hành với lòng kiên nhẫn, đưa đế mạn đà la lên cho tới khi tay bạn đau tới  độ không còn cầm được nữa. “Chịu đựng gian khổ và kiên nhẫn một cách dũng cảm vì  Pháp” thì có ý nghĩa hơn việc hoàn toàn nhịn đói.212  Đó có nghĩa là luôn luôn  quyết tâm hoàn tất bất kỳ pháp hành trì nào cho dù pháp ấy có khó làm chăng nữa,  dù ở trong bất cứ hoàn cảnh nào đi nữa. Hãy thực hành như thế này, và trong khi  làm thế, bạn sẽ tích lũy được một số lượng khổng lồ công đức nhờ vào sự kiên trì  và nỗ lực của bạn. 
Khi thực sự  không thể cầm mạn đà la được nữa, hãy đặt mạn đà la xuống bàn trước mặt bạn và  tiếp tục chồng lên đó các tụ cúng dường và đếm số lần. Khi bạn dừng nghỉ, chẳng  hạn để uống trà, hãy gom mọi thứ bạn đã cúng dường lại, và khi bắt đầu trở lại,  hãy khởi sự với mạn đà la ba mươi bảy cúng phẩm trước khi tiếp tục như  trước. 
Hãy quả quyết  thực hiện ít nhất một trăm ngàn lần công phu cúng dường mạn đà la theo cách này.  Nếu bạn không kham nổi số lượng đó khi sử dụng mạn đà la chi tiết của ba Thân,  thì thay vào đó có thể tụng câu kệ bắt đầu bằng: 
Mặt đất được  tịnh hóa với nước thơm... 
trong khi cúng  dường mạn đà la bảy cúng phẩm.213 
Bất kỳ bạn dùng  hình thức cúng dường nào, điều quan trọng là áp dụng ba phương pháp siêu việt  như trong bất kỳ pháp môn thực hành nào khác. Hãy bắt đầu bằng việc phát khởi Bồ  Đề Tâm, sau đó thực hiện chính pháp môn hành trì mà không để  cho bất kỳ ý niệm  tạo tác nào khởi lên, và niêm phong pháp hành trì cho thật hoàn hảo vào lúc cuối  bằng việc hồi hướng công đức. 
Nếu đang dùng  lúa mạch, lúa mì, hoặc loại hạt khác để cúng dường mạn đà la, chừng nào mà bạn  có thể lo liệu được phí tổn thì hãy luôn luôn cúng dường hạt mới và không dùng  cùng một hạt hai lần. Những vật đã cúng dường thì bạn có thể đem cho chim muông,  phân phát cho những hành khất, hoặc xếp chồng lên trước một biểu tượng của Tam  Bảo. Nhưng đừng bao giờ nghĩ rằng đó là của riêng bạn hoặc sử dụng cho bạn. Nếu  bạn thiếu tài lực để sắm sửa lại các hạt cúng dường mỗi lần thực hành pháp hành  trì này thì hãy cố gắng sắm sửa các hạt mới mỗi khi điều kiện cho phép.  Nếu quá  nghèo, bạn cũng có thể dùng đi dùng lại số lượng hạt đó. 
Tuy nhiên, bạn  hãy thường thay đổi hạt, làm sạch các hạt này trước khi cúng dường bằng cách  nhặt ra các vật lạ, bụi đất, vỏ trấu, rơm, phân chim và những thứ tương tự, và  tẩm hạt bằng nghệ hoặc loại nước hoa khác. 
Cho dù giáo lý  cho phép dùng vật cúng dường bằng đất và đá, nhưng đây là vì lợi lạc cho những  người quá nghèo khó đến nỗi không có chút sở hữu nào, hoặc để dành cho những  người có năng lực siêu việt đến nỗi chỉ với một hạt bụi duy nhất, tâm họ có thể  tạo nên các cõi Phật nhiều như tất cả những hạt bụi trên toàn thể thế giới. Còn  bản thân bạn tuy có thể thực sự có được đầy đủ những gì cần thiết, nhưng lại  không thể buông bỏ và cúng dường một cách rộng rãi. Bạn có thể quả quyết bằng đủ  loại loại lý lẽ đã được cân nhắc và có vẻ rất hợp lý –  thậm chí tự thuyết phục  mình – rằng bạn đang thực hiện cúng dường bằng cách trì tụng thần chú hoặc bằng  quán tưởng. Nhưng bạn sẽ chỉ tự lừa gạt mình. 
Hơn nữa, tất cả  các Mật điển và giáo huấn cốt tủy đều nói về “các cúng phẩm trong sạch, được  chuẩn bị sạch sẽ” hoặc “những cúng phẩm đã được chuẩn bị sạch sẽ.”  Các Mật điển  không bao giờ khuyên nên dùng “các cúng phẩm dơ bẩn, được chuẩn bị một cách dơ  bẩn.” Vì thế đừng bao giờ cúng dường các đồ thừa hay thực phẩm bị ô nhiễm bởi  tính keo kiệt hay bụi bẩn. Đừng dành riêng cho mình phần lúa mạch tốt nhất và  dùng phần còn lại để cúng dường hoặc làm các bánh cúng (torma) bằng món bột lúa  mì xay nhuyễn (tsampa). Các hành giả Kadampa thuở xưa thường  nói: 
Giữ phần tốt  nhất cho bạn và cúng dường phó mát mốc meo và rau quả héo úa cho Tam Bảo là điều  không nên làm. 
Đừng làm các  bánh cúng hoặc đèn cúng dường với những vật liệu hư ôi hoặc thối rữa, trong khi  dành những thứ hảo hạng cho mình. Lối hành xử đó sẽ làm cạn kiệt công đức của  bạn. 
Khi làm  shelze214 hay các torma, hãy chuẩn bị bột nhào cho vừa vặn (không quá đặc cũng  không quá lỏng), với chính độ vừa mà  chính bản thân bạn cũng sẽ ưa thích. Thật  sai lầm  
nếu bạn đổ thêm nhiều nước vào bột nhào  chỉ để cho  dễ làm hơn. 
Ngài Atisa  thường nói: “Những người Tây Tạng này sẽ không bao giờ có thể giàu có, họ làm  bánh cúng bằng bột nhào mỏng teo!” 
Ngài cũng nói:  “Ở Tây Tạng, chỉ cúng dường nước thôi cũng đủ tích lũy công đức. Ở Ấn Độ trời  quá nóng và nước chẳng bao giờ tinh sạch được như ở Tây Tạng  đây.” 
Như một cách  tích lũy công đức, cúng dường nước tinh trong, thanh tịnh sẽ cực kỳ hiệu quả nếu  bạn có thể thực hiện việc này thật tinh tấn. Hãy rửa sạch bảy chén cúng dường  hoặc các đồ đựng khác và đặt chúng cạnh nhau, đừng quá sát và không quá xa. Chén  phải được đặt thẳng tắp, không chén nào trong số đó lệch khỏi hàng. Nước phải  tinh khiết không lẫn các hạt, tóc, bụi hoặc các côn trùng nổi ở trong đó. Phải  thận trọng khi rót đầy các chén, nhưng đừng quá đầy tới miệng chén, không làm đổ  chút nước nào trên bàn cúng dường. Đây là cách thực hiện cúng dường nước tốt đẹp  và hoan hỉ. 
Phổ Hiền Hạnh  Nguyện Tán có nói về các phẩm vật cúng dường “được sắp xếp hoàn hảo, đặc biệt và  tuyệt vời...” Cho dù bạn thực hiện hình thức cúng dường nào, nếu bạn làm thật  tốt đẹp và hoan hỉ, thì ngay cả trong cách thức sắp đặt, lòng tôn kính mà bạn  biểu lộ đối với chư Phật và Bồ Tát trong khi cúng dường sẽ đem lại một lượng  công đức bao la. Vì thế hãy nỗ lực chuẩn bị thật chu đáo các phẩm vật cúng dường  của bạn. 
Nếu bạn thiếu  tài lực hoặc không thể thực hiện các pháp cúng dường, thì ngay cả việc cúng  dường những vật dơ bẩn hay thô xấu cũng không có gì sai miễn là tác ý của bạn  hoàn toàn trong sạch. Chư Phật và Bồ Tát không có ý niệm sạch hay dơ. Có những  ví dụ về những sự cúng dường như thế trong các truyện kể, như câu chuyện về một  người đàn bà nghèo khó có tên Người Bới Rác Thành Phố cúng dường Đức Phật một  ngọn đèn bơ. Và có câu chuyện về người đàn bà cùi hủi cúng dường Ngài Đại Ca  Diếp một chén cháo gạo mà bà đã nhận trong buổi khất thực. Khi bà đang cúng  dường Ngài thì một con ruồi rơi vào chén. Bà cố lấy con ruồi ra và ngón tay bà  cũng nhúng vào trong chén. Dù thế nào đi nữa, Ngài Đại Ca Diếp đã dùng nó để  hoàn thành ý hướng tốt đẹp của bà, và vì vật cúng dường của bà đã cung cấp thực  phẩm trọn ngày cho Ngài nên bà tràn ngập niềm vui. Bà đã được tái sinh ở cõi  Trời thứ Ba Mươi Ba. 
Nói tóm lại, khi  bạn cúng dường mạn đà la, dù cúng dường thứ gì đi nữa thì món ấy cũng cần phải  tinh sạch, được cúng dường trong một cách thế hoan hỉ, và ý hướng của bạn phải  hoàn toàn thanh tịnh. 
Trong bất cứ  giai đoạn nào của đường tu, bạn không nên ngưng nỗ lực thực hiện các pháp hành  trì để tích lũy công đức, chẳng hạn  cúng dường mạn đà la. Như các Mật điển có  nói: 
Chẳng có chút  công đức nào thì làm gì có thành tựu;  
Người ta không thể ép cát  để lấy dầu. 
Hy vọng vào bất  kỳ một thành tựu nào mà không lo tích lũy công đức thì giống như cố gắng ép cát  ở bờ sông để lấy dầu thực vật. Cho dù bạn ép bao nhiêu triệu hạt cát, bạn sẽ  chẳng bao giờ lấy được chút xíu dầu nào. Nhưng muốn tìm kiếm các thành tựu bằng  việc tích lũy công đức thì giống như nỗ lực lấy dầu bằng cách ép các hạt mè. Bạn  càng ép mè thì bạn càng lấy được nhiều dầu. Cho dù chỉ ép một hạt mè duy nhất  trên móng tay bạn cũng sẽ làm toàn thể móng tay mình bóng dầu. Có một câu tục  ngữ tương tự: 
Trông chờ các  thành tựu mà không tích lũy công đức thì giống như cố gắng khuấy nước để làm  bơ.  
Mưu cầu các thành tựu sau khi vun bồi công đức thì  giống như khuấy sữa làm bơ. 
Không còn nghi  ngờ gì rằng việc đạt được mục đích tối hậu của thành tựu siêu việt cũng là kết  quả của việc hoàn tất tốt đẹp việc tích lũy hai bồ công đức. Chúng ta đã thảo  luận về việc không thể nào đạt được hai thân thuần tịnh của Phật Quả nếu không  thành tựu việc vun bồi tích lũy phước đức và trí tuệ. Đức Long Thọ đã có  nói: 
 Nhờ những  thiện hạnh này mà mọi chúng sinh có thể Thành tựu vun bồi phước đức và trí tuệ  Và đạt được hai Thân siêu việt Đến từ công đức và trí  tuệ. 
Nhờ thành tựu  vun bồi công đức là một việc tuy vẫn còn bao hàm các ý niệm (tạo tác),215 bạn  đạt được Sắc Thân (rupakaya) siêu việt. Nhờ thành tựu vun bồi trí tuệù siêu vượt  các ý niệm, bạn đạt được Pháp Thân siêu việt. 
Các thành tựu  nhất thời của cuộc đời bình thường cũng có thể được tạo ra bởi việc tích lũy  công đức. Nếu chẳng có chút công đức nào thì mọi nỗ lực của ta dù to dù lớn đến  đâu cũng sẽ thất bại. Ví dụ có những người chưa từng nỗ lực chút nào mà chẳng  bao giờ thiếu thực phẩm, tiền bạc hay tài sản trong hiện tại là nhờ kho công đức  họ đã tích lũy trong quá khứ. Những người khác tiêu phí cả đời đâm đầu vào mọi  chỗ, cố làm giàu bằng thương mại, trồng trọt v.v... nhưng chúng không đem lại  ngay cả chút lợi ích nhỏ bé nhất, và cuối cùng phải chết đói. Đây là những điều  mà mọi người có thể tự thấy cho chính mình. 
Thậm chí điều  này cũng thích hợp trong việc làm nguôi dịu các vị thần tài bảo, các Hộ Pháp và  v.v... với hy vọng có được một thành tựu siêu nhiên tương ứng. Những Bổn Tôn như  thế không thể ban cho ta điều gì trừ phi ta có thể thu hoạch được hoa trái (quả)  đến từ hạnh bố thí (nhân) của chính ta trong quá khứ. 
Có một lần một  ẩn sĩ không có gì để sống, vì thế ông bắt đầu thực hiện thực hành pháp tu  Damchen.* Ông trở nên lão luyện trong pháp tu đến nỗi có thể trò chuyện với vị  Hộ Pháp như thể nói với một người khác, nhưng ông vẫn chưa đạt được thành  tựu. 
Damchen nói với  ông: “Ông không có ngay cả chút kết quả ít ỏi nhất đến từ bất kỳ hành động bố  thí nào trong quá khứ, vì thế ta không thể đem lại cho ông một thành tựu  nào.” 
Một hôm nhà ẩn  sĩ đứng vào hàng cùng một vài hành khất và được bố thí một tô súp đầy. Khi ông  về nhà, Damchen hiện ra và nói với ông: “Hôm nay ta đã ban cho ông một vài thành  tựu. Ông có nhận thấy không ?” 
“Nhưng tất cả  các hành khất đều nhận một tô súp, đâu phải chỉ mình tôi,” nhà ẩn sĩ nói. “Tôi  không thấy (dấu hiệu) thành tựu đến từ Ngài ra sao.” 
Damchen nói “Khi  ông nhận súp, một miếng mỡ lớn đã rơi vào tô ông, đúng không ? Đó là thành tựu  đến từ ta!” 
Không thể khắc  phục sự nghèo khổ bằng các pháp tu tài bảo và những pháp tu tương tự mà không có  một vài tích tụ công đức trong những đời quá khứ. Nếu có những vị như các vị  Trời tài bảo thực sự có khả năng ban cho các thành tựu tài bảo siêu nhiên thì  chư Phật và Bồ tát, với khả năng và năng lực có thể thực hiện các điều huyền  nhiệm còn lớn hơn hàng trăm, hàng ngàn lần, và là những bậc Giác Ngộ đã hoàn  toàn hiến mình để giúp đỡ chúng sinh ngay cả khi không được thỉnh cầu, thì chắc  chắn chư Phật và Bồ Tát sẽ trút xuống thế giới này một khối lượng dồi dào của  cải khiến tất cả mọi sự cùng khổ đều được giải trừ trong giây lát. Nhưng điều  này đã không xảy ra. 
*  Damchen Dorje Lekpa, Phạn: Vajrasadhu, một trong  những Hộ Pháp chính.
Bởi bất kỳ những  gì ta có chỉ là kết quả của công đức ta từng tích tụ trong quá khứ, nên một chút  công đức thì đáng giá hơn một trái núi nỗ lực. Ngày nay khi những người thấy  được chút ít của cải hay quyền lực ít ỏi nhất trong xứ sở man dại này của chúng  ta, họ hoàn toàn sửng sốt và tán thán: “Ôi chao, ôi chao! Có thể có được chuyện  này sao?”  Thật ra có được của cải này cũng chẳng cần phải đòi hỏi gì nhiều  trong cách tích tụ công đức. Khi tác ý  của người cúng dường và đối tượng được  cúng dường đều thanh tịnh, thì kết quả của hành động cúng dường này được minh  chứng bởi câu chuyện của Mandhatri.** Bằng hành động cúng dường bảy hạt đậu, ông  đạt được vương quyền tối cao tận Cõi Trời thứ Ba Mươi Ba. Rồi có trường hợp của  Vua Ba Tư Nặc (Prasenajit) mà quyền lực của ngài là kết quả của hành động cúng  dường một đĩa thực phẩm nóng sốt không muối. 
Khi Ngài Atisa  đến Tây Tạng, xứ ấy giàu và lớn hơn ngày nay. Và tuy thế Ngài nói: “Tây Tạng  thực sự là một vương quốc gồm các thành phố ngạ quỷ. Ở đây ta không thấy ai đang  hưởng quả của việc đã từng cúng dường, thậm chí chỉ một lượng lúa mạch duy nhất  cho một đối tượng thanh tịnh!” 
Nếu người ta  thực sự cho rằng của cải hoặc một chút quyền lực tầm thường là cái gì thật kỳ  diệu và tuyệt vời, thì trước hết đó là một dấu hiệu cho thấy tâm hồn họ nhỏ bé  biết bao; thứ đến, điều này chứng tỏ họ bám chấp vào các hình tướng phàm tục ra  sao; và thứ ba, họ không hiểu biết đúng đắn sự đơm hoa kết trái của tất cả mọi  hành động, như đã được minh họa trước đây bằng hạt giống của cây asota – hoặc  cho ta thấy họ không tin vào kết quả này cho dù họ có hiểu biết về điều  đó. 
Nhưng bất kỳ ai   có được sự xả bỏ chân thành và chân thật thì họ sẽ hiểu rằng trong tất cả những  sự kiện hoàn hảo hiển nhiên được tìm thấy trong thế gian này – ngay cả việc giàu  có như một long vương, có một địa vị cao như bầu trời, mạnh mẽ như sấm sét hoặc  tươi đẹp như một ánh cầu vồng – không điều gì trong những thứ này có chút gì  thường hằng, bền chắc hoặc  có được chút thực chất nào. Những thứ như thế chỉ  khơi dậy sự nhờm tởm, giống như một đĩa thức ăn béo ngậy được đem mời một người  mắc bệnh vàng da.  
** Xem Phần Một, Chương Bốn, Mục  III. 
Việc tích lũy  phước đức với hy vọng được giàu có trong đời này thì là điều hoàn toàn tốt lành  đối với người thế gian bình thường, nhưng điều này khác xa Phật Pháp chân chính,  vì Phật Pháp chân chính được đặt nền tảng trên quyết tâm giải thoát khỏi sinh  tử. Như tôi đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần, nếu bạn đang tìm kiếm một Chân Pháp  đưa tới giải thoát, bạn phải từ bỏ mọi tham luyến với đời sống thế tục như thể  có quá nhiều nước bọt trong bụi đất. Bạn phải lìa bỏ quê hương và hướng về những  miền đất vô danh, luôn luôn ở những nơi cô tịch. Bạn phải phấn khởi tu tập khi  đối diện với bệnh tật và vui vẻ đương đầu với cái chết. 
Một lần kia, một  đệ tử của đức Dagpo Rinpoche vô song hỏi Ngài: “Trong thời đại suy thoái này  thật khó tìm ra thực phẩm, áo quần và những thứ cần thiết khác để thực hành chân  Pháp. Vậy con phải làm gì ? Con cần nỗ lực để làm nguôi dịu phần nào các Bổn Tôn  tài bảo, hay học một phương pháp hữu hiệu để trích ra các tinh chất,216 hoặc cam  chịu một cái chết nào đó?” 
Bậc Đạo Sư đáp:  “Dù con hết sức nỗ lực, nhưng nếu không có bất kỳ hoa trái nào của hành động bố  thí trong quá khứ thì việc làm lành với các Bổn Tôn tài bảo sẽ rất khó khăn.  Ngoài ra, việc tìm kiếm giàu sang trong đời này thì mâu thuẫn với việc chân  thành thực hành Pháp. Việc thực hành pháp trích xuất tinh chất ra từ các bất  động vật thì bây giờ không còn phải như là trong đại kiếp tăng tiến nữa,217 khi  mà tinh chất của đất, đá, nước, thảo mộc, v.v... đã tiêu tán. Bây giờ việc đó  chẳng còn hiệu nghiệm nữa. Tự buông mình vào một cái chết nào đó thì cũng chẳng  tốt. Sau này, sẽ rất khó khăn để có thể có lại được một thân người với đầy đủ tự  do và thuận lợi như con hiện có. Tuy nhiên, nếu con có niềm tin chắc chắn tận  đáy lòng rằng con có thể thực hành mà không quan tâm đến việc con sống hay chết,  thì con sẽ chẳng bao giờ thiếu thực phẩm và quần áo.” 
Trước giờ, chưa  từng bao giờ có một ví dụ nào về một hành giả chết vì đói. Đức Phật đã từng  tuyên bố rằng ngay cả trong thời gian có nạn đói vô cùng thảm khốc, khi mà muốn  mua được một lượng bột sẽ phải trả giá bằng một lượng ngọc, thì ngay cả lúc đó,  đệ tử của Đức Phật cũng sẽ không bao giờ phải thiếu thực phẩm và quần  áo. 
Tất cả các pháp  hành trì mà chư Bồ Tát thực hiện để vun bồi công đức và trí huệ hay để giải trừ  các chướng nhiễm chỉ có một mục đích duy nhất: đó là hạnh phúc của tất cả chúng  sinh đầy khắp không gian. Bất kỳ ước muốn nào hầu đạt được Phật Quả viên mãn chỉ  cho riêng bạn thì chẳng dính dáng gì tới Đại Thừa, huống hồ là thứ thực hành  nhắm tới việc thành tựu các mục đích tầm thường của đời này. Cho dù bạn có thể  hành trì bất cứ loại pháp môn nào, dù là thực hành tích lũy phước đức và trí tuệ  hay thực hành pháp tịnh hóa các chướng nhiễm, hãy thực hiện các pháp ấy vì sự  lợi lạc của toàn thể chúng sinh vô biên, và đừng trộn lẫn pháp hành trì với bất  kỳ thứ tâm tham luyến chấp ngã nào. Ngay cả khi bạn không ước muốn những điều  này, thì như một tác dụng phụ, tất cả các lợi lạc, tiện nghi và hạnh phúc của  riêng bạn trong đời này sẽ được đầy đủ, giống như khói tự xuất hiện khi bạn thổi  vào một ngọn lửa, hay chồi lúa mạch tất nhiên sẽ nảy nở khi bạn gieo hạt. Nhưng  đối với bất kỳ sự thôi thúc nào khiến bạn hiến mình cho riêng những điều đó (lợi  lạc, tiện nghi và hạnh phúc) thì hãy vứt bỏ hết những thôi thúc này như vứt bỏ  thuốc độc đi. 
 
Machik Labdron (1031 -  1129)  
Là vị phối ngẫu  của Padampa Sangye và người trì giữ chính yếu của dòng truyền thừa Chư. Bà cầm  cái trống-đôi lớn được dùng trong pháp môn này để thỉnh mời tất cả những vị  khách tới dự bữa tiệc tượng trưng.