Tin Tức (680)


Quách Tấn và Hàn Mặc Tử *

14,848

 

ẢNH HƯỞNG ĐẠO PHẬT

 

TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ (*)

 

L.T.S: Tưởng niệm nhà thơ Phạm Công Thiện lại nhớ nhà thơ Quách Tấn, nhớ nhà thơ Quách Tấn lại nhớ nhà thơ Hàn Mặc Tử. Xin giới thiệu bài cũ của thi hào Quách Tấn, viết từ nửa thế kỷ trước để cùng nhớ những nhà thơ tài hoa của đất Việt. 

 

 

Hàn Mặc Tử rất chú trọng về âm nhạc và màu sắc. Đó chính vì tâm hồn Tử có nhiều trạng thái cá biệt, nhiều khi rất bí ẩn u huyền; để diễn tả, phải dùng màu sắc, hình ảnh và âm nhạc--nhất là âm nhạc, vì chỉ có âm nhạc mới diễn tả nổi những cái sâu xa, thầm kín, những cái tế nhị, u ẩn của một tâm hồn  

 

Nhiều khi Tử phải bỏ nghĩa thông thường của chữ, bỏ cả văn phạm của câu, để cho thanh âm tiết tấu phù hợp với những biến chuyển, những rung động, những xao xuyến của tâm hồn--một tâm hồn mênh mông và đối với chúng ta có phần xa lạ--mà văn tự chính xác nhiều khi không diễn tả được thấu đáo, không diễn đạt đúng ý muốn của người thơ. Cho nên xem thơ Hàn Mặc Tử, nhiều khi không nên chấp ở chữ mà hại lời, không nên chấp ở lời mà hại ý. Và muốn nhận thức tình ý trong thơ được đầy đủ, thì phải thưởng thức nhạc thơ trước nhất, vì trong thơ Tử, nhạc đi trước mà ý theo sau, và có khi ý không ở trong lời mà ở trong nhạc. 

 

Trong tâm hồn Tử, không có những bức thành kiên cố ngăn cách tôn giáo của mình và tôn giáo của người, nhất là đối với Phật giáo. Vì không có những bức thành kiên cố ngăn cách giữa tôn giáo mình và tôn giáo người, nên Tử đã đi tìm nguồn cảm hứng trong Đạo Bồ Đề. Và mặc dù tự xưng mình là "Thi sĩ của đạo quân Thánh Giá", Tử vẫn không ngần ngại đem những từ ngữ, những hình ảnh của Phật giáo và dùng trong văn thơ mình, dùng cả vào trong những bài có tinh thần Thiên Chúa giáo nhiều nhất. Như bài Thánh Nữ Đồng Trinh là một  

 

Bài này Là những lời Tử dâng lên Đức Maria để ca ngợi "ơn phước cả", mà Thánh Nữ đã ban cho Tử trong "cơn lâm lụy". Trong bài có những chữ "Từ Bi", "ba ngàn thế giới", là chữ của nhà Phật, dùng một cách sướng khoái:   

 

Lạy Bà là Đấng tinh truyền thánh vẹn   

 

Giàu nhân đức, giầu muôn hộc từ bi   

 

Tôi ưa nhìn Bắc đẩu rạng bình minh   

 

Chiếu cùng hết khắp ba ngàn thế giới    

 

Hai chữ "Từ bi", còn thấy dùng trong nhiều bài khác:   

 

Thơ tôi thường huyền diệu   

 

Mọc lên đạo từ bi  

 

(Cao Hứng)

Trời từ bi cảm động ứa sương mờ   

 

Sai gió lại lay hồn trong kẽ lá  

 

(Hãy Nhập Hồn Em)  

 

Nhiều từ ngữ khác của Phật giáo, như "hằng hà sa số" "mười phương" cũng thường gặp trong thơ Tử:    

 

Mây vẽ hằng hà sa số lệ   

 

Là nguồn ly biệt giữa cô đơn  

 

(Cuối Thu)

 

Đóng cửa mười phương lại   

 

Dồn ánh sáng vào đây  

 

(Điềm lạ)   

 

Trời như hớp phải hơi men ngan ngát 

  Đắm muôn nghìn tinh lạc xuống mười phương

  (Nguồn thơm)

  Nhưng đó chỉ là những dấu tích bên ngoài. Trong thơ Hàn Mặc Tử có nhiều bài chịu ảnh hưởng cả hình thức lẫn tinh thần Phật giáo:

 

   Bay từ Đao Lỵ đến trời Đâu Suất,

 Và lùa theo không biết mấy là hương.

  (Phan Thiết)

   Trở lại trời tu luyện với muôn đêm,

 Hớp tinh khí lâu năm thành chánh quả.

  (Phan Thiết)

 
Ngoài những ngôn ngữ phổ thông của nhà Phật, như "thành chánh quả", "sông Hằng", Tử vãi tung thơ lên tận sông Hằng (Phan Thiết). Ngoài những hình ảnh đẹp đẽ của trời "Đao Lỵ", trời "Đâu Suất" - những cõi Phật xa xăm, đầy nhạc, đầy hương, đầy ánh trăng--chúng ta nhận thấy trong bài Phan Thiết, thuyết nghiệp báo và thuyết luân hồi được thi vị hóa một cách tài tình: con chim Phụng Hoàng vì Sân Si mà phải đoạn, và khi trở lại trời tu luyện thành chánh quả rồi, mà vì tập khí chưa tiêu trừ trọn vẹn, nên phải trở xuống trần gian, "nơi đã khóc đã yêu đương da diết" để mà "chôn hận nghìn thu" và "sầu muộn ngất ngư".  
 

Trong bài Phan Thiết, chúng ta còn nhận thấy rằng Hàn Mặc Tử đã nhìn đời bằng con mắt giác ngộ: những hiện tượng trong cõi đời này đều là những tuồng ảo hóa:   

    Sao tan tành rơi xuống vũng chiêm bao,

 

  Trăng tan tành rơi xuống một cù lao

  Hoá đại điện đã rất nên tráng lệ

  (Phan Thiết)  

 

Và cõi đời này--mà Phan Thiết là tượng trưng--là nơi đau khổ, là nơi "chôn hận nghìn thu", là nơi "sầu muộn ngất ngư". Vì nhận biết cõi đời là giả tạo, là nơi khổ lụy, Tử đi tìm nơi giải thoát và đã tìm thấy Cực Lạc Quốc Độ của Phật A Di Đà.

 

   Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi miền

 (Ngoài vũ trụ) 

  

Cả trời bỗng nổi lên muôn điệu nhạc

 

   Rất trọng vọng, rất thơm tho, man mác

  Rất phương phi trên hết cả anh hoa

 (Ra đời)    

Vì muôn kinh dồn dập cõi thơm tho,

 Thêm nghĩa lý sáng trưng như thất bảo

 (Đêm xuân cầu nguyện)  

 

Những "ánh sáng vô cùng" "sáng láng cả mọi miền", những tiếng "nhạc thiêng liêng dồn trỗi khắp hư linh", những điệu nhạc "rất trọng vọng, rất thơm tho, man mác" những "cây bằng gấm và lòng sông bằng ngọc", ở trong Tử là vang bóng của "vô lượng quang" của "thiên nhạc", của "hoa sen đủ màu sắc và đủ hào quang mọc trong ao Thất bảo" trên thế giới Cực Lạc mà Tử đã nhìn qua kinh A Di Đà.  

 

Tinh thần Phật giáo còn ảnh hưởng trong nhiều văn thơ của Tử, nhưng nhiều khi hoặc quá tiềm tàng, hoặc bị hình ảnh thơ lấn đi, nên chúng ta không thấy nếu chúng ta không chú ý, không lưu tâm. "Ôi trời hạo nhiên đây không phải là công trình châu báu của Người sao? Lòng vô lượng đây không phải do phép màu nhiệm của Đấng Vô Thỉ Vô Chung?” (bài tựa Xuân Như Ý). Đó chẳng phải là chữ Tâm được thi vị hóa bằng những hình ảnh tượng trưng? Hàn Mặc Tử đã xác nhận tính chất vô thỉ vô chung của Tâm (lòng vô lượng), mà biểu hiện mầu nhiệm là Mùa xuân thơm tho, trong đẹp, tràn lan khắp không gian (trời muôn trời) chen lấn vô tận hồn tạo vật, và tồn tại cùng thời gian (năm muôn năm). Nhưng vì là một tín đồ Thiên Chúa Giáo, Tử đã quan niệm cái Tâm bất sanh bất diệt là Đấng Vô Thỉ Vô chung, và coi những hiện tượng do "lòng vô lượng" đã "đưa ra" kia là "công trình châu báu" của Đức Chúa Trời, nên Tử "cao rao danh Cha cả sáng". Như thế Hàn Mặc Tử có phải là một nhà thơ của đạo Thiên Chúa? Nghĩa là Tử phải có một tín đồ dùng thơ để phụng sự tôn giáo mình? Thưa không phải. Tử tìm vào Đạo - Đạo Thiên Chúa cũng như Đạo Phật chỉ để tìm nguồn cảm hứng, để tìm nguồn an ủi khi bị tình đời phụ rẫy hoặc thể xác dày vò. Lý tưởng chính của Tử là Thơ. Tôn giáo chỉ là những yếu tố phụ vào để làm cho thơ thêm giầu sang và trọng vọng. Do đó nhiều khi bị hứng thơ lôi cuốn, Tử đã thốt ra những lời có thể gọi là "phạm thượng" đối với những Đấng Thiêng Liêng mà Tử phụng thờ. Ví dụ đương quỳ trước Thánh Nữ Maria để ca ngợi ơn cứu nạn, mà Tử dám nói: 

  

Tôi cảm động rưng rưng hai hàng lệ;

 Dòng thao thao bất tuyệt của nguồn thơ

 Bút tôi reo như châu ngọc đền vua  

 

Thật chẳng khác nào đứng nói cùng một người ngang hàng ngang lứa hoặc Nàng Thơ! Thậm chí trong khi cầu nguyện lúc đêm xuân, mà chàng vẫn để tứ thơ ngang tàng theo hứng:
 

Ta chắp tay lạy quỳ hoan hảo,

 Ngửa trông cao cầu nguyện trắng không gian,  

   Để vừa dâng vừa hiệp bốn mùa xuân  

  Nở một lượt giàu sang hơn Thượng Đế

 (Đêm xuân cầu nguyện).   

Nghĩ đến những gì "giàu sang hơn Thượng Đế", Tử biết là một tội lỗi lớn, nên tiếp đó chàng van lơn thầm nguyện:  

   Tôi van lơn, thánh nguyện Chúa Giêsu  

   Ban ơn xuống cho mùa xuân hôn phối  

   Xin tha thứ những câu thơ tội lỗi  

 

Lời xưng tội vẫn không thật nghiêm trang thành kính! Trong khi viết những lời tạ tội, Tử đã nghĩ đến thơ nhiều hơn nghĩ đến Chúa, mặc dù Tử luôn luôn thờ Chúa trên thơ.   

Còn đối với Đạo Phật? Hàn Mặc Tử đi vào Đạo Từ Bi không phải để tu, mà cũng không phải để tìm hiểu những gì cao siêu huyền diệu. Tử vào Đạo Từ Bi cũng như một lãng nhân vào vườn hoa nghìn hương muôn sắc. Vào không phải với mục đích của nhà vạn vật học hay nhà làm vườn, mà vào với tấm lòng con nhà nghệ sĩ khoáng đạt phong lưu. Vào để thưởng thức những cái Đẹp khác thường vừa giàu sang vừa thanh thoát. Hoa có bao nhiêu hương giống, cũng không cần biết. Vườn hoa có tự bao giờ và rộng đến đâu, cũng không cần biết nốt. Mà chỉ biết rằng có nhiều hương lạ, nhiều sắc lạ, và chỉ biết trải lòng mênh mông. Rồi những gì đã thấm vào tâm khảm thỉnh thoảng trào ra ngọn bút những lúc Thơ về, khi thì đượm đà, khi thì phảng phất, khi thì hiển hiện, khi thì ẩn tàng và tràn ra một cách tự nhiên, khiến lắm lúc nhà thơ rưởng rằng đó là do mình sáng tạo ra chớ không ngờ rằng mình đã chịu ảnh hưởng,

  Và tất cả những gì đã thâu nhập được trong tôn giáo, trong Phật giáo, cũng như trong Thiên Chúa Giáo - một khi đã vào thơ Tử thì không còn giữ nguyên chất, vì đã bị tâm hồn Tử biến thể, pha trộn theo quan niệm và sở thích của mình. Tử thường nói cùng bạn rằng: “Tôi lợi dụng văn chương và triết lý nhà Phật để làm thơ mà thôi. Tôi dung hòa cả hai thể văn và tôn giáo: Thiên Chúa và nhà Phật. Đó chính là muốn làm giầu cho nền văn chương chung.”

 

Bởi vậy, khi đọc Hàn Mặc Tử, chúng ta nên mở tấm lòng cho rộng rãi, đừng chấp về mặt tư tưởng cũng như về mặt ngôn từ, thì mới dễ cảm động cùng con người thơ phức tạp, mới tận hưởng được tất cả những gì sâu kín ẩn khuất dưới những hàng mây ráng lung linh.   

Quách Tấn 

(Nha Trang, mùa xuân Tân Sửu, 1961)

 

(*) Tựa là của Chanhphap (Tựa Quách Tấn và Hàn Mặc Tử là của Trang Nhà)

14,848

ĐẠO LỚN KHÔNG KHÓ CỐT ĐỪNG CHỌN LỰA

Để đáp lại tấm lòng của anh em trước hết thầy chúc anh em mình tu hành làm sao mỗi năm càng đi sâu vào cái chân thật đó, mỗi năm mình

630
BẠO LỰC - KRISHNAMURTI

BẠO LỰC🤹 Khi bạn tự cho mình là một người Ấn, hay một người Hồi giáo hay một người Âu, hay cái gì khác, bạn đang bạo lực. Bạn có thấy tại

993
SINH THÁI HỌC TÂM LINH

SINH THÁI HỌC TÂM LINH🔆 Sinh thái học và tâm linh nối kết với nhau một cách căn bản, bởi vì cuối cùng tỉnh giác sinh thái sâu xa là tỉnh giác

782
Ca Sĩ Sỹ Luân

Sỹ Luân từng tự vẫn ở bến Bạch Đằng   (VTC News) – Nhạc sỹ “Mắt nai cha cha cha” từng tự tử ở bến Bạch Đằng sau cuộc tình dang dở, may

17,499
Trích từ Truy Môn Cảnh Huấn:

Đạo làm thầy (Trích từ Truy Môn Cảnh Huấn)   * Pháp sư Phật Quang Chiếu hiệu Đông Bình ở núi Thượng Trúc dạy học đồ : - Làm người khó, mà

12,349
Top Bài Viết
Quan Hệ Thầy Trò
Niệm Tự Bạch

QUAN HỆ THẦY TRÒ Theo Tinh thần Kinh Kế thừa Chánh pháp Thầy, vầng mây bậc, thong dong, núi cao biển rộng Con, cánh nhạn chiều, chân trời sải cánh, dõi theo Thầy,

33,382
Giữ giới là lựa chọn tự do
Phật học Ứng Dụng

Giữ giới là lựa chọn tự do  Giới luật của Phật giáo có nghĩa là: “Anh đừng tự làm thương tổn mình, anh đừng tự làm hại mình”. 1. Tự do của lệ thuộc

32,802
Đạo Phật là gì?
Niệm Tự Bạch

Đạo Phật là gì Lama Zopa and Lama Yeshe Khi bạn tìm hiểu về đạo Phật tức là bạn đang tìm hiểu về con người thật của mình, về bản chất của tâm trí

32,709
Vô minh bẩm sinh & Vô minh văn hóa
Tìm Hiểu & Học và Hành

Vô minh bẩm sinh & Vô minh văn hóa(VHPG) Mọi kinh nghiệm của chúng ta, kể cả giấc mộng, khởi lên từ vô minh. Đây là một tuyên bố làm hoảng hốt

32,496
Chùa Việt
Sách Đọc