Thành kính      đảnh lễ đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri             Quyển Thứ                              Mười Chín                                    [376c]NÓI                              RÕ PHẦN THỨ TÁM CỦA 92 PHÁP ÐƠN ÐỀ.                              57. GIỚI: CHE GIẤU TỘI TỈ-KHEO KHÁC.                                Khi Phật an trú                              tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Lúc bấy giờ, Ưu                              Ba Nan Ðà nói với người đệ tử tùy tùng của Nan Ðà                              anh mình như sau:                              - Này tên kia,                              ngươi hãy cùng ta vào xóm làng, đến một nhà kia, họ                              sẽ cúng dường ẩm thực cho ngươi. Nếu ta có làm điều                              gì trái oai nghi tại đó, thì ngươi hãy che giấu, chớ                              nói cho ai biết, vì ta là Thúc phụ của ngươi. Ðồng                              thời ta cũng che giấu lỗi lầm cho Hòa thượng của                              ngươi.                              - Dù cho ông, cha                              hay Hòa thượng của tôi có lỗi, tôi cũng không che                              giấu, huống gì là Thúc phụ. Trưởng lão hãy tự che                              giấu lỗi lầm của Hòa thượng tôi, chứ tôi hoàn toàn                              không thể che giấu lỗi lầm của trưởng lão.                              Ưu Ba Nan Ðà nghe                              trả lời như thế, liền suy nghĩ: "Hôm nay ta sẽ làm                              cho ngươi đau khổ để biết tay ". Thế rồi, hai người                              cùng vào thành, đến nhà một trưởng giả. Ðàn Việt                              trông thấy rất hoan hỉ, chào hỏi, rồi mời ở lại thọ                              trai. Ưu Ba Nan Ðà lại suy nghĩ: "Ta phải trông                              chừng mặt trời, khi nào gần đến giờ ngọ, ta sẽ sai                              hắn trở về tinh xá để cho không kịp bữa ăn của chúng                              đồng thời cũng mất bữa ăn ở đây, lui tới đều mất bữa                              ăn, cho hắn thấm nỗi khổ đau". Suy nghĩ thế rồi, khi                              gần đến giờ ngọ, thầy bèn bảo ông kia trở về lại                              tinh xá. Vì sợ mất bữa ăn cho nên ông ta vừa ngó                              chừng mặt trời vừa đi vội vã trở về tinh xá. Thế                              nhưng, lúc ấy Tăng chúng vừa ăn xong, ra ngoài cổng                              tinh xá, đang ung dung đi kinh hành. Từ xa, họ trông                              thấy ông ta miệng mồm khô rốc có vẻ như chưa ăn, họ                              liền nói đùa:                              - Sáng nay ngươi                              đi theo Tỉ kheo giáo hóa vào thành, có được những                              thức ăn gì ngon chăng?                              - Chỉ bị khổ não                              chứ nào có thức ăn gì đâu.                              Các Tỉ kheo nghe                              thế, liền đem sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật                              bèn bảo gọi Ưu Ba Nan Ðà đến. Khi thầy đến rồi, Phật                              liền hỏi đầy đủ sự kiện trên:                              - Ông có việc đó                              thật chăng?                              - Có thật như vậy,                              bạch Thế Tôn.                              - Ðó là việc ác,                              phi pháp, phi luật, trái lời ta dạy, không thể dùng                              việc đó để nuôi lớn thiện pháp được. Từ nay về sau,                              nếu biết Tỉ-kheo có tội thô ác, thì không được che                              giấu.                              Thế rồi, Phật                              truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá                              Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế                              giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe                              lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              biết Tỉ kheo khác phạm Thô tội mà che giấu, thì phạm                              Ba dạ đề.                              Giải thích:                              [377a] Tỉ                              kheo: Như trên đã nói.                              Biết:                              Hoặc tự biết, hoặc nhờ nghe người nói mà biết.                              Thô tội:                              Như bốn Ba la di, mười ba Tăng già bà thi sa; đó gọi                              là Thô tội.                              Che giấu:                              Không muốn cho người khác biết.                              Ba dạ đề:                              Như trên đã nói.                              Khi Tỉ kheo thấy                              người khác phạm tội thô ác thì không được che giấu,                              nếu che giấu thì phạm tội Ba dạ đề. Trường hợp Này                              cần phải nói với người khác. Nhưng khi nói, không                              phải nói với bất cứ ai mà phải nói với Tỉ kheo tốt,                              hoặc nói với đồng Hòa thượng, A xà lê. Nếu Tỉ kheo                              phạm tội kia hung bạo, hoặc dựa vào thế lực của vua,                              của đại thần, của kẻ hung ác khiến họ có thể sát hại                              hay hủy hoại phạm hạnh của mình, thì mình nên suy                              nghĩ: "Ông ta gây nên tội lỗi chắc chắn sẽ chuốc lấy                              quả báo, ông ta phải tự biết việc ấy. Ví như khi bị                              hỏa hoạn, ta chỉ nên tự cứu lấy mình, cần gì phải                              biết đến việc khác". Thế rồi, khi ấy lo giữ gìn tánh                              mạng mình thì được xem là không có tội.                              Nếu Tỉ kheo biết                              Tỉ kheo khác phạm bốn Ba la di, mười ba tăng già bà                              thi sa, mà tất cả đều che giấu thì phạm Ba dạ đề.                              Nếu biết người                              khác phạm ba mươi Ni tát lì, chín mươi hai Ba dạ đề,                              mà tất cả đều che giấu thì phạm tội Việt tì ni.                              Nếu biết người                              khác phạm bốn Ba la đề đề xá ni, chúng học pháp, mà                              tất cả đều che giấu thì phạm tội Việt tì ni tâm niệm                              sám hối.                              Nếu biết Tỉ kheo                              ni phạm tám Ba la di, mười chín Tăng già bà thi sa                              mà tất cả đều che giấu, thì phạm Thâu lan giá.                              Nếu biết Tỉ kheo                              ni phạm ba mươi Ni tát kì, một trăm bốn mươi mốt Ba                              dạ đề mà tất cả đều che giấu, thì phạm tội Việt tì                              ni.                              Nếu biết Tỉ kheo                              ni phạm tám Ba la đề đề xá ni, chúng học pháp, mà                              tất cả đều che giấu thì phạm tội Việt tì ni tâm niệm                              sám hối.                              Nếu biết Thức xoa                              ma ni phạm mười tám hành pháp mà cho họ thọ học trở                              lại hoặc tất cả đều che giấu, thì phạm tội Việt tì                              ni.                              Nếu biết Sa di,                              Sa di ni phạm mười giới, mà tất cả đều che giấu,                              hoặc cho họ xuất gia trở lại, thì phạm tội Việt tì                              ni.                              Sau cùng, cho đến                              biết người thế tục phạm năm giới, mà tất cả đều che                              giấu, thì phạm tội Việt tì ni tâm niệm sám hối. Thế                              nên nói:                              "Nước có trùng,                              không y                                                            58. GIỚI: SÁT HẠI SINH VẬT.                              Khi Phật an trú                              tại thành Tỳ Xá li nói rộng như trên. Lúc bấy giờ,                              có người mặc giáp, mang cung tên đi vào tinh xá, rồi                              cởi giáp bỏ cung, ngồi nghỉ dưới gốc cây. Khi ấy,                              tại vũng đất cát trước sân tinh xá có đàn bồ câu                              đang ăn uống vui đùa. Tôn giả Ưu Ðà Di thấy thế,                              liền nói (với người ấy):                              - Các hạ (trường                              thọ), cho tôi mượn cung tên để tôi bắn thử một phát                              xem.                              - [377b] Ðược                              thôi.                              Ưu Ðà Di liền lấy                              cung và năm mũi tên, lắp tên vào, bắn năm phát, hạ                              năm con bồ câu, đoạn nhổ hết lông, ghim chúng vào                              khúc cây, đem đến trao cho Thế Tôn, nói:                              - Bạch Thế Tôn,                              đây là thịt chim.                              - Ở đâu mà có vậy?                              - Bạch Thế Tôn,                              có người mặc giáp, mang cung tên, đến trước sân tinh                              xá, rồi ngồi nghỉ dưới gốc cây, con mượn cung tên                              ông ta để bắn thử mấy con chim, vì trước kia con đã                              từng tập bắn nên bắn không trật.                              - Này kẻ ngu si,                              đó là việc ác, lẽ ra phải bỏ sớm, lại còn bảo là                              trước kia đã từng tập bắn nên bắn trúng. Ông không                              từng nghe Ta dùng vô lượng phương tiện chê trách sự                              sát sinh, khen ngợi không sát sinh hay sao mà nay                              còn làm việc ác bất thiện như vậy. Ðó là việc phi                              pháp, phi luật, trái lời ta dạy, không thể dùng việc                              đó để nuôi lớn thiện pháp được.                              Các Tỉ kheo liền                              bạch với Phật:                              - Bạch Thế Tôn,                              lẽ ra nên khởi từ tâm cứu hộ chúng sanh, thế mà vì                              sao Ưu Ðà Di lại cướp lấy mạng sống của chúng mà                              không có lòng từ bi?                              - Không những                              ngày nay ông ta không khởi từ tâm mà trong thời quá                              khứ cũng đã từng như vậy, như trong kinh Bổn Sinh                              Thích đề hoàn nhân đã nói rõ.                              Thế rồi, Phật                              truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại Tỳ Xá li                              phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới                              cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              cố ý cướp đoạt sinh mạng của súc sinh thì phạm Ba dạ                              đề.                              Giải thích:                              Tỉ kheo:                              Như trên đã nói.                              Cố ý:                              Trước tiên tạo ra phương tiện.                              Cướp đoạt                              sinh mạng của súc sinh:                              Hoặc là Thân, Thân phần, Thân phương tiện.                              Thân:                              chỉ cho toàn thân. Nếu giẫm đạp trên thân của chúng                              sanh, hoặc lôi kéo, đè xuống muốn cho chúng chết mà                              chúng chết thật, thì phạm Ba dạ đề.                              Thân phần:                              Vì muốn sát hại chúng sanh nên dùng một trong các                              thứ: hoặc chân, hoặc tay, hoặc đầu gối, hoặc cùi chỏ,                              hoặc răng, hoặc móng tay ... để giết thì gọi là thân                              phần.                              Thân phương                              tiện:                              Nếu dùng tay cầm các thứ như cây, gậy, gạch, đá...                              đến đánh, hoặc đứng từ xa ném, muốn cho chúng chết                              mà chúng chết thật, thì phạm Ba dạ đề.                              Ba dạ đề:                              Như trên đã nói.                              Hoặc Tỉ kheo muốn                              sát hại sinh mạng của súc sinh bằng các thứ như: dao,                              thuốc, thoa, cho mửa, cho ỉa, làm đọa thai...                              1. Ðao:                              Các loại dao lớn nhỏ cho đến một tấc sắt, nếu Tỉ                              kheo có tâm sát hại thì khi cầm dao phạm tội Việt tì                              ni tâm niệm sám hối; đụng đến thân thể chúng, phạm                              tội Việt tì ni; chúng chết, phạm Ba dạ đề. Ðó gọi là                              dao.                              2. Thuốc:                              Có ba loại là: sanh, hợp và độc.                              - Sanh: Như ở đất                              nước Ni lâu, đất nước Uất xà ni có loại cỏ độc tên                              là Ca la; đó gọi là sinh.                              - Hợp: Như thợ                              săn dùng các thứ rễ cộng, lá hoa, trái, các loại cỏ                              trộn lại bào chế thành thuốc; đó gọi là hợp.                              - Ðộc: Chất độc                              của rắn, chất độc của chuột, của chó sói, của mèo,                              của chó, của gấu, của báo, của người v.v... các thứ                              như vậy gọi là độc.                              Hoặc sinh, hoặc                              hợp, hoặc độc, [377c] tất cả các thứ như vậy gọi là                              thuốc.                              Nếu Tỉ kheo khởi                              tâm sát hại muốn giết súc sinh, thì khi chế thuốc                              phạm tội Việt tì ni tâm niệm sám hối; khi thuốc chạm                              vào thân chúng phạm tội Việt tì ni; nếu chúng chết                              thì phạm Ba dạ đề. Ðó gọi là thuốc.                              3. Thoa:                              Nếu Tỉ kheo khởi tâm sát hại muốn dùng thuốc bôi vào                              thân súc sinh, khi bôi nghĩ rằng: "Ta bôi vào đầu,                              chân, mình để cho nó chết khô", thì khi cầm thuốc                              phạm tội Việt tì ni tâm niệm sám hối; khi chạm vào                              thân nó phạm tội Việt tì ni; nếu vì thế mà nó chết                              thì phạm Ba dạ đề. Ðó gọi là thoa.                              4. Mửa:                              Nếu Tỉ kheo khởi tâm sát hại, bào chế thuốc định làm                              cho súc sinh mửa cả máu mủ ruột gan ra mà chết, thì                              khi chế thuốc phạm tội Việt tì ni tâm niệm sám hối;                              khi thuốc chạm vào thân nó, phạm tội Việt tì ni;                              nhân đó mà nó chết, thì phạm Ba dạ đề. Ðó gọi là mửa.                              5. Ỉa (đại                              tiện):                              Nếu Tỉ kheo khởi tâm sát hại, bào chế thuốc đại tiện,                              muốn làm cho súc sinh đại tiện cả máu mủ ruột gan ra                              mà chết, thì khi chế thuốc phạm tội Việt tì ni tâm                              niệm sám hối; khi thuốc chạm vào thân nó, phạm tội                              Việt tì ni; do đó mà nó chết, thì phạm Ba dạ đề.                              6. Làm đọa                              thai:                              Nếu Tỉ kheo khởi tâm sát hại, muốn làm đọa thai súc                              sinh, thì khi tạo phương tiện, phạm tội Việt tì ni                              tâm niệm sám hối; khi chạm thuốc vào thân nó, phạm                              tội Việt tì ni; định giết mẹ mà chỉ làm đọa thai,                              thì phạm tôi Việt tì ni; định làm đọa thai mà mẹ                              chết, thì phạm tội Việt tì ni; định giết mẹ mà mẹ                              chết, thì phạm Ba dạ đề; định giết thai mà thai chết,                              cũng phạm Ba dạ đề. Nhưng nếu súc sinh mang thai                              người, thì phạm tội Việt tì ni. Ðó gọi là làm đọa                              thai.                              * Lại có các                              trường hợp: Ði theo hàng, dùng chú Tì đà la, dùng                              mạt vụn, giăng lưới, gài bẫy, đào hầm sập, đường đi,                              sông.                              1. Ði theo                              hàng:                              có loài súc sinh đi từng hàng hoặc năm con, mười                              con, hai mươi con, mà Tỉ kheo muốn giết con đầu lại                              giết nhầm con giữa, hoặc muốn giết con giữa lại giết                              nhầm con sau, hoặc muốn giết con sau lại giết nhầm                              con giữa, hoặc muốn giết con giữa lại giết nhầm con                              đầu, thì đều phạm tội Việt tì ni. Nếu định giết con                              đầu mà con đầu chết, định giết con giữa mà con giữa                              chết, định giết con sau mà con sau chết, thì đều                              phạm Ba dạ đề. Hoặc định giết bất cứ con nào mà nó                              chết thì phạm Ba dạ đề. Ðó gọi là đi theo hàng.                              2. Dùng chú                              Tì đà la:                              Nếu Tỉ kheo muốn giết súc sinh bèn đọc chú Tì đà la,                              chú làm cho thây người chết đứng dậy, thì khi đọc                              chú phạm tội Việt tì ni tâm niệm sám hối; khi chúng                              kinh hãi lông dựng đứng lên thì phạm tội Việt tì ni;                              nhân đó mà chúng chết, thì phạm Ba dạ đề. Ðó gọi là                              dùng chú Tì đà la.                              3. Dùng mạt                              vụn:                              Nếu Tỉ kheo muốn sát hại súc sinh, bèn nghiền bột                              rắc lên mình chúng định làm cho chúng chết khô, thì                              khi tạo phương tiện phạm tội Việt tì ni tâm niệm sám                              hối; khi chạm thuốc vào mình chúng phạm tội Việt tì                              ni; nếu nhân đó mà chúng chết thì phạm Ba dạ đề.                              4. Giăng                              lưới:                              Nếu Tỉ kheo khởi tâm sát hại súc sinh, bèn giăng                              lưới tại những nơi mà chúng thường đi, thường ăn,                              thường uống nước, thì khi giăng lưới phạm tội Việt                              tì ni tâm niệm sám hối; chạm đến thân chúng phạm tội                              Việt tì ni. [378a] vì thế mà chúng chết phạm Ba dạ                              đề. Ðó gọi là giăng lưới.                              5. Gài bẫy:                              Nếu Tỉ kheo khởi tâm sát hại súc sinh bèn gài bẫy                              tại những chỗ mà chúng thường đi, thường ăn và                              thường uống nước, thì khi gài bẫy phạm tội Việt tì                              ni tâm niệm sám hối; chạm đến thân chúng, phạm tội                              Việt tì ni; vì thế mà chúng chết, phạm Ba dạ đề. Ðó                              gọi là gài bẫy.                              6. Ðào hầm:                              Nếu Tỉ kheo khởi tâm sát hại súc sinh bèn đào hầm                              tại những nơi mà chúng thường đi, thường ăn và                              thường uống nước, thì khi đào hầm phạm tội Việt tì                              ni tâm niệm sám hối; khi chúng rơi vào trong đó phạm                              tội Việt tì ni; vì thế mà chúng chết, phạm Ba dạ đề.                              Ðó gọi là đào hầm.                              7. Ðường đi:                              Nếu Tỉ kheo đang đi kinh hành trên đầu đường, thấy                              súc sinh đến, liền suy nghĩ: "Giờ đây, ta sẽ làm cho                              không một mống nào thoát chết", thế rồi khởi tâm sát                              hại xua chúng chạy đến chỗ sư tử, chỗ hổ báo, chỗ                              đáng sợ, chỗ nhà vua săn bắn". Thì khi xua đuổi                              chúng, phạm tội Việt tì ni tâm niệm sám hối; khi                              chúng phải chịu đau đớn, phạm tội Việt tì ni; vì thế                              mà chúng chết, phạm tội Ba dạ đề. Ðó gọi là đường đi.                              8. Sông:                              Nếu chùa ở gần bên sông, Tỉ kheo đang đi kinh hành                              trên bờ sông, trông thấy súc sinh đi đến, liền suy                              nghĩ: "Giờ đây ta sẽ làm cho những con vật này không                              một con nào sống sót", thế rồi khởi tâm sát hại xua                              chúng đến chỗ không an toàn, chỗ bờ dốc có nước xoáy,                              chỗ thi Thâu ma la (?) đi qua, chỗ có sư tử hổ báo                              và chỗ nhà vua săn bắn; thì khi xua đuổi phạm tội                              Việt tì ni tâm niệm sám hối; khi chúng phải chịu đau                              đớn, phạm tội Việt tì ni; vì thế mà chúng chết, phạm                              Ba dạ đề. Ðó gọi là sông.                              Khi một Tỉ kheo                              khởi tâm sát hại cầm dao thì phạm tội Việt tì ni tâm                              niệm sám hối; khi chúng chịu đau đớn thì phạm tội                              Việt tì ni; vì thế mà chúng chết thì phạm Ba dạ đề.                              Nếu hai Tỉ kheo, nhiều Tỉ kheo thì cũng như vậy.                              Nếu Tỉ kheo vì                              muốn sát hại súc sinh, rồi đưa dao cho một người,                              hai người hay nhiều người khiến họ đi sát hại, thì                              cũng như vậy. Nếu người được sai lại sai chuyền                              người khác, cho đến nhiều người, thì khi đưa dao,                              phạm tội Việt tì ni tâm niệm sám hối; khi chúng chịu                              đau đớn phạm tội Việt tì ni; vì thế mà chúng chết,                              phạm Ba dạ đề.                              Các trường hợp                              thuốc, độc, thoa, mửa, ỉa, làm đọa thai, thì cũng                              như trường hợp dao đã nói rõ.                              Nếu Tỉ kheo sát                              hại sinh mạng của súc sinh mà hội đủ năm yếu tố sau                              thì phạm Ba dạ đề. Ðó là: 1. Súc sinh; 2. Tưởng đó                              là súc sinh; 3. Có tâm sát hại; 4. Khởi thân nghiệp;                              5. Mạng sống kết thúc. Ðó gọi là năm yếu tố. Thế nên                              nói (như trên).                                                                                        59. GIỚI: GÂY PHIỀN TOÁI TỈ-KHEO KHÁC.                              Khi Phật an trú                              tại thành Xá Vệ nói rọâng như trên. Bấy giờ nhóm sáu                              Tỉ kheo muốn cho nhóm mười sáu Tỉ kheo trẻ sinh nghi                              ngờ hối hận liền nói như sau: "Ðức Thế Tôn chế giới                              người đủ hai mươi tuổi mới cho thọ giới Cụ túc, các                              ngươi chưa đủ hai mươi tuổi mà thọ Cụ túc [378b] như                              thế không thể gọi là Thọ Cụ túc". Họ nghe nói thế                              liền khóc rống lên. Phật nghe tiếng khóc, biết mà                              vẫn hỏi (các Tỉ kheo):                              - Ðó là tiếng                              khóc của trẻ con nào thế?                              - Bạch Thế Tôn,                              nhóm sáu Tỉ kheo vì muốn cho nhóm mười sáu Tỉ kheo                              trẻ sinh nghi ngờ hối hận nên nói như sau: "Ðức Thế                              Tôn chế giới người đủ hai mươi tuổi mới cho thọ Cụ                              túc, các ngươi chưa đủ hai mươi tuổi mà thọ Cụ túc,                              thế là chẳng phải thọ Cụ túc". Vì họ nghe nói thế                              nên mới khóc lóc.                              - Ði gọi nhóm sáu                              Tỉ kheo đến.                               Khi họ đến rồi,                              Phật liền hỏi đầy đủ sự việc kể trên:                              - Các ông có việc                              đó chăng?                              - Có thật như vậy,                              bạch Thế Tôn.                              - Vì sao như thế?                              - Chúng con đùa                              cho vui vậy mà.                              - Này những kẻ                              ngu si! Ðó là việc ác, làm não loạn người phạm hạnh                              mà bảo là đùa cho vui. Các ông chớ khinh thường bọn                              họ. Nếu họ nhập định thì họ có thể dùng sức thần túc                              xách các ông ném vào một thế giới khác cho xem. Ðó                              là việc phi pháp, phi luật, trái lời Ta dạy, không                              thể dùng việc ấy để nuôi lớn thiện pháp được. Từ nay                              về sau, Ta không cho phép làm cho Tỉ kheo khác nghi                              ngờ, hối hận.                              Thế rồi, Phật                              truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá                              Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế                              giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe                              lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              cố ý làm cho Tỉ kheo khác nghi ngờ, hối hận, không                              vui trong giây lát, thì phạm Ba dạ đề.                              Giải thích:                              Tỉ kheo:                              Như trên đã nói.                              Cố ý:                              Trước hết tạo ra phương tiện.                              Nghi ngờ                              hối hận:                              Gồm có bảy việc: 1. Sinh; 2. Yết ma; 3. Hình tướng;                              4. Bệnh; 5. Tội; 6. Mạ lỵ; 7. Kiết sử.                              Ba dạ đề:                              Như trên đã nói.                              1. Sinh:                              Nói như sau: "Trưởng lão, đức Thế Tôn chế giới tuổi                              đủ hai mươi mới cho thọ giới Cụ túc, ông chưa đủ hai                              mươi mà thọ Cụ túc, như thế là không thành thọ Cụ                              túc". Nói như thế là nhằm làm cho người kia sinh                              nghi, thì dù người ấy có nghi hay không nghi, đều                              phạm Ba dạ đề. Ðó gọi là sinh.                              2. Yết ma:                              Nói như sau: "Trưởng lão, đức Thế Tôn chế giới một                              lần bạch ba lần yết ma, không có người ngăn cản yết                              ma (thì yết ma mới thành tựu); thế mà ông bạch không                              thành tựu, yết ma không thành tựu, chúng Tăng không                              thành tựu, tất cả đều không thành tựu; như vậy là                              chẳng phải thọ Cụ túc, không thể gọi là thọ Cụ túc".                              Nói như vậy là nhằm làm cho người kia sinh nghi ngờ                              hối hận, thì dù người ấy có nghi ngờ hối hận hay                              không, đều phạm Ba dạ đề. Ðó gọi là Yết ma.                              3. Hình                              tướng:                              Nói như sau: "Trưởng lão, đức Thế Tôn chế giới thân                              thể hoàn toàn, mới cho thọ Cụ túc; thế nhưng ông                              lưng cong, đi lệch đệch, mắt quáng gà, chân quẹo,                              đầu ngoẹo, răng khểnh, thân thể không đầy đủ mà thọ                              Cụ túc, như vậy không thể gọi là thọ Cụ túc". Nói                              như vậy là nhằm làm cho người ấy nghi ngờ hối hận,                              thì dù người ấy có nghi ngờ hối hận hay không đều                              phạm Ba dạ đề. Ðó gọi là hình tướng.                              4. Bệnh:                              Nói như sau: "Trưởng lão, đức Thế Tôn chế giới                              [378c] người không bệnh mới cho thọ Cụ túc; thế                              nhưng ông bị bệnh ghẻ lở, hoàng đãng, ung thư, bệnh                              trĩ, bị các bệnh như thế mà thọ Cụ túc, thì không                              thể gọi là thọ Cụ túc". Nói như thế là nhằm làm cho                              người ấy nghi ngờ hối hận, thì dù họ có nghi ngờ hối                              hận hay không, đều phạm Ba dạ đề. Ðó gọi là bệnh.                              5. Tội:                              Nói như sau: "Trưởng lão, đức Thế Tôn chế giới người                              thanh tịnh mới cho thọ Cụ túc, thế nhưng ông phạm                              tội Ba la di, Tăng già bà thi sa, Ba dạ đề, Ba la đề                              đề xá ni, Việt tì ni mà thọ Cụ túc thì không thể gọi                              là thọ Cụ túc". Nói như thế là nhằm làm cho người ấy                              nghi ngờ hối hận, thù dù họ có nghi ngờ hối hận hay                              không đều phạm Ba dạ đề. Ðó gọi là tội.                              6. Mạ lỵ:                              Nói như sau: "Trưởng lão, đức Thế Tôn chế giới người                              hoan hỉ mới cho thọ Cụ túc, thế nhưng, ông không                              hoan hỉ, giận dữ hay chửi mắng mà thọ Cụ túc, thì                              không thể gọi là thọ Cụ túc". Khi nói như vậy là                              nhằm làm cho người ấy nghi ngờ hối hận, thì dù họ có                              nghi ngờ hối hận hay không, đều phạm Ba dạ đề. Ðó                              gọi là mạ lỵ.                              7. Kiết sử:                              Nói như sau: "Trưởng lão, đức Thế Tôn chế giới người                              thông minh trí tuệ mới cho thọ Cụ túc, thế nhưng ông                              ngu si vô trí, giống như cục đất, như sừng dê, chim                              đỗ quyên, chim hồng hộc, mà thọ Cụ túc, thì không                              thể gọi là thọ Cụ túc". Nói như thế là nhằm làm cho                              người ấy nghi ngờ hối hận, thì dù họ có nghi ngờ hối                              hận hay không, đều phạm Ba dạ đề. Ðó gọi là kiết sử.                              Nếu có người đến                              muốn xin thọ Cụ túc mà đủ hai mươi tuổi, thì nên cho                              thọ Cụ túc. Nếu chưa đủ, thì nên nói: "Ông hãy đợi                              đủ hai mươi tuổi đã". Nếu ông ta thọ Cụ túc một chỗ                              khác thì không nên nói khiến ông nghi ngờ hối hận,                              nếu nói thì phạm tội Việt tì ni.                              Nếu Tỉ kheo (thấy                              người khác) lúc thọ Cụ túc mà làm yết ma không thành                              tựu, thì nên đưa tay lên nói: "Trưởng lão, phép yết                              ma của thầy không thành tựu". Nếu khi ấy không nói,                              thì sau đó không được nói để cho họ sinh nghi ngờ                              hối hận. Nếu nói: "Khi ông thọ Cụ túc, tác bạch                              không thành tựu, yết ma không thành tựu, Tăng không                              thành tựu", thì phạm tội Việt tì ni.                              Nếu có người mắt                              quáng gà, lưng còng, chân đi khập khiễng, thân thể                              không hoàn toàn mà đến xin thọ Cụ túc, thì nên bảo:                              "Hãy đợi đã". Nếu họ thọ Cụ túc từ chỗ khác rồi đến,                              thì không được nói khiến họ sinh nghi ngờ hối hận.                              Nếu nói thì phạm tội Việt tì ni.                              Nếu người bệnh                              đến xin thọ Cụ túc thì nên nói: "Hãy đợi đã". Nếu họ                              đã thọ Cụ túc từ nơi khác rồi đến thì không được nói                              khiến cho họ nghi ngờ hối hận. Nếu nói thì phạm tội                              Việt tì ni.                              Nếu làm cho Tỉ                              kheo nghi ngờ hối hận, thì phạm Ba dạ đề.                              (Nếu làm cho) Tỉ                              kheo ni (nghi ngờ hối hận) thì phạm Thâu lan giá.                              (Nếu làm cho)                              Thức xoa ma ni, Sa di, Sa di ni (nghi ngờ hối hận),                              thì phạm tội Việt tì ni.                              (Nếu làm cho)                              người thế tục (nghi ngờ hối hận), thì phạm tội Việt                              tì ni tâm niệm sám hối.                              [379a] Thế nên                              nói (như trên).                                                                                        60. GIỚI: Y CHO RỒI, LẤY LẠI MẶC.                              Khi Phật an trú                              tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, nhóm                              sáu Tỉ kheo thường thường thay y, trước bữa ăn mặc                              chiếc khác, sau bữa ăn lại mặc chiếc khác. Phật biết                              nhưng vẫn hỏi:                              - Ðó là những y                              nào vậy?                              - Ðó là y tịnh                              thí của con.                              - Vì sao y đã                              tịnh thí cho người ta mà không xả, còn làm thành ba                              y để sử dụng? Từ nay trở đi, Ta không cho phép y                              tịnh thí không xả mà sử dụng.                              Thế rồi, Phật                              truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá                              Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế                              giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe                              lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              đã cho y cho Tỉ kheo, Tỉ kheo ni, Thức xoa ma ni, Sa                              di, Sa di ni, sau đó không xả mà sử dụng, thì phạm                              Ba dạ đề.                              Giải thích:                              Tỉ kheo:                              Như trên đã nói.                              Cho:                              Ðã tịnh thí cho năm loại người.                              Không xả:                              Sau đó không xả bỏ.                              Sử dụng:                              Nếu làm ba y để sử dụng, thì phạm Ba dạ đề.                              Ba dạ đề:                              Như trên đã nói.                              Nếu Tỉ kheo có                              nhiều y mà quên không nhớ thì nên lấy hết tất cả y                              ấy để dồn một chỗ, rồi nói như sau để xả: "Những                              chiếc y Này tôi tịnh thí cho mỗ giáp, mỗ giáp sẽ để                              tôi tùy ý sử dụng; nay tôi xả tất cả". Nhưng nếu là                              ba y thì phải xả riêng từng cái, nói như sau: "Y                              Tăng già lê Này thuộc trong số ba y của tôi mà trước                              đây tôi sử dụng, nay tôi xả nó. Y Tăng già lê Này (một                              cái khác) thuộc trong số ba y của tôi, nay tôi sử                              dụng. Y Uất đa la tăng Này thuộc trong số ba y của                              tôi trước đây tôi sử dụng, nay tôi xả nó. Y Uất đa                              la tăng Này (một cái khác) thuộc trong số ba y của                              tôi, nay tôi sử dụng. Y An đà hội Này thuộc trong số                              ba y của tôi, trước đây tôi sử dụng, nay tôi xả nó.                              Y An đà hội Này (một cái khác) thuộc trong số ba y                              của tôi nay tôi sử dụng. Ðây là ba y của tôi, tôi                              luôn giữ gìn, ban đêm không rời chúng."                              Ngoài ra những                              tấm vải khác dài chừng hai khuỷu tay, rộng chừng một                              khuỷu tay trở lên đều phải tịnh thí tất cả. Phép                              tịnh thí nên nói như sau: "Thưa trưởng lão, đây là y                              dư của tôi, tôi xin tịnh thí cho mỗ giáp, mỗ giáp sẽ                              để tôi tùy ý sử dụng. Nếu gặp những dịp như giặt,                              nhuộm, vá y thì tôi sẽ sử dụng". Khi dùng xong, tịnh                              thí xong thì phải đem móc trên giá y, và hằng ngày                              thường phải ghi nhớ. Nếu quên, thì phải bảo đệ tử                              đồng hành, đệ tử y chỉ: "Ðây là ba y của ta, ngươi                              phải giúp ta để ghi nhớ hằng ngày". Nếu không có đệ                              tử thì nên viết chữ ở chéo y. Nếu tự thân đối diện                              tịnh thí mà không xả, lại sử dụng, thì phạm Ba dạ                              đề. Nếu không đối diện mà tự nói tịnh thí, rồi không                              xả mà sử dụng, thì phạm tội Việt tì ni. Nếu đối diện                              với người khác tịnh thí mà không xả, lại sử dụng,                              [379b] thì phạm Ba dạ đề.                              Lại nữa, (nếu có                              y dư) đem tịnh thí cho người khác mà không xả, lại                              sử dụng, thì phạm Ba dạ đề. Nếu không biết y (của                              mình) thì phạm tội Việt tì ni. Nếu không có ba y thì                              phạm tội Việt tì ni. Lúc thì xả, lúc thì dùng, phạm                              tội Việt tì ni. Nếu không xả mà đem làm ba y để sử                              dụng, thì phạm tội Ba dạ đề. Nếu không xả mà đem                              dùng cho việc của tháp, của Tăng rồi cho người khác,                              thì phạm tội Việt tì ni. Không nên đối diện nói tịnh                              thí mà nên nói tịnh thí gián tiếp với người khác.                              Thế nên nói (như trên).                                                                                        61. GIỚI: GIẤU VẬT DỤNG CỦA NGƯỜI KHÁC.                               Khi Phật an trú                              tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, nhóm                              sáu Tỉ kheo, trước bữa ăn, lấy Tăng già lê của người                              nọ, lấy bát của người kia đem giấu chỗ khác. Khi đến                              giờ khất thực, vị Tỉ kheo nọ định vào thôn xóm bèn                              tìm Tăng già lê, thì không có. Lại có một Tỉ kheo                              khác đi tìm bát cũng không có. Thầy Tỉ kheo mất y                              liền hỏi các Tỉ kheo: "Các trưởng lão, ai lấy Tăng                              già lê của tôi đi đâu rồi?". Người mất bát thì hỏi:                              "Ai lấy bát của tôi đi đâu rồi?". Lúc ấy, nhóm sáu                              Tỉ kheo liền cười, nói: "Trưởng lão, Tăng già lam                              Này rộng lớn, thầy hãy đi tìm xem". Thầy ấy liền đi                              tìm hồi lâu mà không có. Nhóm sáu Tỉ kheo liền nói:                              "Trưởng lão, cho tôi một vật gì đi, tôi sẽ tìm giúp                              cho ông". Nghe nói thế, thầy biết là ông ta đã lấy                              giấu. Sau khi ăn, họ lại giấu tọa cụ và ống đựng                              kim. Khi ăn xong, các Tỉ kheo muốn vào trong rừng                              ngồi thiền, đi tìm tọa cụ nhưng không có, bèn hỏi:                              "Trưởng lão, ai lấy tọa cụ của tôi đi đâu rồi?". Lại                              có Tỉ kheo khác cũng hỏi: "Ai lấy ống đựng kim của                              tôi đi đâu rồi?". Nhóm sáu Tỉ kheo bèn cười, nói:                              "Trưởng lão, Tăng già lam Này rộng lớn, thầy hãy đi                              tìm khắp nơi xem". Thầy ấy liền đi tìm hồi lâu mà                              không có. Nhóm sáu Tỉ kheo lại nói: "Ông cho tôi một                              vật gì tôi sẽ tìm giúp cho ông". Nghe nói thế, thầy                              biết là họ đã lấy giấu. Do đó, các Tỉ kheo bèn đem                              sự việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi                              nhóm sáu Tỉ kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi                              đầy đủ sự việc trên:                              - Các ông có việc                              đó thật chăng?                              - Có thật như                              vậy, bạch Thế Tôn.                              - Tại sao như                              vậy?                              - Ðể đùa cho vui                              vậy mà.                              - Này những kẻ                              ngu si, đó là việc ác, làm não loạn các bậc phạm                              hạnh mà bảo là đùa cho vui à? Ðó là việc phi pháp,                              phi luật, trái lời ta dạy, không thể dùng việc đó để                              nuôi lớn Thiện pháp được. Từ nay về sau, Ta không                              cho phép vì vui đùa mà cất giấu y, bát, tọa cụ, ống                              đựng kim của người khác.                              Thế rồi, Phật                              truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá                              Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế                              giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe                              lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              lấy giấu y bát, tọa cụ, ống đựng kim của người khác,                              dù là để vui đùa, thì phạm Ba dạ đề.                              Giải thích:                              Tỉ kheo:                              Như trên đã nói.                              Y:                              Gồm có bảy loại.                              Bát:                              Như bát bằng đất, bát bằng sắt, chúng được chia                              thành ba loại: thượng, trung và hạ.                              Tọa cụ:                              Như Thế Tôn đã cho phép dùng.                              Ống đựng                              kim:                              Trong ống có kim.                              [379c]                              Giấu: Hoặc tự mình giấu, hoặc bảo người khác                              giấu, dù là để vui đùa, đều phạm Ba dạ đề.                              Ba dạ đề:                              Như trên đã nói.                              Trong ba y, nếu                              giấu một y nào đó, thì phạm Ba dạ đề. Nếu giấu tăng                              kì chi và các y khác thì phạm tội Việt tì ni.                              Trong ba loại                              bát, nếu giấu một cái nào đó, thì phạm Ba dạ đề. Nếu                              giấu bát nhỏ, hoặc đồ đựng khác, thì phạm Việt tì                              ni.                              Nếu giấu tọa cụ                              thì phạm Ba dạ đề. Nếu giấu những vật trải ngồi                              khác, thì phạm tội Việt tì ni.                              Trong trường hợp                              giấu ống đựng kim mà có kim trong đó, thì phạm Ba dạ                              đề. Nếu không có kim, thì phạm tội Việt tì ni. Nếu                              có kim, chỉ thì phạm Ba dạ đề. Nếu không có kim, chỉ                              thì phạm tội Việt tì ni. Nếu có kim chỉ, nhưng mở                              chỉ ra lấy giấu thì phạm tội Việt tì ni.                              Nếu vì đùa vui mà                              giấu y của Tỉ kheo thì phạm Ba dạ đề; giấu y của Tỉ                              kheo ni thì phạm Thâu lan giá; giấu y của Thức xoa                              ma ni, Sa di, Sa di ni thì phạm tội Việt tì ni. Sau                              cùng, nếu giấu y của người thế tục thì phạm tội Việt                              tì ni tâm niệm sám hối. Thế nên nói (như trên).                                                                                        62. GIỚI: HÙ NHÁT TỈ-KHEO KHÁC.                              Khi Phật an trú                              tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, nhóm                              sáu Tỉ kheo từ trong thiền phòng đứng dậy đi đến một                              chỗ khuất đứng núp, rồi vểnh tai, nhăn mặt, trợn                              mắt, le lưỡi, giả tiếng kêu âu âu nhát nhóm mười sáu                              Tỉ kheo trẻ. Nhóm mười sáu Tỉ kheo trẻ nghe thế kinh                              hãi cất tiếng khóc thét lên. Phật biết nhưng vẫn hỏi                              (các Tỉ kheo): "Ðó là tiếng khóc của trẻ con nào                              thế?". Các Tỉ kheo bèn đem sự việc trên bạch đầy đủ                              lên Thế Tôn. Phật liền bảo đi gọi nhóm sáu Tỉ kheo                              đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi:                              - Các ông có việc                              đó thật chăng?                              - Có thật như                              vậy, bạch Thế Tôn.                              - Vì sao như vậy?                              - Vì muốn đùa cho                              vui.                              - Này những kẻ                              ngu si, đó là việc ác; làm não loạn bậc phạm hạnh mà                              bảo là đùa cho vui. Các ông chớ khinh thường bọn họ.                              Nếu họ nhập thiền định thì họ có thể dùng thần lực                              xách các ông ném vào một thế giới khác đấy. Ðó là                              việc phi pháp, phi luật, trái lời Ta dạy, không thể                              dùng việc đó để nuôi lớn thiện pháp được.                              Thế rồi, Phật                              truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá                              Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế                              giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe                              lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              khủng bố Tỉ kheo khác thì phạm Ba dạ đề.                              Giải thích:                              Tỉ kheo:                              Như trên đã nói.                              Khủng bố:                              Nếu dùng sắc, thanh, hương, xúc (để khủng bố) thì                              phạm Ba dạ đề.                              Ba dạ đề:                              Như trên đã nói.                              1. Sắc:                              Nếu đứng núp tại chỗ tối, vểnh tai, nhăn mặt, trợn                              mắt, le lưỡi cho đến cong một ngón tay, kêu tiếng âu                              âu để hù nhát thì dù người kia có sợ hay không sợ,                              đều phạm Ba dạ đề. Ðó gọi là sắc (dùng tướng trạng)                              2. Thanh:                              Nếu dùng các thứ tiếng như tiếng voi, tiếng ngựa,                              tiếng lừa, hoặc kêu một hơi dài, hoặc chợt kêu, chợt                              nín, cho đến [380a] kêu tiếng vo ve để hù nhát, thì                              dù người kia có sợ hay không sợ đều phạm Ba dạ đề.                              Ðó gọi là thanh (dùng tiếng kêu).                              3. Hương:                              Nếu nói: "Trưởng lão, trong đó có hơi của rắn, hơi                              của Phú đơn na, hơi của bò cạp", dùng các hình thức                              như vậy nói để hù nhát người kia, thì dù người ấy có                              sợ hay không sợ đều phạm Ba dạ đề. Ðó gọi là hương                              (hơi).                              4. Xúc:                              Gồm có các thứ: nóng, lạnh, nhẹ, nặng, trơn, nhám.                              - Nóng: Nếu dùng                              lửa hoặc ánh nắng mặt trời hơ nóng y, bát, tô, ổ                              khóa rồi đem áp vào thân người kia, nói như sau:                              "Trưởng lão, lửa cháy, lửa cháy", làm như vậy khiến                              cho người kia sợ, thì dù họ có sợ hay không, đều                              phạm Ba dạ đề. Ðó gọi là nóng.                              - Lạnh: Nếu dùng                              quạt, dùng y mà quạt, hoặc rưới nước, rồi nói:                              "Trưởng lão, mưa tuyết, mưa tuyết", làm như vậy để                              hù nhát người kia, thì dù người ấy có sợ hay không,                              đều phạm Ba dạ đề. Ðó gọi là lạnh.                              - Nặng: Nếu dùng                              gốc cây nặng hoặc cán cờ đè lên người kia rồi nói                              như sau: "Trưởng lão, tường ngã, tường ngã"; làm như                              vậy để khủng bố người kia, thì dù họ có sợ hay                              không, đều phạm Ba dạ đề. Ðó gọi là nặng.                              - Nhẹ: Nếu dùng                              những cái y mỏng nhẹ trùm lên người kia, nói như                              sau: "Trưởng lão, mây rơi, mây rơi"; làm như vậy để                              khủng bố người kia, thì dù họ có sợ hay không đều                              phạm Ba dạ đề. Ðó gọi là nhẹ.                              - Trơn: Nếu dùng                              cộng hoa súng, cộng hoa Câu mâu đầu, cộng hoa tu                              kiền đề, hoặc cái then cửa chạm vào thân người kia,                              rồi nói như sau: "Trưởng lão, con rắn, con rắn", để                              khủng bố người ấy, thì dù họ có sợ hay không, đều                              phạm Ba dạ đề. Ðó gọi là trơn.                              - Nhám: Nếu dùng                              cộng hoa ưu đầu ma, cộng hoa phân đà lợi chạm vào                              thân người kia, rồi nói như sau: "Trưởng lão, đây là                              con rít", nhằm khủng bố người ấy, thì dù họ có sợ                              hay không, đều phạm Ba dạ đề. Ðó gọi là nhám.                              Nếu khủng bố Tỉ                              kheo thì phạm Ba dạ đề; khủng bố Tỉ kheo ni thì phạm                              Thâu lan giá; khủng bố Thức xoa ma ni, Sa di, Sa di                              ni thì phạm tội Việt tì ni. Sau cùng, nếu khủng bố                              người thế tục thì phạm tội Việt tì ni tâm niệm sám                              hối. Thế nên nói (như trên).                                                                                        63. GIỚI: ÐÙA GIỠN TRONG NƯỚC.                              Khi Phật an trú                              tại thành Xá Vệ, được chư thiên và người đời cúng                              dường rất nhiều phẩm vật. Bấy giờ, trong thành Xá Vệ                              có hai chị em người kia, (một người) đang mang thai                              mà chưa sinh, vì có lòng tin nên xuất gia tu hành.                              Các Tỉ kheo ni trông thấy tướng bụng của cô như thế,                              liền đuổi đi, rồi đem sự kiện ấy đến bạch lên Thế                              Tôn. Phật dạy rằng mang thai ở nhà thì không có tội.                              Thế rồi, Tỉ kheo ni Này sau đó sinh một bé trai, bèn                              đặt tên là Ðồng Tử Ca Diếp. Ðến năm tám tuổi, cậu bé                              ấy xuất gia tu hành, thành A la hán. Rồi ông cùng                              với nhóm mười sáu Tỉ kheo mỗi người đều mang thau                              tắm ra sông A kì la xuống nước tắm. Họ nằm sấp, nằm                              ngửa, bơi qua, bơi lại đùa giỡn [380b], tát nước mà                              tắm.                               Khi ấy, vua Ba Tư                              Nặc đang đứng trên lầu nhìn xem bốn phương, thấy sự                              việc như thế càng sinh bất tín, vì lúc này vua chưa                              tin Phật pháp, liền nói với phu nhân Mạt lợi: "Hãy                              xem phước điền mà ái khanh phụng sự kia kìa". Vì phu                              nhân thâm tín không nghi, nên không ngoái đầu lại                              xem, liền đáp: "Tâu Ðại vương, có lẽ là họ xuất gia                              còn trẻ, mới thọ Cụ túc nên chưa am tường giới luật,                              hoặc là đức Thế Tôn chưa chế giới ấy, nên mới như                              thế". Vua bèn nói với phu nhân: "Ví như khi gia                              trưởng nói thì quyến thuộc phải nghe theo; khi Hòa                              thượng A xà lê nói thì đệ tử nghe theo; khi Sa môn                              Cù đàm nói thì đệ tử đều đáp: "Như vậy đó Thế Tôn,                              như vậy đó Thiện Thệ". Thế mà trẫm nói với khanh,                              khanh không ngoái lại xem". Lúc ấy, tôn giả Ðồng Tử                              Ca Diếp đang nhập vào mức chót của Thiền thứ tư,                              dùng Thiên nhĩ nghe được tiếng nói của nhà vua, liền                              bảo các Tỉ kheo bạn: "Các trưởng lão, vua đang sinh                              tâm bất tín và phu nhân Mạt Lợi thì lòng không vui,                              giờ đây chúng ta hãy làm cho họ phát tâm hoan hỉ".                              Thế rồi, tất cả đều nói: "Lành thay", rồi mỗi người                              đều dùng thau múc đầy thau nước để trước mặt sắp                              hàng ngồi kiết già đi trên hư không ngang qua trên                              điện của vua. Bấy giờ, phu nhân Mạt Lợi đang ngồi                              ngoài trời, thấy bóng của họ chiếu xuống, liền ngước                              lên xem, trông thấy họ đang ngồi kiết già theo thứ                              tự, trước mặt đều đặt thau nước tắm mà đi trên hư                              không, giống như đàn nhạn chúa, khiến tâm bà rất                              hoan hỉ, liền tâu với vua: "Ðại vương hãy xem, phước                              điền của nhà thiếp thần đức như thế đó". Vua thấy                              thế rồi, lòng rất hoan hỉ, liền nói: "Lành thay!                              Trẫm được Thiện lợi, mong Thế Tôn cùng các Tỉ kheo                              sống suốt đời trong nước của trẫm, để làm phước điền                              tốt nhất".                              Các Tỉ kheo vì                              trước đó nghe vua nhạo báng, nên đem nhân duyên ấy                              đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo đi gọi nhóm mười                              sáu Tỉ kheo đến. Khi họ đến rồi, Phật liền hỏi đầy                              đủ sự việc trên:                              - Các ông có việc                              đó thật không?                              - Có thật như                              vậy, bạch Thế Tôn.                              - Nay Ta phạt các                              ngươi; nhân việc các ngươi Ta phải chế giới cho các                              Tỉ kheo.                              Thế rồi, Phật                              truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá                              Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế                              giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe                              lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              đùa giỡn trong nước thì phạm Ba dạ đề.                              Giải thích:                              Tỉ kheo:                              Như trên đã nói.                              Nước:                              Gồm có mười loại.                              Ðùa giỡn:                              Nếu nhảy, lội, bơi qua lại, lặn xuống, trồi lên,                              quạt nước, tạt nước, xối nước thì phạm Ba dạ đề.                              Ba dạ đề:                              Như trên đã nói.                              - Nhảy:                              Vì đùa giỡn mà nhảy xuống nước thì phạm Ba-dạ-đề.                              Nhưng nếu đi trên bờ mà bị ngã xuống nước, hay đi                              trên thuyền mà va nhằm cây đá trên bờ [380c] bị rơi                              xuống nước thì không có tội. Ðó gọi là nhảy.                              - Lội:                              Nếu vì đùa giỡn mà lội nước thì phạm Ba dạ đề. Nhưng                              nếu đang đi đường phải lội nước, hoặc kéo vật gì qua                              sông, hoặc có công việc của Tăng, của tháp ở bên kia                              bờ nên phải thường qua lại để giải quyết, hoặc vì                              muốn tập bơi (mà lội nước) thì không có tội.                              - Bơi qua                              lại:                              Nếu vì đùa giỡn mà bơi qua lại dưới nước thì phạm Ba                              dạ đề. Nhưng nếu vì để quên vật gì ở bên kia bờ mà                              phải bơi qua để lấy, thì không có tội.                              - Lặn                              xuống:                              Nếu vì đùa giớn mà lặn xuống nước thì phạm Ba dạ đề.                              Nhưng nếu bát, tô chén, ống đựng kim, các vật khác                              bị rơi xuống nước nên phải lặn xuống lấy, thì không                              có tội. Hoặc vì tắm rửa mà phải lặn trong nước, thì                              không có tội.                              - Trồi lên:                              Nếu vì đùa giớn mà xuống nước rồi trồi lên khỏi nước                              thì phạm Ba dạ đề. Nhưng nếu lấy vật thì không có                              tội.                              - Quạt                              nước:                              Nếu vì đùa giỡn mà quạt nước thì phạm Ba dạ đề.                              Nhưng nếu nước ở trên mặt nóng, muốn lấy nước mát                              nên phải quạt nước ở trên để lấy nước ở dưới, thì                              không có tội.                              - Tạt nước:                              Nếu vì đùa giỡn mà tạt nước thì phạm Ba dạ đề. Nhưng                              nếu trên mặt nước có lăng quăng nên phát, tạt nước                              để chúng lặn xuống mà lấy nước không có trùng, thì                              không có tội.                              - Xối nước:                              Nếu vì đùa giỡn mà lấy nươc từ dưới sông đổ lên bờ                              thì phạm tội Việt tì ni. Hoặc đổ nước từ trên bờ                              xuống sông cũng phạm tội Việt tì ni. Nhưng nếu lấy                              nước dưới sông đổ lại xuống sông thì phạm Ba dạ đề.                              Nếu lấy nước từ trên đất đổ xuống đất, thì phạm tội                              Việt tì ni. Nếu Tỉ kheo bị cảm gió, lể đầu lấy máu                              khiến bị hôn mê, hoặc bị bệnh nhiệt mà hôn mê nên                              phải dùng nước lạnh rưới lên đầu thì không có tội.                              Nếu trên thức ăn của Tỉ kheo bị Sa di quấy phá (viết                              bậy bạ), sợ người thế tục sinh tâm bất tín, nên thầy                              tri sự lấy nước xối đi, thì không có tội. Ðó gọi là                              xối nước.                              Nếu khi tắm cho                              Hòa thượng, A xà lê mà lấy nước vẽ trên lưng các                              ngài thì phạm tội Việt tì ni.                              Nếu vì đùa giỡn                              mà viết chữ trên bát, tô, chén dùng đựng thức ăn của                              Tỉ kheo thì phạm tội Việt tì ni.                              Nếu khi rửa chân                              mà dùng nước vẽ lên cây hay trên ang, trên thạp, thì                              cứ mỗi chỗ vẽ phạm mỗi tội Việt tì ni.                              Nếu dùng ngón tay                              búng trong nước thành tiếng thì phạm tội Việt tì ni.                              Nếu lấy nước vung                              lên trên không rồi đưa tay hứng lấy, thì phạm tội                              Việt tì ni. Thế nên nói (như trên).                                                                                        64. GIỚI: CHỈ CHỎ LẪN NHAU.                              Khi Phật an trú                              tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, vào các                              ngày chay mồng tám, 14, 15, Tỉ kheo đi đến chỗ Phật,                              cúi đầu đảnh lễ thăm hỏi. Lúc ấy, nhóm mười sáu Tỉ                              kheo đang ngồi tại một chỗ cách Phật không xa, nên                              Tỉ kheo ni Ưu Bát La và Sa di ni Chi Lê cũng đến                              đảnh lễ thăm hỏi họ. Thế rồi, vì tuổi trẻ thích vui                              nên các cô lại ngồi gần chỗ các Tỉ kheo, nhưng do                              ngồi không ngay ngắn, các Tỉ kheo thấy thế [381a]                              bèn chỉ chỏ nhau mà cười. Ngay khi ấy có một Bà la                              môn xấu xí lưng gù, chân quẹo dẫn theo cô vợ trẻ,                              thấy các Tỉ kheo cười, liền suy nghĩ: "Chắc là các                              Tỉ kheo Này thấy ta xấu xí mà dẫn theo một bà vợ                              đoan chánh nên cười ta chớ gì!", bèn nổi giận, nói:                              "Các Sa môn Thích tử không biết phép tắc nên dựa vào                              hình tướng mà cười ta". Các Tỉ kheo liền đáp: "Chúng                              tôi không cười ông". Bà la môn nói: "Không phải thế,                              chính là đang cười tôi". Nói thế xong, ông liền đi                              đến chỗ Phật, nói như sau: "Kỳ thay Cù đàm, Sa môn                              Thích tử không biết phép tắc, thấy tôi xấu xí mà dẫn                              theo một người vợ đoan chính nên dựa vào hình tướng                              mà cười tôi". Phật bèn tùy thuận thuyết pháp cho ông                              Bà la môn, chỉ cho những điều lợi ích, vui vẻ, khiến                              ông hoan hỉ mà ra đi. Khi ông đi rồi, Phật liền bảo                              gọi nhóm mười sáu Tỉ kheo đến. Lúc họ tới, Phật bèn                              hỏi:                              - Có người Bà la                              môn rất xấu xí mà dẫn theo một người vợ đoan chính,                              các ông thấy thế nên cười họ phải không?                              - Bạch Thế Tôn,                              chúng con không cười ông Bà la môn.                              - Vậy thì các ông                              cười ai?                              - Bạch Thế Tôn,                              vào ngày chay, Tỉ kheo ni Ưu Bát La và Sa di ni Chi                              lê đến chỗ chúng con, rồi ngồi không đoan chính,                              chúng con thấy thế chỉ cho nhau xem, do thế mà cười                              vậy.                              - Các cô Ni ngồi                              không đoan chánh thì các ông phải dùng phương tiện                              làm cho họ đứng dậy, chứ sao lại cười? Nay Ta phạt                              các ông; nhân việc Này mà ta chế giới cho các đệ tử.                              Thế rồi, Phật                              truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá                              Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế                              giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe                              lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              dùng ngón tay chỉ chỏ nhau thì phạm Ba dạ đề.                              Giải thích:                              Tỉ kheo:                              Như trên đã nói.                              Nếu dùng một ngón                              tay chỉ thì phạm Ba dạ đề; cho đến dùng năm ngón mà                              chỉ thì cũng như vậy; hoặc dùng tất cả ngón tay cũng                              phạm Ba dạ đề. Nếu dùng nắm tay chỉ thì phạm Thâu                              lan giá. Nếu dùng khúc cây, cành tre chỉ thì phạm                              tội Việt tì ni. Nếu Tỉ kheo cãi lộn rồi dùng tay chỉ                              nhau thì phạm Ba dạ đề.                              Nếu Tỉ kheo trực                              nguyệt (được phân công làm việc trong tháng), hoặc                              làm tri sự, sai người ta dọn cơm, dùng ngón tay chỉ                              nói: "Mỗ giáp, hãy đi dọn cơm", thì phạm Ba dạ đề.                              Nếu cầm cành tre hoặc khúc cây chỉ, thì phạm tội                              Việt tì ni; chỉ nên nói: "Mỗ giáp, hãy đi dọn cơm."                              Nếu Sa di nằm                              ngủ, muốn gọi dậy, thì nên khảy móng tay mà gọi. Nếu                              không dậy, thì nên dùng ngón tay nắm áo kéo cho thức                              dậy.                              Nếu các Tỉ kheo                              ngồi tại nhà thế tục, có Tỉ kheo ngớ ngẩn ngồi không                              ngay ngắn thì nên nói: "Ông hãy ngồi cho ngay ngắn".                              Nếu ông ta không hay thì nên nói: "Hãy sửa lại y                              phục ông cho ngay ngắn". Nếu cũng không hay nữa thì                              nên bảo: "Này kẻ ngớ ngẩn hãy che kín thân thể của                              ông".                              Nếu Tỉ kheo đến                              ngồi tại tinh xá của Tỉ kheo ni, Tỉ kheo ni đảnh lễ                              chân Tỉ kheo, rồi ngồi trước Tỉ kheo mà không ngay                              ngắn, [381b] thì không nên nhắc nhở làm cho họ hổ                              thẹn, mà nên bày phương tiện bảo họ đứng dậy đi lấy                              vật gì.                              Nếu Tỉ kheo ngồi                              tại nhà đàn việt, phụ nữ đến đảnh lễ chân Tỉ kheo,                              rồi ngồi trước Tỉ kheo mà không ngay ngắn, thì không                              nên nói làm cho họ xấu hổ, mà nên dùng phương tiện                              sai họ đi lấy một vật gì.                              Nếu dâm nữ đến                              bỡn cợt để thử thách Tỉ kheo nên ngồi không đoan                              chánh, thì không nên nói mà chỉ nên lánh đi. Thế nên                              nói (như trên).                                                           65. GIỚI: HẸN ÐI CHUNG                              ÐƯỜNG VỚI NGƯỜI NỮ. Khi Phật an trú                              tại Tì xá li, nói rộng như trên. Bấy giờ, có một                              người kia, nhân bà vợ làm điều gì đó phật ý ông nên                              ông nổi giận cực độ, đánh một trận, rồi bỏ đi. Bà vợ                              suy nghĩ: "Ông ấy chưa nguôi giận, nếu đánh một trận                              nữa, e ta chết mất. Giờ đây ta nên chạy trốn", liền                              chạy ra khỏi cửa, bỗng trông thấy một Tỉ kheo vừa                              khất thực xong, định ra khỏi thành, bà liền hỏi:                               - Thầy định đi                              đâu vậy?                              - Ði ra khỏi                              thành.                              - Con muốn đi                              theo thầy.                              - Này chị, đây là                              con đường của vua, hà tất phải hỏi.                              Thế là cô ta bèn                              đi theo sau thầy. Sau lúc đánh vợ, ông chồng suy                              nghĩ: "Vợ ta bị đòn, e rằng cô ta chạy trốn chăng?",                              liền vào phòng tìm, thì không thấy vợ, bèn hỏi người                              khác: "Bà ấy đi đâu rồi?". Họ đáp: "Vừa mới đi ra,                              theo con đường Này Này". Ông liền đuổi theo sau,                              bỗng trông thấy bà đang theo sau Tỉ kheo, nên nổi                              trận lôi đình, mắng rằng: "Kẻ Sa môn tệ ác, dám dụ                              dỗ vợ ta đi", bèn tóm lấy Tỉ kheo đánh cho một trận                              nên thân, rồi dẫn lên chỗ quan xử kiện, nói như sau:                              "Ông Tỉ kheo Này dụ dỗ vợ tôi theo". Viên quan xử                              kiện nói: "Hãy đem bọn họ lại đây để ta hỏi rõ thực                              hư". Thế rồi, ông liền hỏi Tỉ kheo: "Ông là người                              xuất gia vì sao lại dẫn vợ người ta đi?"                              - Không phải vậy.                              - Thế thì vì sao                              bà ấy đi theo?                              - Tôi vừa khất                              thực xong định ra khỏi thành, thì người đàn bà ấy                              hỏi tôi định đi đâu, tôi đáp: "Ðịnh rời khỏi thành".                              Bà ta nói: "Con cũng muốn đi theo ra khỏi thành".                              Tôi đáp: "Này chị, đây là con đường của vua, hà tất                              chị phải hỏi". Sự thật là như vậy.                              Viên quan xử kiện                              liền bảo (quân lính): "Ðem Tỉ kheo Này đi, gọi bà                              kia đến". Rồi ông hỏi: "Ông Sa môn ấy bắt ngươi đi                              chăng?"                              - Không phải vậy.                              - Thế thì vì sao                              cùng đi với nhau?                              - Vì tôi bị chồng                              đánh, mà ông ta chưa nguôi giận, tôi sợ ông đánh một                              lần nữa e sẽ vong mạng, cho nên tôi bỏ chạy, bỗng                              thấy thầy Tỉ kheo, tôi liền hỏi: "Tôn giả đi đâu                              đó?". Thầy đáp: "Tôi định ra khỏi thành". Tôi nói                              tôi muốn đi theo thầy, thầy bảo: "Ðây là con đường                              của vua, cần gì phải hỏi". Sự thật là như vậy, chứ                              không phải ông ấy bắt tôi.                              Viên quan liền                              bảo bà ấy đi ra, rồi gọi Tỉ kheo vào hỏi: "Ông là                              người xuất gia, vì sao bắt vợ người ta đi mà còn nói                              dối để mong được thoát tội? Vừa rồi người đàn bà ấy                              nói [381c] rằng chính ông bắt đi, vì sao ông lại nói                              không?".                              Thầy Tỉ kheo đáp:                              "Không phải vậy". Viên quan liền hỏi lần nữa, thì                              thầy cũng đáp giống y như lần đầu, nên ông bèn bảo                              Tỉ kheo đi ra, rồi gọi người đàn bà kia vào, hỏi:                              "Người đàn bà tồi tệ đáng chết kia, bỏ chồng trốn                              chạy nói dối gạt quan để mong được khỏi tội sao? Vừa                              rồi Tỉ kheo bảo là có bắt ngươi thật, vì sao ngươi                              nói là không?". Ðáp: "Quả thật không phải như vậy".                              Quan hỏi như vậy ba lần mà lời đáp của bà ấy vẫn như                              lúc đầu; do thế, quan giữ người phụ nữ ấy lại, rồi                              gọi Tỉ kheo đến để xét nghiệm tình trạng, quan sát                              sắc diện hầu biết rõ thực hư, thì thấy lời đáp của                              thầy vẫn như lúc đầu. Quan lại hỏi Tỉ kheo: "Bát của                              ông tại sao bị vỡ?".                               - Vì bị vỡ.                               - Y vì sao bị                              rách nát?                               - Vì bị rách.                               - Cùi chỏ đầu gối                              vì sao bị xây xát?.                               - Vì bị thương.                              Bà vợ còn giận                              chồng chưa nguôi, thương Tỉ kheo phải chịu khổ như                              vậy mà không tố cáo với quan, liền nói rõ đầøu đuôi                              sự việc với quan. Quan nghe biết sự tình, cực kỳ tức                              giận, nói với ông chồng: "Tên tội phạm tệ ác kia,                              ngươi tưởng rằng ngoài vua ra không còn ai nữa                              sao?", liền truyền lệnh cho viên quan thuộc hạ giải                              quyết việc của Tỉ kheo, cấp phát thuốc men và y bát                              cho thầy, rồi bắt ông chồng kia hạ ngục, tịch thu                              tài sản sung vào quốc khố.                              Các Tỉ kheo bèn                              đem sự việc ấy bạch lên Thế Tôn. Phật liền nói với                              các Tỉ kheo: "Mong sao tất cả các ông vua đều có                              được tín tâm như thế! Trường hợp Này không kỳ hẹn                              với người ta mà còn bị tai họa như vậy, huống gì là                              hẹn hò cùng đi với nhau. Từ nay về sau ta không cho                              phép Tỉ kheo hẹn hò cùng đi chung đường với phụ nữ".                              Thế rồi, Phật truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống                              tại Tì xá li phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi                              ích mà chế giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng                              phải nghe lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              hẹn hò cùng đi chung đường với phụ nữ, thậm chí đi                              trong phạm vi một xóm làng, thì phạm Ba dạ đề.                              Giải thích:                              Tỉ kheo:                              Như trên đã nói.                              Phụ nữ:                              Hoặc là mẹ, hoặc là chị, em, hoặc là người lớn, trẻ                              con, hoặc tại gia, xuất gia.                              Cùng hẹn                              hò:                              Hoặc hẹn hôm nay, hoặc ngày mai, nửa tháng, một                              tháng...                              Ðường:                              Hoặc ba do diên, hai do diên, một do diên, nửa do                              diên; hoặc một Câu lô xá, nửa Câu lô xá, cho đến                              khoảng trong một xóm làng, thì phạm Ba dạ đề.                              Ba dạ đề:                              Như trên đã nói.                              Nếu Tỉ kheo hẹn                              hò cùng đi chung đường với phụ nữ trải qua những                              khoảng cách mỗi xóm làng thì phạm các tội Ba dạ đề.                              Nếu đi qua đi lại, thì mỗi lần đi phạm mỗi tội Ba dạ                              đề. Ngoài ra, giống như trong phần Bạt cừ thứ ba                              thuộc 92 giới, cùng hẹn hò đi chung đường với Tỉ                              kheo ni đã nói rõ. Ở đây chỉ khác nhau là đi với phụ                              nữ mà thôi. Thế nên nói (như trên).                                                                                        66. GIỚI: NGỦ CHUNG MỘT NHÀ VỚI NGƯỜI NỮ.                              Khi Phật an trú                              tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, tôn giả                              A na luật an cư mùa hạ tại núi tháp vừa xong, trở về                              thành Xá Vệ để hầu thăm vấn an Thế Tôn. [382a] Trên                              đường đi gặp lúc hoàng hôn nên thầy muốn vào thôn                              xóm để tìm chỗ nghỉ ngơi. Lúc ấy, trong thôn có một                              bà mẹ dẫn một cô con gái định ra khỏi thôn đểà lấy                              nước, thì gặp nhau giữa đường. Cô gái thấy Tỉ kheo                              diện mạo đoan chính, oai nghi tề chỉnh, liền sinh                              dục tưởng. Thầy vào làng đi tìm chỗ nghỉ khắp nơi mà                              không được, liền suy nghĩ: "Ta hãy ra ngoài thôn tìm                              một gốc cây mà nghỉ ", bèn trở ra, thì gặp lại mẹ                              con bà kia. Khi ấy cô gái hỏi mẹ: "Vị Sa môn Này đi                              đâu trong đêm tối vậy?".                               Mẹ đáp: "Không                              biết".                               Cô gái nói: "Vậy                              mẹ hãy hỏi thử xem".                               Bà mẹ liền hỏi:                              "Sa môn lầm lũi ra khỏi thôn trong đêm tối định đi                              đâu vậy?".                               Ðáp: "Tôi vào                              trong thôn tìm chỗ nghỉ mà không được nên định trở                              ra nghỉ dưới gốc cây".                               Cô gái liền bảo                              mẹ: "Nên đem ông về nhà cho ông nghỉ tạm".                               Bà mẹ liền nói:                              "Sa môn hãy theo tôi về nhà tôi sẽ cho nghỉ nhờ qua                              đêm". Tỉ kheo bèn theo bà về nhà, bà liền chỉ một                              căn phòng và nói: "Sa môn, ông có thể nghỉ trong                              phòng Này". Thầy Tỉ kheo liền trải nệm cỏ, ngồi kiết                              già. Mẹ con bà ăn xong bèn vào phòng ngủ. Tỉ kheo vì                              đi đường mệt nhọc nên nằm xuống nghỉ ngơi. Cô gái                              chờ mẹ ngủ say bèn từ từ lén đến chỗ Tỉ kheo, nắm                              kéo nệm cỏ. Tỉ kheo hay được bèn trở dậy ngồi ngay                              ngắn. Vì phụ nữ tính rụt rè nên cô ta liền bỏ đi.                              Khi cô đi rồi, Tỉ kheo bèn nằm trở lại. Nhưng trong                              chốc lát, cô ta lại đến. Như Thế Tôn đã dạy, có năm                              loại người ban đêm phần nhiều không ngủ được. Năm                              hạng người đó là:                               1. Phụ nữ khởi                              dục tưởng, nhớ đến nam nhi, nên ban đêm phần nhiều                              không ngủ được;   Cô gái này cũng                              không ngủ được, liền lén đứng dậy đi đến kéo tấm nệm                              cỏ của Tỉ kheo. Tỉ kheo hay được, liền trở dậy ngồi                              ngay ngắn cho đến sáng. Hôm sau, thầy liền đi đến                              chỗ Phật. Từ xa trông thấy thầy, Phật biết mà vẫn                              hỏi: "Ai quấy nhiễu xúc phạm ông mà mặt mày không                              vui thế?".                               Thầy bèn đem sự                              việc trên bạch đầy đủ lên Thế Tôn. Phật liền truyền                              lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải                              tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho                              các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              ngủ chung một nhà với phụ nữ thì phạm Ba dạ đề.                              Giải thích:                              (Một số từ ngữ                              trên đã giải thích).                              Nhà:                              Cùng có trên một mái che, trong một vách tường.                              Nghỉ:                              Nếu cùng nằm ngủ thì phạm Ba dạ đề.                              Ba dạ đề:                              Như trên đã nói.                              Nếu cùng một                              phòng mà có cửa riêng biệt thì không có tội. [382b]                              Nhưng nếu khác phòng mà không có ngăn cách thì phạm                              Ba dạ đề. Cùng phòng, có cách biệt cũng phạm Ba dạ                              đề. Nếu cùng phòng mà khác cửa thì không có tội.                              Trên có lợp và có tường bao quanh thì phạm Ba dạ đề.                              Trên có lợp mà xung quanh che một nửa thì phạm tội                              Việt tì ni. Nếu trên có lợp mà không có ngăn xung                              quanh thì không có tội. Nếu có ngăn xung quanh và có                              che ở trên thì phạm Ba dạ đề. Nếu có ngăn xung quanh                              và trên che một nửa thì phạm tội Việt tì ni. Nếu có                              ngăn xung quanh mà trên không che, thì không có tội.                              Nếu Tỉ kheo cùng                              với phụ nữ ở trong ngôi nhà, thì phạm Ba dạ đề. Nếu                              Tỉ kheo ở trong nhà còn phụ nữ nằm nửa thân trong                              nhà, thì phạm tội Việt tì ni. Nếu Tỉ kheo ở trong                              nhà, phụ nữ ở ngoài nhà, thì không có tội.                              Nếu phụ nữ cùng                              với Tỉ kheo ở trong nhà, thì phạm Ba dạ đề. Nếu phụ                              nữ ở trong nhà, Tỉ kheo nằm nửa thân mình ở trong                              nhà (nửa thân ở ngoài), thì phạm tội Việt tì ni. Nếu                              phụ nữ ở trong nhà, Tỉ kheo ở ngoài nhà thì không có                              tội.                              Nếu vào các ngày                              lễ Phật đản sinh, ngày Phật thành đạo, ngày kỷ niệm                              Chuyển pháp luân, kỷ niệm La vân, kỷ niệm A Nan, kỷ                              niệm Ban giá vu sắt (lễ hội bố thí bình đẳng), phải                              thuyết pháp suốt đêm thì nên tổ chức ở ngoài trời.                              Nếu gặp trời mưa gió hoặc tuyết rơi lạnh, thì nên                              vào trong nhà, ngồi ngay ngắn. Nếu vì già bệnh không                              thể ngồi được thì nên dùng vật gì ngăn che ra. Nhưng                              khi ngăn che không nên dùng vật thưa mỏng ngăn che                              từ vai nách trở xuống.                              Nếu Tỉ kheo đang                              đi đường, khi vào xóm làng để nghỉ, thì phải nghỉ                              trong phòng riêng có vách ngăn. Nếu không có nhà                              phải nghỉ ngoài trời, rồi gặp mưa gió tuyết lạnh                              phải vào trong nhà thì nên ngồi ngay ngắn. Nếu vì                              già bệnh ốm yếu không thể ngồi được thì nên dùng vật                              gì ngăn cách ra. Nếu không ngăn cách mà có người nữ                              đáng tin thì nên bảo họ: "Ưu bà di, ngươi hãy ngủ                              trước để ta ngồi". Khi Tỉ kheo muốn ngủ thì gọi họ                              dậy, nói: "Ta muốn ngủ, ngươi chớ ngủ. Nếu ngươi ngủ                              thì ngươi sẽ không có phước".                              Nếu (Tỉ kheo nghỉ                              chung chỗ với các loài như) voi cái hoặc lạc đà,                              trâu, lừa cho đến gà mái, mà khi chúng còn ngẩng đầu                              lên thì chưa phạm tội; nếu chúng gục đầu xuống ngủ                              thì phạm Ba dạ đề. Nếu là chó cái nằm xoài đầu ra                              thì không có tội; nhưng khi nó gục đầu xuống ngủ thì                              phạm tội Ba dạ đề. Cho đến vịt, công, gà mái, mà khi                              chúng còn xoài đầu ra thì không có tội. Nhưng khi                              chúng gục đầu vào trong cánh, thì phạm Ba dạ đề. Con                              voi khi còn đang đứng ngay ngắn thì không có tội,                              nhưng khi nó thiếp ngủ thì phạm Ba dạ đề.                              Nếu Tỉ kheo đang                              ngủ trong phòng mà có bà mẹ bồng một bé gái đang ngủ                              đi vào phòng thì tất cả Tỉ kheo đang ngủ đều phạm Ba                              dạ đề. Nếu lúc ấy thầy Duy na hay tri sự thấy vậy                              thì nên bảo bà ta: "Bà hãy làm cho đứa bé thức dậy                              rồi mời bồng vào". Thế nên nói (như trên).                                                                                        67. GIỚI: NGỒI VỚI PHỤ NỮ.                              Khi Phật an trú                              tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, tôn giả                              Ưu Ðà Di có một người bạn Bà la môn quen biết ở cùng                              thôn; con gái ông ta đi lấy chồng ở một thôn khác;                              cô sai người nhắn tin cho cha hoặc sư phụ (Ưu Ðà Di)                              thường thường đến thăm cô, như nhân duyên của giới                              Bất định thứ hai đã nói rõ, cho đến Phật bảo với Ưu                              Ðà Di: "Này kẻ ngu si, [382c] người thế tục tại gia                              mà còn biết phép tắc của người xuất gia điều gì nên                              làm, điều gì không nên làm. Ông đã có lòng tin xuất                              gia mà lại không biết phép tắc nên làm của người                              xuất gia. Ðó là việc phi pháp, phi luật, trái lời ta                              dạy, không thể dùng việc đó để nuôi lớn thiện pháp                              được. Từ nay về sau, Ta không cho phép ngồi một mình                              với phụ nữ tại chỗ trống vắng". Thế rồi, Phật truyền                              lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải                              tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho                              các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              ngồi một mình với phụ nữ tại chỗ trống vắng thì phạm                              Ba dạ đề.                              Giải thích:                              (Một số từ ngữ                              trên đã giải thích).                              Một mình:                              Chỉ duy nhất một người nữ không có ai khác. Giả sử                              có người khác mà đang ngủ, điên cuồng tâm loạn thống                              khổ, hoặc trẻ con, phi nhân, súc sinh, thì dù có họ                              cũng xem như không có.                              Chỗ trống                              vắng:                              Chỗ vắng vẻ.                              Ngồi:                              Nếu cùng ngồi thì phạm Ba dạ đề.                              Ba dạ đề:                              Như trên đã nói.                              Nếu Tỉ kheo cùng                              ngồi với phụ nữ suốt ngày thì phạm một tội Ba dạ đề.                              Nếu Tỉ kheo hoặc người                              nữ nửa chừng đứng dậy đi, rồi ngồi lại, thì cứ mỗi                              lần như vậy phạm một tội Ba dạ đề.                              Nếu Tỉ kheo nhận                              lời mời thọ trai, đến nhà đàn việt ngồi, rồi người                              nữ dọn cơm xong đến ngồi trước Tỉ kheo, đoạn đứng                              dậy sớt thêm thức ăn, thì cứ mỗi lần đứng dậy ngồi                              xuống như vậy phạm mỗi tội Ba dạ đề. Nếu một người                              nữ ngồi gần Tỉ kheo, một người nữ khác lui tới sớt                              thêm thức ăn, thì khi người nữ kia đi ra, Tỉ kheo                              nên đứng dậy. Khi đứng dậy, không nên vụt đứng dậy                              liền khiến cho người nữ đang ngồi sinh nghi tưởng Tỉ                              kheo có ý đồ gì khác mà trước khi đứng, nên nói:                              "Này chị, tôi muốn đứng dậy". Nếu cô hỏi: "Vì sao                              đứng dậy?", thì đáp: "Vì Thế Tôn chế giới không cho                              phép Tỉ kheo ngồi một mình với phụ nữ ở chỗ vắng vẻ,                              cho nên tôi đứng dậy". Nếu người nữ nói: "Tôn giả                              chớ đứng dậy, để con đứng dậy", rồi cô đứng dậy, thì                              Tỉ kheo không có tội.                              Nếu con gái dưới                              bảy tuổi ngồi trên đường đi có tầng cấp, rồi chuyển                              ngồi trên tầng cấp thứ hai, lại chuyển ngồi trên                              tầng cấp thứ ba, nếu cứ di chuyển chỗ ngồi như vậy,                              thì cứ mỗi lần di chuyển phạm mỗi tội Ba dạ đề (?).                              Nhưng nếu trong nhà có tịnh nhân đang làm việc qua                              lại không gián đoạn, thì (Tỉ kheo) không có tội. Nếu                              cửa hướng ra đường, mà trên đường có người đi như Tỉ                              kheo khất thực không gián đoạn, họ cũng như sự có                              mặt của tịnh nhân, nên (Tỉ kheo) không có tội.                              Nếu Tỉ kheo cùng                              ngồi trên gác với phụ nữ mà dưới gác tịnh nhân trông                              thấy Tỉ kheo, Tỉ kheo cũng trông thấy tịnh nhân, thì                              không có tội. Hoặc Tỉ kheo ngồi một mình với phụ nữ                              dưới gác mà trên gác có phụ nữ trông thấy thì cũng                              như vậy.                              Lại có các trường                              hợp: hoặc thấy mà không nghe, hoặc nghe mà không                              thấy, hoặc vừa nghe vừa thấy, hoặc chẳng thấy chẳng                              nghe.                              Thấy mà không                              nghe: Tịnh nhân từ xa trông thấy Tỉ kheo cùng ngồi                              với người nữ mà không [383a] nghe tiếng nói, thì                              phạm tội Việt tì ni.                              Nghe mà không                              thấy: Nghe tiếng nói mà không thấy người, thì phạm                              tội Việt tì ni.                              Vừa thấy vừa                              nghe: Nếu thấy cùng ngồi và nghe được tiếng nói, thì                              không có tội.                              Chẳng thấy chẳng                              nghe: trong trường hợp Này phạm tội Ba dạ đề.                              (Nếu Tỉ kheo ngồi                              một mình với phụ nữ mà bên cạnh) có người mù, thì                              phạm tội Việt tì ni. Nếu bên cạnh có người điếc cũng                              phạm tội Việt tì ni. Nếu tịnh nhân ấy vừa mù vừa                              điếc, thì phạm Ba dạ đề. Nếu có một tịnh nhân mù,                              một tịnh nhân điếc, thì không có tội. Nếu tịnh nhân                              ngủ thì nên đánh thức họ dậy.                              Tội này bao gồm                              lúc ở thôn xóm lúc ở chỗ hoang vắng; hoặc đúng thời,                              hoặc phi thời; hoặc ban ngày hoặc ban đêm; tại chỗ                              khuất, không phải chỗ trống; tại chỗ vắng vẻ, không                              phải chỗ nhiều người; ở gần, chẳng phải ở xa. Thế                              nên nói:                              "Cố đoạt làm                              người khác nghi ngờ,                                                            68. GIỚI: CHO NGƯỜI CHƯA ÐỦ TUỔI THỌ GIỚI.                              Khi Phật an trú                              tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, Tì xá                              Khư Lộc mẫu mời chư Tăng ở tinh xá Kỳ Hoàn theo thứ                              tự, đến nhà bà thọ trai lâu dài. Bà cúi đầu đảnh lễ                              chân chư tăng, lần lượt đến chỗ nhóm mười sáu Tỉ                              kheo, thấy họ còn nhỏ, thân sắc mềm mại mà có thể bỏ                              nhà xuất gia, người nữ vốn nặng lòng từ nên thấy họ                              liền tưởng họ như con, hơn nữa cũng do lòng tôn kính                              pháp, bà liền hỏi: "Khi tăng chúng Kỳ Hoàn không                              cúng dường, các tôn giả ăn ở đâu?".                               Ðáp: "Khi đến                              giờ, chúng tôi khoác y, cầm bát đi đến từng nhà khất                              thực".                               Bà liền nói: "Này                              các tôn giả, lúc nào không có cúng dường hãy đến nhà                              con thọ trai. Từ nay về sau hễ hôm nào không có                              người cúng dường thì con sẽ cúng dường".                               Các Tỉ kheo trẻ                              nghe nói thế, liền nhận lời mời, đến bữa không có                              cúng dường, bèn tới nhà bà thọ trai. Lộc Mẫu thỉnh                              Phật thường xuyên đồng thời cũng thỉnh A Nan, nên                              tôn giả A Nan hằng ngày đến nhà bà, bỗng trông thấy                              nhóm mười sáu Tỉ kheo đang thọ trai tại đó. Các Tỉ                              kheo trẻ Này sinh tâm phóng túng nói với Lộc Mẫu:                              "Thưa mẹ, thức ăn Này nhiều quá!". Bà đáp : "Các con                              sớt bớt đi".                               Họ lại nói: "Ít                              quá!".                               Bà bảo: "Các con                              hãy thêm vào". Họ chê lạnh, nóng, cứng, mềm, ngọt,                              chua, mặn, nhạt đủ mọi cách như vậy tỏ sự không hài                              lòng.                               Lộc Mẫu vốn có                              lòng tin và nhiều lòng từ nên đáp: "Tùy các con đòi                              cái gì thì ta cho cái ấy".                               A Nan thấy thế,                              liền nghĩ: "Nếu đây là nhà không có niềm tin, chắc                              chắn sẽ khởi ác tâm".                               Ðoạn, thầy đem sự                              việc ấy đến bạch lên Phật, nói: "Lành thay Thế Tôn,                              mong rằng từ nay trở đi chớ cho trẻ con thọ giới Cụ                              túc".                               Phật liền dạy:                               -"Từ nay về                              sau, người chưa đủ hai mươi tuổi thì không được cho                              thọ giới Cụ túc".                              [383b] Lại nữa,                              khi Phật an trú tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên.                              Bấy giờ, hai cha con người lẩm cẩm kia có lòng tin                              bỏ nhà xuất gia tu hành. Người con làm Sa di, lo                              cung cấp các thứ cho năm trăm Tỉ kheo. Các Tỉ kheo                              hoặc đòi cành dương, hoặc đòi lá cây, vì quá nhiều                              người nên không thể cung cấp đầy đủ. Khi ấy thầy Tỉ                              kheo lẩm cẩm suy nghĩ: "Ta chỉ có một đứa con mà                              phải cung cấp cho năm trăm Tỉ kheo, những yêu sách                              quá nhiều không thể nào cung cấp cho xuể, như thế                              này thì không bao lâu chắc chắn nó sẽ sinh bệnh.                              Nhưng Thế Tôn chế giới người chưa đủ hai mươi tuổi                              thì không cho thọ giới Cụ túc, dẫu biết là không                              nên, song ta hãy cho nó thọ để nó đỡ khổ". Rồi thầy                              mời các Tỉ kheo vào giới trường truyền giới Cụ túc                              cho đứa bé. Sau khi thọ Cụ túc, các Tỉ kheo vẫn sai                              bảo như lúc trước: "Sa di, đưa cho ta cành dương, lá                              cây".                               Ông liền nói:                              "Tôi đã thọ Cụ túc rồi vì sao còn gọi là Sa di?".                               Các Tỉ kheo hỏi:                              "Ai cho ông thọ?".                               Ðáp: "Cha tôi chứ                              ai".                              Các Tỉ kheo liền                              đem sự việc ấy đến bạch lên Phật. Phật bèn bảo gọi                              Tỉ kheo lẩm cẩm kia đến. Khi thầy đến rồi, Phật liền                              hỏi đầy đủ sự việc kể trên:                              - Ông có việc đó                              thật chăng?                              - Có thật như                              vậy, bạch Thế Tôn.                              - Ðó là việc xấu.                              Này kẻ lẩm cẩm, vì sao ông biết người chưa đủ hai                              mươi tuổi mà cho thọ giới Cụ túc?                               Thế rồi, Phật                              truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá                              Vệ phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế                              giới cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe                              lại:                              -- Nếu Tỉ kheo                              biết người chưa đủ hai mươi tuổi mà cho thọ Cụ túc,                              thì phạm Ba dạ đề. Các Tỉ kheo nên khiển trách Tỉ                              kheo Này. Và người đã thọ kia không được xem là đã                              thọ Cụ túc.                              Giải thích:                              (Một số từ ngữ                              trên đã giải thích).                              Chưa đủ:                              Chưa đủ hai mươi mùa mưa, dưới hai mươi tuổi, đó gọi                              là chưa đủ hai mươi. Dưới hai mươi mùa mưa mà đủ hai                              mươi tuổi vẫn gọi là chưa đủ hai mươi. Dưới hai mươi                              mùa mưa mà quá hai mươi tuổi cũng gọi là chưa đủ hai                              mươi. Sinh vào mùa Ðông rồi thọ giới vào mùa Ðông mà                              chưa trải qua hết an cư, đó gọi là chưa đủ. Sinh vào                              mùa Xuân rồi thọ giới vào mùa Xuân mà chưa trải qua                              hết an cư, đó gọi là chưa đủ. Sinh lúc tiền an cư                              rồi thọ giới lúc tiền an cư mà chưa trải qua hết                              tiền an cư, đó gọi là chưa đủ. Sinh vào lúc hậu an                              cư rồi thọ giới lúc hậu an cư mà chưa trải qua hết                              hậu an cư, đó gọi là chưa đủ.                              Khi người ấy (đã                              thọ giới rồi (?)) dưới hai mươi tuổi mà một nửa số                              Tăng chúng bảo là dưới hai mươi, một nửa bảo là đủ                              hai mươi, thì một nửa số người bảo dưới hai mươi                              phạm Ba dạ đề, một nửa bảo đủ hai mươi không có tội.                              Người ấy được xem là thọ Cụ túc hợp pháp.                              [383c] Khi người                              này dưới hai mươi tuổi, mọi người đều bảo là tuổi                              chưa đủ, mà cho thọ Cụ túc, thì tất cả đều phạm Ba                              dạ đề. Người Này không được xem là thọ Cụ túc hợp                              pháp.                              Khi người này                              dưới hai mươi tuổi, mọi người đều bảo là tuổi đã đủ                              rồi cho thọ Cụ túc, thì tất cả đều vô tội. Người này                              được xem là thọ Cụ túc hợp lệ.                              Ðủ hai mươi mùa                              mưa mà dưới hai mươi năm, thì được xem là đủ hai                              mươi tuổi. Ðủ hai mươi mùa mưa, đủ hai mươi năm, thì                              được xem là đủ hai mươi tuổi. Ðủ hai mươi mùa mưa,                              quá hai mươi năm, thì được xem là đủ hai mươi tuổi.                              Sinh vào mùa                              Ðông, trải qua an cư xong cho thọ Cụ túc, thì được                              xem là đủ hai mươi tuổi. Sinh vào mùa xuân, an cư                              xong cho thọ Cụ túc, thì được xem là đủ hai mươi                              tuổi. Sinh vào lúc tiền an cư, tiền an cư xong cho                              thọ Cụ túc, thì được xem là đủ hai mươi tuổi. Sinh                              vào lúc hậu an cư, hậu an cư xong cho thọ Cụ túc,                              thì được xem là đủ hai mươi tuổi.                              Khi người ấy đủ                              hai mươi mùa mưa, nửa số người bảo là đủ, nửa số bảo                              là chưa đủ, thì nửa số bảo chưa đủ phạm tội Việt tì                              ni; nửa số bảo đã đủ vô tội. Người ấy được xem là                              thọ Cụ túc hợp lệ. Khi người ấy đủ hai mươi mùa mưa                              (rồi cho họ thọ Cụ túc) mà mọi người bảo là chưa đủ,                              thì tất cả phạm tội Việt tì ni. Người ấy không được                              xem là thọ Cụ túc hợp lệ. Khi người ấy đủ hai mươi                              mùa mưa, tất cả đều bảo là đã đủ, thì tất cả vô tội.                              Người ấy được xem là thọ Cụ túc hoàn hảo.                              Nếu Tỉ kheo biết                              người chưa đủ hai mươi tuổi mà cho thọ Cụ túc, thì                              các Tỉ kheo nên khiển trách Tỉ kheo ấy, rồi bắt sám                              hối tội Ba dạ đề.                              Ba dạ đề:                              Như trên đã nói.                              Nếu có người đến                              xin thọ Cụ túc mà đủ tháng thì nên cho thọ Cụ túc;                              nếu chưa đủ, thì nên bảo họ đợi cho đủ rồi mới thọ.                              Nếu người ấy không biết rõ tuổi, thì nên hỏi cha mẹ                              bà con của người ấy. Nếu họ cũng không biết thì nên                              xem miếng ván ghi năm sinh. Nếu cũng không có, thì                              nên xem vóc dáng của người ấy. Khi xem, không nên                              xem thẳng hình thể, vì nếu là con nhà giàu có thì                              hình thể lớn mà tuổi nhỏ. Phải xem tay chân người ấy                              đã có dấu hiệu trưởng thành chưa. Nếu đã làm như vậy                              mà vẫn không biết thì nên hỏi xem thời tiết khí hậu                              đất nước của họ năm nào được mùa, mất mùa, hạn hán,                              lụt lội (để đoán tuổi tác). Thế nên nói (như trên).                                                                                        69. GIỚI: HẸN ÐI CHUNG VỚI BỌN CƯỚP.                              Khi Phật an trú                              tại thành Xá Vệ, nói rộng như trên. Bấy giờ, hai                              nước Xá Vệ và Tì xá li có mối hiềm khích, nên hằng                              năm đánh cướp lẫn nhau. Người Tì xá li đến Xá Vệ                              cướp bóc tài sản của dân chúng rồi trở về cương giới                              của mình cho là yên ổn, cởi bỏ vũ khí để nghỉ ngơi.                              Vua nước Xá Vệ suy nghĩ: "Ta là quốc vương, phải                              diệt trừ quân địch để dân chúng yên ổn, lẽ nào lại                              để cho bọn giặc cướp đọat tài sản của nhân dân?",                              liền truyền lệnh cho các tướng sĩ: "Các ngươi phải                              truy kích bọn giặc cướp, bắt cho hết bọn chúng; nếu                              không bắt được thì chớ có trở về tay không". Tướng                              sĩ suy nghĩ: "Lệnh vua rất nghiêm khắc, việc này                              phải nhanh chóng thi hành", bèn tập họp quân lính,                              dò theo dấu vết truy kích.                              [384a] Khi ấy,                              các Tỉ kheo tại Xá Vệ an cư xong, muốn đi đến Tì xá                              li, nhưng bị lạc đường nên rơi vào chỗ bọn giặc                              cướp. Bọn cướp kinh ngạc, hỏi các Tỉ kheo:                              - Các người là                              những người nào?                              - Chúng tôi là                              những người xuất gia.                               - Xuất gia theo                              đạo nào?.                              - Xuất gia theo                              họ Thích.                              - Thưa các đại                              đức, các thầy định đi đâu đó?                              - Ðịnh đến Tì xá                              li, nhưng vì lạc đường, nên mới đến đây.                              Nhân đó, bọn giặc                              liền chỉ đường cho các Tỉ kheo. Thế rồi, các Tỉ kheo                              lại hỏi:                              - Này các tráng                              sĩ, các vị định đi đâu đó?                              - Ði tới Tì xá                              li.                              - Cho chúng tôi                              cùng kết bạn với.                              - Chúng tôi là                              bọn giặc cướp, cướp đọat tài sản của kẻ khác, đi tắt                              trong những rừng cây, không theo đường chính; còn                              các thầy là những người lương thiện, vì sao lại đi                              theo chúng tôi? Ðây là con đường thẳng, có thể theo                              đó mà đi.                              Các Tỉ kheo lại                              yêu cầu: "Hãy dẫn chúng tôi đi theo với, chớ để                              chúng tôi bị lạc đường một lần nữa". Bọn giặc lại                              trả lời như lúc đầu. Hỏi qua, nói lại như thế đến ba                              lần vẫn chưa dứt khoát, thì quân lính đuổi kịp, bèn                              tóm cổ bọn giặc cướp cùng với các Tỉ kheo, đem đến                              chỗ nhà vua, tâu trình như sau:                              - Tâu đại vương,                              đây là bọn giặc cướp.                              - Trước hết hãy                              dẫn các Tỉ kheo đến đây.                              Khi lính dẫn các                              Tỉ kheo đến nơi, nhà vua bèn hỏi.                              - Các ngươi là                              những người xuất gia, vì sao lại làm kẻ cướp?                              - Chúng tôi không                              phải là kẻ cướp.                              - Thế thì vì sao                              đi với bọn chúng?                              Các Tỉ kheo bèn                              đem sự việc kể trên trình bày đầy đủ cho vua nghe.                              Nghe xong, vua sai lính đem các Tỉ kheo đến một chỗ                              khác, rồi đem bọn giặc cướp đến. Khi chúng đến, vua                              hỏi:                              - Những người                              xuất gia Này có phải là đồng bọn với các ngươi                              không?                              - Không phải là                              đồng bọn.                              - Thế thì vì sao                              họ lại cùng đi với các ngươi?                              Bọn giặc cướp bèn                              đem sự việc trên trình bày đầy đủ với nhà vua. Vua                              liền sai lính đem bọn giặc cướp đi, rồi dẫn các Tỉ                              kheo đến. Khi họ đến rồi, nhà vua hỏi:                              - Các ngươi là                              những người xuất gia vì sao làm kẻ cướp, mà còn nói                              dối lừa gạt quan trên để hòng thoát tội. Bọn cướp đã                              khai rằng các ngươi là đồng bọn, vì sao còn chối                              cãi?                              Các Tỉ kheo vẫn                              trả lời như lúc đầu. Vua liền sai quân lính thả các                              Tỉ kheo đi, rồi đem bọn cướp ra trị tội theo luật                              pháp. Nghĩa là bắt năm trăm tên giặc cướp Này mang                              vòng hoa Ca tì la, đánh trống, dẫn chúng đi nhiễu                              quanh các ngã tư đường, thông báo cho dân chúng                              biết. Ðến khi sắp bị hành hình, bọn cướp bèn khóc                              rống lên. Bấy giờ, Phật biết việc đó mà vẫn hỏi:                              - Này các Tỉ                              kheo, có chuyện gì mà nhiều người kêu khóc như vậy?                              - Bạch Thế Tôn,                              đó là tiếng kêu khóc của năm trăm tên giặc cướp bị                              nhà vua sai lính đem đi hành hình đấy.                              Phật liền bảo A                              Nan:                              - Ông hãy đến nói                              với nhà vua như sau: "Ðại vương là vua của mọi người                              thì phải thương dân như con mình, chứ vì sao lại đem                              giết cả năm trăm người trong một lúc?".                              A Nan thọ giáo,                              bèn đem những lời Phật dạy đến bảo với nhà vua. Vua                              liền nói:                              - Thưa tôn giả A                              Nan, tôi vẫn biết rằng nếu giết một người thì tội                              báo đã rất nhiều, huống gì giết năm trăm người,                              nhưng bọn giặc cướp Này thường đến phá hoại xóm làng                              của tôi, cướp bóc tài sản của dân chúng; nếu Thế Tôn                              có thể giáo hóa bọn chúng, khiến chúng không cướp                              bóc nữa, thì tôi sẽ tha cho chúng được sống.                              [384b] A Nan liền                              trở về, đem những lời nhà vua nói, bạch đầy đủ lên                              đức Phật. Phật lại sai A Nan đến nói với nhà vua một                              lần nữa như sau:                              - Chỉ cần nhà vua                              tha cho họ, thì tôi (Phật) sẽ giáo hóa họ từ nay về                              sau không còn làm kẻ cướp nữa.                              A Nan lãnh giáo                              xong, trước hết đến bộ phận hình sự, nói với viên                              giám sát: "Những kẻ có tội này, đức Thế Tôn đã cứu                              họ rồi, các vị không được sát hại họ".                               Rồi thầy hỏi bọn                              cướp: "Các ngươi có thể xuất gia được không?".                              Bọn cướp nói:                              - Thưa tôn giả,                              nếu trước đây chúng tôi xuất gia, thì đã không vướng                              phải nỗi khổ này. Nay chúng tôi rất mong muốn, nhưng                              không biết làm sao cho được.                              A Nan liền đi đến                              chỗ nhà vua, thuật lại lời của Thế Tôn nói với vua:                              "Tôi có thể giáo hóa những người này từ nay về sau                              sẽ không còn làm kẻ cướp nữa". Vua bèn ra lệnh giám                              quan tha mạng cho họ, nhưng chưa cởi trói, mà dẫn                              đến chỗ Thế Tôn, để Thế Tôn cởi trói cho họ.                               Bấy giờ, đức Thế                              Tôn vì muốn độ những người ấy nên ngồi ở chỗ đất                              trống. Bọn giặc cướp từ xa trông thấy Phật thì những                              dây trói tự nhiên được tháo ra, họ liền cúi đầu đảnh                              lễ dưới chân Phật, rồi đứng qua một bên. Phật quán                              sát túc duyên của họ, rồi tùy thuận thuyết pháp như bố                              thí, giữ giới, sự báo ứng của các hạnh                              nghiệp, bốn chân lý khổ, tập, diệt, đạo. Ngay lập                              tức, họ đạt được quả vị Tu đà hoàn. Phật liền hỏi:                              - Các ngươi có                              thích xuất gia không?                              - Bạch Thế Tôn,                              nếu trước đây chúng con xuất gia thì đã không vướng                              phải nỗi khổ Này. Kính mong Thế Tôn hôm nay độ chúng                              con xuất gia.                              - Này các Tỉ                              kheo, hãy đến một cách khéo léo (Thiện lai Tỉ kheo).                              Khi Phật nói câu                              ấy thì y phục trên mình của năm trăm tên cướp biến                              thành ba y, tự nhiên tay cầm bát, uy nghi tề chỉnh,                              tựa như những Tỉ kheo đã được trăm tuổi, đều đắc quả                              La hán.                              Các (cựu) Tỉ kheo                              liền bạch với Phật:                              - Bạch Thế Tôn,                              do đâu mà năm trăm tên cướp nhờ ân đức của Thế Tôn                              tự nhiên được giải thoát?                              - Không những                              ngày nay mà trong đời quá khứ họ cũng đã nhờ ân đức                              của Ta mà được giải thoát, như trong kinh Bản Sinh                              về loài khỉ đã nói rõ.                              Thế rồi, Phật ra                              lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại thành Xá Vệ phải                              tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới cho                              các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                              --"Nếu Tỉ kheo                              cùng đi chung đường với bọn giặc cướp, dù chỉ trải                              qua một xóm làng, thì phạm tội Ba dạ đề".                                                                                        Giải thích:                              Giặc cướp:                              Bọn trộm cướp.                              Hẹn:                              Hoặc hẹn hôm nay, ngày mai, một tháng, nửa tháng                              v.v...                              Ðường:                              Hoặc ba do diên, hai do diên, một do diên, một câu                              lô xá, nửa câu lô xá, cho đến trong khoảng một thôn                              xóm.                              Ba dạ đề:                              Như trên đã nói.                              Không được hẹn                              cùng đi chung đường với bọn giặc cướp. Khi Tỉ kheo                              muốn đi đâu thì nên kết bạn với những người đi xe,                              những người đi bộ. Bọn giặc cướp có ba dấu hiệu có                              thể nhận biết, đó là: mùi hương, khí sắc và dáng                              vẻ.                               Mùi hương:                              Ở nơi hoang vắng, chúng có thể ăn thịt chín hoặc                              thịt sống.                               Khí sắc:                              Thường có khí sắc sợ hãi.                              Dáng vẻ:                              Vì suốt ngày bị gò bó nên mặt đen, [384c] tóc vàng,                              trông có vẻ hung ác giống như người ở cõi âm phủ.                              Ðó là ba dấu hiệu                              của bọn giặc cướp, Tỉ kheo không nên đi chung đường                              với họ. Nếu như bọn cướp giả mạo người tốt, mặc y                              phục đẹp, rồi đến nơi hoang vắng, chúng bàn với nhau                              rằng: "Hôm nay chúng ta hãy vào thôn xóm ấy, phá                              hoại tường vách, cướp đọat tài vật, không luận Sa                              môn hay Bà la môn, tất cả đều lấy hết", thì biết đó                              chính là bọn cướp. Nhưng khi ấy không nên bỏ chúng                              mà đi ngay, mà phải tùy thuận theo chúng, đợi đến                              nơi gần thôn xóm, mới tìm cách rời bỏ chúng. Nếu bọn                              chúng phát giác được, thì nên nói: "Này các tráng                              sĩ, chúng tôi chỉ đi tới đây thôi".                              Nếu Tỉ kheo hẹn                              đi chung đường với bọn cướp thì phạm tội Ba dạ đề.                              Nếu đi chung đường với bọn nữ tặc thì cũng như vậy.                              Nếu đi chung với bọn ăn trộm vàng thì phạm tội Ba dạ                              đề. Nếu đi chung với bọn phản loạn, bọn mắc nợ thì                              phạm tội Việt tì ni. Thế nên nói (như trên).                                                                                        70. GIỚI: ÐÀO XỚI ÐẤT ÐAI.                              Khi Phật an trú                              tại tinh xá Khoáng Dã, nói rộng như trên. Lúc bấy                              giờ, thầy Tỉ kheo lo việc kinh doanh tự đào đất đổ                              nền nhà, hoặc làm ngói, làm gạch, nên bị người đời                              chê bai rằng: "Sa môn Cù Ðàm dùng vô lượng phương                              tiện đả kích việc sát sinh, ca ngợi không sát sinh,                              thế mà nay Tỉ kheo lại tự tay đào đất làm nền nhà,                              hoặc làm ngói, làm gạch, khiến tổn thương đến mạng                              sống. Ðó là những kẻ bại hoại, nào có đạo hạnh gì!".                              Các Tỉ kheo bèn đem sự việc ấy đến bạch với Thế Tôn,                              Phật liền sai đi gọi Tỉ kheo lo việc kinh doanh đến.                              Khi thầy đến rồi, Phật bèn hỏi:                              - Này Tỉ kheo,                              ông có làm việc đó thật chăng?                              - Bạch Thế Tôn,                              có thật.                              - Tuy trong đất                              không có mạng sống, nhưng đó là việc mà người xuất                              gia không nên làm. Trái lại, nên ít việc, ít dịch                              vụ, chớ để cho người đời chê trách mà mất đi điều                              phước thiện của họ. Từ nay về sau, Tỉ kheo không                              được tự tay đào đất.                              Thế rồi, Phật                              truyền lệnh cho các Tỉ kheo đang sống tại Khoáng dã                              phải tập họp lại tất cả, vì mười lợi ích mà chế giới                              cho các Tỉ kheo, dù ai nghe rồi cũng phải nghe lại:                              --"Nếu Tỉ kheo                              tự tay đào đất hoặc sai người đào, chỉ bảo họ đào,                              thì phạm tội Ba dạ đề."                              Giải thích:                              Tự tay                              mình:                              hoặc là tự thân, thân phần, thân phương tiện.                              1/ Thân: Cất mình                              lên nhảy nhót, chạy qua chạy lại, muốn làm cho hư                              đất, thì phạm tội Ba dạ đề. Ðó gọi là thân.                              2/ Thân phần:                              Hoặc tay, chân, đầu gối, khuỷu tay, móng tay; đó gọi                              là thân phần.                              3/ Thân phương                              tiện: Hoặc dùng cuốc xẻng, rìu búa tự tay đào đất                              hay đục vào tre gỗ, hoặc từ xa ném, muốn làm cho đất                              hư hại; nếu đất bị hư hại, thì phạm tội Ba dạ đề.                              Ðất:                              Gồm hai loại: Sinh và tác.                              1/ Sinh: Ðất còn                              nguyên sơ gọi là sinh.                              2/ Tác: Gồm hai                              loại: cơ tác và thượng tác.                              a. Cơ tác: Chỉ                              cho đất trên đường đi và đất dùng làm tường vách.                              Tự đào:                              Tự mình đào hoặc sai người khác đào, dù chỉ bảo                              rằng: "Hãy đào đất này", thì phạm tội Ba dạ đề.                              [385a] Ba                              dạ đề: Như trên đã nói.                              Nếu tự mình tìm                              phương tiện để đào cho nhiều đất thì phạm một tội Ba                              dạ đề. Nếu vừa làm vừa nghỉ, thì mỗi lần nghỉ phạm                              một tội Ba dạ đề.                              Nếu bảo người                              khác đào mà người ấy đào một lần nhiều đất, thì phạm                              một tội Ba dạ đề.                              Nếu nhắc đi nhắc                              lại, bảo họ đào cho nhanh lên, thì mỗi lần lặp lại,                              phạm một tội Ba dạ đề.                              Nếu Tỉ kheo muốn                              cho đất bằng bèn tìm cách quét đất, thì phạm tội                              Việt tì ni. Nếu làm tổn thương đất bằng dấu chân                              muỗi, thì phạm tội Ba dạ đề. Nếu không tạo phương                              tiện, thì không có tội.                              Nếu dùng phương                              tiện kéo cây gỗ muốn cho đất bị xây xước, thì khi                              kéo cây gỗ, phạm tội Việt tì ni. Nếu đất bị tổn                              thương như dấu chân muỗi, thì phạm tội Ba dạ đề. Nếu                              không dùng phương tiện, thì không có tội.                              Nếu lùa bò ngựa                              đi qua muốn cho đất bị hư lở, thì cũng như vậy. Nếu                              không dùng phương tiện, thì không có tội.                              Nếu muốn cho đất                              bằng phẳng bèn đi kinh hành, thì khi đi kinh hành                              phạm tội Việt tì ni; khi đất bị tổn thương bằng dấu                              chân muối, phạm tội Ba dạ đề. Khi đứng, ngồi, nằm                              cũng như vậy. Nhưng nếu không cố ý thì không có tội.                              Nếu Tỉ kheo dùng                              chân đạp vào cạnh bờ sông làm cho đất rơi xuống, thì                              mỗi lần đạp phạm một tội Ba dạ đề. Nhưng khi đi cạnh                              bờ sông, (vô tình) làm cho đất sập, thì không có                              tội. Tuy nhiên, nếu khối đất bị vỡ nặng hơn một                              người, thì phạm tội Ba dạ đề. Nếu khối đất bị vỡ                              nặng không bằng một người, thì không có tội.                              Nếu Tỉ kheo cầm                              cây, đá, ngói, gạch, cuốc, xẻng mà lỡ tay bị rơi                              xuống đất, dù đất bị tổn thương cũng không có tội.                              Nếu Tỉ kheo lo                              việc kinh doanh có nhiều vật dụng của Tăng, của                              Tháp, muốn cất giấu trong đất, nhưng đất ấy thuộc                              sinh địa, ở chỗ trống trải, thì không được tự tay                              mình đào, mà phải sai tịnh nhân làm. Nếu đất ấy                              thuộc tử địa, ở chỗ khuất, thì được tự mình đào đất,                              cất giấu. Nếu đóng cọc xuống đất thì phạm tội Việt                              tì ni. Nếu đất bị tổn thương như dấu chân muỗi thì                              phạm tội Ba dạ đề.                              Nếu Tỉ kheo muốn                              căng tấm bạt thì phải đóng đinh ở bốn góc, nếu căng                              ở chỗ đất chết, vắng vẻ thì tự tay đóng đinh không                              có tội. Căng ở chỗ đất sống, trống trải, thì phải                              sai tịnh nhân làm. Khi tháo ra cũng phải sai lịnh                              nhân làm.                              Nếu Tỉ kheo đóng                              đinh vào trên vách trong phòng làm vỡ vách thì khi                              làm xong, phạm tội Việt tì ni. Nhưng nếu trên vách                              trước đó đã có lỗ rồi, thì không có tội.                              Nếu mặt đất có                              nước mưa thấm mà Tỉ kheo làm vỡ hằng dấu chân chim                              thì phạm tội Ba dạ đề. Nếu muốn vẽ trên đất thì phạm                              tội Việt tì ni. Nếu đất bị tổn thương như dấu chân                              chim thì phạm tội Ba dạ đề. Nhưng nếu vẽ trên đất                              bũn thì không có tội.                              Nếu Tỉ kheo lo                              việc kinh doanh muốn vẽ sơ đồ thì nên vẽ trên miếng                              gỗ, trên gạch. Nếu đất trên phòng ởù đã cũ kỹ muốn                              dỡ bỏ thì không được tự tay dỡ mà phải sai tịnh nhân                              dỡ bỏ.                              Nếu Tỉ kheo muốn                              phá bức vách thì nên sai tịnh nhân phá lớp đất tô ở                              bên ngoài rồi mới được tự tay mình gỡ gạch, và khi                              đến sát mặt nền thì cũng phải sai tịnh nhân gỡ. Nếu                              bức vách không tô đất mà bị nước mưa thấm ướt thì                              khi muốn dỡ bỏ phải sai tịnh nhân dỡ vài ba lớp gạch                              trên mặt, rồi mới tự tay mình dỡ; và khi dỡ đến sát                              mặt đất thì lại sai tịnh nhân dỡ tiếp. Nếu một đống                              ngói gạch bị mưa thấm ướt, thì khi lấy, Tỉ kheo                              không được tự tay mình lấy mà phải sai tịnh nhân lấy                              chừng [385b] vài ba lớp ở trên, rồi mình mới lấy; và                              khi đến sát đất lại sai tịnh nhân lấy tiếp. Khi lấy                              ngói lợp nhà thì Tỉ kheo được lấy nhưng khi đến lớp                              ngói để sát đất thì phải sai tịnh nhân lấy. Khi chất                              đống gạch cũng vậy.                              Khi đất thuộc bị                              mưa thấm ướt thì Tỉ kheo không được lấy mà phải sai                              tịnh nhân lấy cho hết lớp đất thấm mưa, rồi mới tự                              lấy thì không có tội.                              Nếu đất do chuột                              đào, bị mưa thấm ướt, thì Tỉ kheo không được lấy mà                              phải sai tịnh nhân lấy.                              Nếu sau cơn mưa                              thì Tỉ kheo không được vét giếng mà phải sai tịnh                              nhân vét. Nếu tịnh nhân nhỏ không làm được, thì phải                              đưa họ xuống giếng quậy cho nước đục, rồi Tỉ kheo                              mới vét. Nếu nước ao, nước đọng sau cơn mưa thì Tỉ                              kheo không được tháo nước. Nhưng nếu có bò ngựa đã                              lội qua thì Tỉ kheo được tháo. Nếu đất bùn gặp phải                              trận mưa thì Tỉ kheo không được lấy mà phải sai tịnh                              nhân lấy.                              Nếu đất trong ao                              trong thạp gặp phải cơn mưa thì Tỉ kheo không được                              lấy mà phải sai tịnh nhân lấy.                              Nếu sau cơn mưa                              có nước đọng trên rãnh, trên máng xối thì Tỉ kheo                              không được tự tay khai thông mà phải sai tịnh nhân                              khai thông.                              Nếu khi đi đại                              tiểu tiện dùng nước rửa mà để tay chà trên đất thì                              phạm tội Ba dạ đề. Sau khi đi tiêu tiểu xong, phải                              dùng tro, bột đậu rửa tay.                              Nếu nước mưa chảy                              xoáy đất dồn thành một đống thì Tỉ kheo không được                              lấy mà phải sai tịnh nhân lấy.                              Nếu ang, bình,                              thau v.v... để ngoài trời, trải qua cơn mưa thì Tỉ                              kheo không được lấy mà phải sai tịnh nhân lấy.                              Nếu miếng ván                              dùng để rửa chân trải qua cơn mưa thì Tỉ kheo không                              được cầm lấy.                              Nếu các vật như                              gỗ, đá, ngói, gạch để ngoài trời trải qua cơn mưa                              thì Tỉ kheo không được tự tay cầm lấy mà phải sai                              tịnh nhân cầm lấy.                              Nếu Tỉ kheo đào                              đất thì phạm Ba dạ đề. Nếu đất đó lộn một nửa cát                              thì phạm tội Việt tì ni. Nhưng nếu đất đó chỉ thuần                              là cát thì không có tội. Nếu Tỉ kheo đào đá, đá                              cuội, bụi đất thì cũng như vậy (tức không có tội).                              Thế nên nói (như trên).
Hán dịch:                  Tam Tạng Phật Đà La người Thiên Trúc, cùng Samôn Pháp Hiển, đời                  Đông Tấn, Trung Quốc 
Ngồi chỗ dâm, chỗ khuất. 
Xem quân trận, ba hôm 
Ðánh người và dọa đánh 
Hết Bạt cừ thứ sáu."                             
2. Nam nhi khởi dục tưởng nhớ đến phụ nữ, nên ban                              đêm phần nhiều không ngủ được;  
3. Quân đạo tặc có tâm trộm cắp, nên ban đêm phần                              nhiều không ngủ được;  
4. Nhà vua lo nghĩ việc nước, nên ban đêm phần nhiều                              không ngủ được;  
5. Tỉ kheo tinh tấn tu tập đạo nghiệp, nên ban đêm                              phần nhiều không ngủ được.                              
Không xả, lấy giấu và khủng bố. 
Ðùa dưới nước, chỉ chỏ lẫn nhau, 
Cùng đi, cùng ngủ chung một nhà. 
Tại chỗ hoang vắng cũng như vậy. 
Ðến đây vừa hết phần thứ bảy ".                             
b. Thượng tác: chỉ cho đất đổ trên các tầng lầu,                              trên mái nhà; đó gọi là thượng tác.                             
