XXXII. PHẨM KHEN BÁT-NHÃ
08
 Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát khởi tưởng thế              này: Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với mười lực Phật hoặc làm              cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với bốn điều không              sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả,              mười tám pháp Phật bất cộng hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho              lớn cho nhỏ; đối với mười lực Phật hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán,              chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với bốn điều không sợ cho              đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán,              chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với mười lực Phật hoặc làm              cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng              cho không có hạn lượng; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám              pháp Phật bất cộng hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng,              chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với mười lực              Phật hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với              bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng hoặc làm cho              rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với mười lực Phật hoặc              làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có              sức; đối với bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng              hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không              có sức, thì bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy gọi là có sở đắc lớn, chẳng              phải tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng sở              đắc mới có khả năng chứng quả vị giác ngộ cao tột.              Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát khởi tưởng thế              này: Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với pháp không quên mất hoặc              làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với tánh luôn              luôn xả hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với              pháp không quên mất hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho              nhóm tụ cho phân tán; đối với tánh luôn luôn xả hoặc làm cho nhóm tụ              cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với pháp không              quên mất hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm              cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với tánh luôn luôn xả              hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có              hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với pháp không quên mất hoặc              làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với tánh luôn              luôn xả hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối              với pháp không quên mất hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng              làm cho có sức cho không có sức; đối với tánh luôn luôn xả hoặc làm              cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức,              thì bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy gọi là có sở đắc lớn, chẳng phải tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng sở đắc mới              có khả năng chứng quả vị giác ngộ cao tột.               Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát khởi tưởng thế              này: Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với trí nhất thiết hoặc làm              cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với trí đạo tướng,              trí nhất thiết tướng hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho              nhỏ; đối với trí nhất thiết hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng              làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết              tướng hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho              phân tán; đối với trí nhất thiết hoặc làm cho có hạn lượng cho không              có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối              với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc làm cho có hạn lượng              cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn              lượng; đối với trí nhất thiết hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm              cho rộng cho hẹp; đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc              làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với trí nhất              thiết hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho              không có sức; đối với trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng hoặc làm              cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức,              thì bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy gọi là có sở đắc lớn, chẳng phải tu              hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng sở đắc mới              có khả năng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.               Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát khởi tưởng thế              này: Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni              hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với tất cả              pháp môn Tam-ma-địa hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho              nhỏ; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc làm cho nhóm tụ cho phân              tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với tất cả pháp môn              Tam-ma-địa hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ              cho phân tán; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc làm cho có hạn              lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không              có hạn lượng; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc làm cho có hạn              lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không              có hạn lượng; đối với tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc làm cho rộng cho              hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa              hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với tất              cả pháp môn Đà-la-ni hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm              cho có sức cho không có sức; đối với tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc              làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có              sức, thì bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy gọi là có sở đắc lớn, chẳng              phải tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng sở              đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.               Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát khởi tưởng thế              này: Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với Dự-lưu hoặc làm cho lớn              cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với Nhất-lai, Bất-hoàn,              A-la-hán hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối              với Dự-lưu hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ              cho phân tán; đối với Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán hoặc làm cho nhóm              tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với Dự-lưu              hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có              hạn lượng cho không có hạn lượng, đối với Nhất-lai, Bất-hoàn,              A-la-hán hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm              cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với Dự-lưu hoặc làm cho              rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với Nhất-lai,              Bất-hoàn, A-la-hán hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho              hẹp; đối với Dự-lưu hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm              cho có sức cho không có sức; đối với Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán              hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không              có sức, thì bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy gọi là có sở đắc lớn, chẳng              phải tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng sở              đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.              Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát khởi tưởng thế              này: Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả              hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với              Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán              hướng, A-la-hán quả hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho              nhỏ; đối với Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả hoặc làm cho nhóm tụ cho phân              tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với Nhất-lai hướng cho              đến A-la-hán quả hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho              nhóm tụ cho phân tán; đối với Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả hoặc làm cho              có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho              không có hạn lượng; đối với Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả hoặc              làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn              lượng cho không có hạn lượng; đối với Dự-lưu hướng Dự-lưu quả hoặc              làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với Nhất-lai              hướng cho đến A-la-hán quả hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho              rộng cho hẹp; đối với Dự-lưu hướng, Dự-lưu hướng quả hoặc làm cho có              sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với              Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả hoặc làm cho có sức cho không có              sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn! Đại              Bồ-tát ấy gọi là có sở đắc lớn, chẳng phải tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng sở đắc mới có              khả năng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.               Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát khởi tưởng thế              này: Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với Ðộc-giác hoặc làm cho lớn              cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với quả vị Ðộc-giác hoặc làm              cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với Ðộc-giác hoặc              làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán;              đối với quả vị Ðộc-giác hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm              cho nhóm tụ cho phân tán; đối với Ðộc-giác hoặc làm cho có hạn lượng              cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn              lượng; đối với quả vị Ðộc-giác hoặc làm cho có hạn lượng cho không              có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối              với Ðộc-giác hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp;              đối với quả vị Ðộc-giác hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho              rộng cho hẹp; đối với Ðộc-giác hoặc làm cho có sức cho không có sức,              chẳng làm cho có sức cho không có sức; đối với quả vị Ðộc-giác hoặc              làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không có              sức, thì bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy gọi là có sở đắc lớn, chẳng              phải tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng sở              đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.               Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát khởi tưởng thế              này: Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với chư đại Bồ-tát hoặc làm              cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với hạnh đại Bồ-tát              hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với chư đại              Bồ-tát hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho              phân tán; đối với hạnh đại Bồ-tát hoặc làm cho nhóm tụ cho phân tán,              chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với chư đại Bồ-tát hoặc làm              cho có hạn lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng              cho không có hạn lượng; đối với hạnh đại Bồ-tát hoặc làm cho có hạn              lượng cho không có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không              có hạn lượng; đối với chư đại Bồ-tát hoặc làm cho rộng cho hẹp,              chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với hạnh đại Bồ-tát hoặc làm cho              rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với chư đại Bồ-tát              hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho không              có sức; đối với hạnh đại Bồ-tát hoặc làm cho có sức cho không có              sức, chẳng làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn! Đại              Bồ-tát ấy gọi là có sở đắc lớn, chẳng phải tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có tưởng sở đắc mới có              khả năng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.               Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát khởi tưởng thế              này: Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với chư Như Lai Ứng Chánh              Ðẳng Giác hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối              với quả vị giác ngộ cao tột của Phật hoặc làm cho lớn cho nhỏ, chẳng              làm cho lớn cho nhỏ; đối với chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác hoặc              làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán;              đối với quả vị giác ngộ cao tột của Phật hoặc làm cho nhóm tụ cho              phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán; đối với chư Như Lai              ứng Chánh Đẳng Giác hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn              lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với              quả vị giác ngộ cao tột của Phật hoặc làm cho có hạn lượng cho không              có hạn lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối              với chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng              làm cho rộng cho hẹp; đối với quả vị giác ngộ cao tột của Phật hoặc              làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp; đối với chư Như              Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng              làm cho có sức cho không có sức; đối với quả vị giác ngộ cao tột của              Phật hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng làm cho có sức cho              không có sức, thì bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy gọi là có sở đắc lớn,              chẳng phải tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì chẳng phải có              tưởng sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị giác ngộ cao tột.                           Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát khởi tưởng thế              này: Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với tất cả các pháp hoặc làm              cho lớn cho nhỏ, chẳng làm cho lớn cho nhỏ; đối với tất cả pháp hoặc              làm cho nhóm tụ cho phân tán, chẳng làm cho nhóm tụ cho phân tán;              đối với tất cả pháp hoặc làm cho có hạn lượng cho không có hạn              lượng, chẳng làm cho có hạn lượng cho không có hạn lượng; đối với              tất cả pháp hoặc làm cho rộng cho hẹp, chẳng làm cho rộng cho hẹp;              đối với tất cả các pháp hoặc làm cho có sức cho không có sức, chẳng              làm cho có sức cho không có sức, thì bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát ấy gọi              là có sở đắc lớn, chẳng phải tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Vì sao?              Vì chẳng phải có tưởng sở đắc mới có khả năng chứng đắc quả vị giác              ngộ cao tột. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì hữu tình vô sanh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; vì hữu tình vô diệt nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; vì hữu tình vô tự tánh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; vì hữu tình vô sở hữu nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; vì hữu tình là không nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; vì hữu tình vô tướng nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì hữu tình vô nguyện nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì hữu tình viễn ly nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; vì hữu tình tịch tịnh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; vì hữu tình bất khả đắc nên              biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; vì hữu tình bất khả tư              nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; vì hữu tình              vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; vì thế              lực của hữu tình chẳng thành tựu nên biết thế lực của              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu.               Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói              Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.              Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì sắc vô sanh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; thọ, tưởng, hành, thức vô sanh              nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; vì sắc vô diệt nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; thọ, tưởng, hành, thức vô diệt              nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; vì sắc vô tự tánh nên              biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; thọ, tưởng, hành, thức vô              tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; vì sắc vô sở              hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; thọ, tưởng, hành,              thức vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; vì sắc              là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng là không; thọ, tưởng,              hành, thức là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng là không; vì              sắc vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; thọ,              tưởng, hành, thức vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô              tướng; vì sắc vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô              nguyện; thọ, tưởng, hành, thức vô nguyện nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì sắc viễn ly nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; thọ, tưởng, hành, thức viễn ly              nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; vì sắc tịch tịnh nên              biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; thọ, tưởng, hành, thức              tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; vì sắc bất              khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; thọ, tưởng,              hành, thức bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả              đắc; vì sắc bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất              khả tư nghì; thọ, tưởng, hành, thức bất khả tư nghì nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; vì sắc vô tri giác nên              biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; thọ, tưởng, hành, thức              vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; vì thế              lực của sắc chẳng thành tựu nên biết thế lực của              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành; thế lực của thọ, tưởng, hành,              thức chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              chẳng thành tựu.               Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói              Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.              Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì nhãn xứ vô sanh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô              sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; vì nhãn xứ vô diệt              nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý              xứ vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; vì nhãn xứ vô              tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; nhĩ, tỷ,              thiệt, thân, ý xứ vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô              tự tánh; vì nhãn xứ vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô              sở hữu; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô sở hữu nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; vì nhãn xứ là không nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không              nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; vì nhãn xứ vô tướng, nên              biết Bát-nhã Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; nhĩ, tỷ, thiệt,              thân, ý xứ vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì              nhãn xứ vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; nhĩ,              tỷ, thiệt, thân, ý xứ vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              vô nguyện; vì nhãn xứ viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              viễn ly; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ viễn ly nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; vì nhãn xứ tịch tịnh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tịch              tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; vì nhãn xứ bất              khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; nhĩ, tỷ,              thiệt, thân, ý xứ bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất              khả đắc; vì nhãn xứ bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa              cũng bất khả tư nghì; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ bất khả tư nghì nên              biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; vì nhãn xứ vô tri              giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; nhĩ, tỷ, thiệt,              thân, ý xứ vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri              giác; vì thế lực của nhãn xứ chẳng thành tựu nên biết thế lực của              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu; thế lực của nhĩ, tỷ,              thiệt, thân, ý xứ chẳng thành tựu nên biết thế lực của              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu.               Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói              Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.               Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì sắc xứ vô sanh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô              sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; vì sắc xứ vô diệt              nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; thanh, hương, vị, xúc,              pháp xứ vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; vì sắc              xứ vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; thanh,              hương, vị, xúc, pháp xứ vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa              cũng vô tự tánh; vì sắc xứ vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa              cũng vô sở hữu; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô sở hữu nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; vì sắc xứ là không nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là              không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; vì sắc xứ vô tướng              nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; thanh, hương, vị, xúc,              pháp xứ vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì sắc              xứ vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; thanh,              hương, vị, xúc, pháp xứ vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              vô nguyện; vì sắc xứ viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn              ly; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ viễn ly nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; vì sắc xứ tịch tịnh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ              tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; vì sắc xứ              bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; thanh,              hương, vị, xúc, pháp xứ bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa              cũng bất khả đắc; vì sắc xứ bất khả tư nghì nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; thanh, hương, vị, xúc,              pháp xứ bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả              tư nghì; vì sắc xứ vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô              tri giác; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ vô tri giác nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; vì thế lực của sắc xứ chẳng              thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành              tựu; thế lực của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thành tựu nên              biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu.                            Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói              Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.  Lại nữa, bạch Thế Tôn!              Vì nhãn giới vô sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; sắc              giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên              sanh ra vô sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; vì nhãn              giới vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; sắc giới              cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô diệt nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; vì nhãn giới vô tự tánh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; sắc giới cho đến các thọ do              nhãn xúc làm duyên sanh ra vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa              cũng vô tự tánh; vì nhãn giới vô sở hữu nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; sắc giới cho đến các thọ do              nhãn xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa              cũng vô sở hữu; nhãn giới là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa              cũng không; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra              là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; vì nhãn giới vô              tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; sắc giới cho đến              các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô tướng nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì nhãn giới vô nguyện nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; sắc giới cho đến các thọ do              nhãn xúc làm duyên sanh ra vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa              cũng vô nguyện; vì nhãn giới viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa              cũng viễn ly; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra              viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; vì nhãn giới              tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; sắc giới cho              đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra tịch tịnh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; vì nhãn giới bất khả đắc nên              biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; sắc giới cho đến các thọ              do nhãn xúc làm duyên sanh ra bất khả đắc nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; vì nhãn giới bất khả tư nghì              nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; sắc giới cho đến              các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra bất khả tư nghì nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; vì nhãn giới vô tri giác              nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; sắc giới cho đến các              thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô tri giác nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; vì thế lực của nhãn giới              chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng              thành tựu; thế lực của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm              duyên sanh ra chẳng thành tựu nên biết thế lực của              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu.               Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói              Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.               Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì nhĩ giới vô sanh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ              xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra vô sanh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; vì nhĩ giới vô diệt nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ              xúc làm duyên sanh ra vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô              diệt; vì nhĩ giới vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô              tự tánh; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra vô              tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; vì nhĩ giới              vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; thanh giới              cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; nhĩ giới là không nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ              xúc làm duyên sanh ra là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              không; vì nhĩ giới vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô              tướng; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra vô              tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì nhĩ giới vô              nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; thanh giới cho              đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra vô nguyện nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì nhĩ giới viễn ly nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ              xúc làm duyên sanh ra viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              viễn ly; vì nhĩ giới tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              tịch tịnh; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra              tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; vì nhĩ giới              bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; thanh              giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra bất khả đắc nên              biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; vì nhĩ giới bất khả tư              nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì, thanh giới              cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra bất khả tư nghì nên              biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; vì nhĩ giới vô tri              giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; thanh giới cho              đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra vô tri giác nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; vì thế lực của nhĩ giới chẳng              thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành              tựu; thế lực của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên              sanh ra chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa              cũng chẳng thành tựu.               Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói              Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.              Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì tỷ giới vô sanh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; hương giới, tỷ thức giới và tỷ              xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra vô sanh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; vì tỷ giới vô diệt nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; hương giới cho đến các thọ do tỷ              xúc làm duyên sanh ra vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô              diệt; vì tỷ giới vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự              tánh; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra vô tự              tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; vì tỷ giới vô sở              hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; hương giới cho đến              các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; vì tỷ giới là không nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; hương giới cho đến các thọ do tỷ              xúc làm duyên sanh ra là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              không; vì tỷ giới vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô              tướng; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra vô              tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì tỷ giới vô              nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; hương giới cho              đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra vô nguyện nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì tỷ giới viễn ly nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; hương giới cho đến các thọ do tỷ              xúc làm duyên sanh ra viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              viễn ly; vì tỷ giới tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              tịch tịnh; hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra              tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; vì tỷ giới              bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; hương              giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra bất khả đắc nên              biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; vì tỷ giới bất khả tư              nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; hương giới              cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra bất khả tư nghì nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; vì tỷ giới vô tri giác              nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; hương giới cho đến              các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra vô tri giác nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; vì thế lực của tỷ giới chẳng              thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành              tựu; thế lực của hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh              ra chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              chẳng thành tựu.               Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói              Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.              Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì thiệt giới vô sanh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; vị giới, thiệt thức giới và thiệt              xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra vô sanh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; vì thiệt giới vô diệt nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; vị giới cho đến các thọ do thiệt              xúc làm duyên sanh ra vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô              diệt; vì thiệt giới vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô              tự tánh; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra vô              tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; vì thiệt giới              vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; vị giới cho              đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; thiệt giới là không nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; vị giới cho đến các thọ do thiệt              xúc làm duyên sanh ra là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              không; vì thiệt giới vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô              tướng; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra vô              tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì thiệt giới vô              nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vị giới cho đến              các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra vô nguyện nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì thiệt giới viễn ly nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; vị giới cho đến các thọ do thiệt              xúc làm duyên sanh ra viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              viễn ly; vì thiệt giới tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              tịch tịnh; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra              tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; vì thiệt              giới bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; vị              giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra bất khả đắc nên              biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; vì thiệt giới bất khả tư              nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; vị giới cho              đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra bất khả tư nghì nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; vì thiệt giới vô tri giác              nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; vị giới cho đến các              thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra vô tri giác nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; vì thế lực của thiệt giới              chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng              thành tựu; thế lực của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm              duyên sanh ra chẳng thành tựu nên biết thế lực của              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu.               Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói              Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.               Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì thân giới vô sanh, nên              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; xúc giới, thân thức giới và thân              xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra vô sanh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; vì thân giới vô diệt nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; xúc giới cho đến các thọ do thân              xúc làm duyên sanh ra vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô              diệt; vì thân giới vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô              tự tánh; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra vô              tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; vì thân giới              vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; xúc giới cho              đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; vì thân giới là không nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; xúc giới cho đến các thọ do thân              xúc làm duyên sanh ra là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              không; vì thân giới vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô              tướng; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra vô              tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì thân giới vô              nguyện, nên biết Bát-nhã ba la mật cũng vô nguyện; xúc giới cho đến              các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra vô nguyện nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì thân giới viễn ly nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; xúc giới cho đến các thọ do thân              xúc làm duyên sanh ra viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              viễn ly; vì thân giới tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              tịch tịnh; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra              tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; vì thân giới              bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc, xúc giới              cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra bất khả đắc nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; vì thân giới bất khả tư nghì              nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; xúc giới cho đến              các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra bất khả tư nghì nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; vì thân giới vô tri giác              nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; xúc giới cho đến các              thọ do thân xúc làm duyên sanh ra vô tri giác nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; vì thế lực của thân giới              chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng              thành tựu; thế lực của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm              duyên sanh ra chẳng thành tựu nên biết thế lực của              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu.               Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói              Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.              Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì ý giới vô sanh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; pháp giới, ý thức giới và ý xúc              cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra vô sanh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; vì ý giới vô diệt nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; pháp giới cho đến các thọ do ý              xúc làm duyên sanh ra vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô              diệt; vì ý giới vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự              tánh; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra vô tự              tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; vì ý giới vô sở              hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; pháp giới cho đến              các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; vì ý giới là không nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc              làm duyên sanh ra là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không;              vì ý giới vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; pháp              giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra vô tướng nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì ý giới vô nguyện nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; pháp giới cho đến các thọ do ý              xúc làm duyên sanh ra vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              vô nguyện; vì ý giới viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn              ly; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra viễn ly nên              biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; vì ý giới tịch tịnh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; pháp giới cho đến các thọ do ý              xúc làm duyên sanh ra tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              tịch tịnh; vì ý giới bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              bất khả đắc; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra              bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; vì ý              giới bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư              nghì; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra bất khả              tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; vì ý              giới vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác;              pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra vô tri giác nên              biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; vì thế lực của ý giới              chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng              thành tựu; thế lực của pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên              sanh ra chẳng thành tựu nên biết thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa              cũng chẳng thành tựu.               Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói              Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.              Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì địa giới vô sanh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; thủy, hỏa, phong, không, thức              giới vô sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; vì địa giới              vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; thủy, hỏa,              phong, không, thức giới vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              vô diệt; vì địa giới vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              vô tự tánh; thủy, hỏa, phong, không, thức giới vô tự tánh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; vì địa giới vô sở hữu nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; thủy, hỏa, phong, không, thức              giới vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; vì địa              giới là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; thủy, hỏa,              phong, không, thức giới là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              không; vì địa giới vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô              tướng; thủy, hỏa, phong, không, thức giới vô tướng nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; vì địa giới vô nguyện nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; thủy, hỏa, phong, không, thức              giới vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì địa              giới viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; thủy, hỏa,              phong, không, thức giới viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              viễn ly; vì địa giới tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              tịch tịnh; thủy, hỏa, phong, không, thức giới tịch tịnh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; vì địa giới bất khả đắc nên              biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; thủy, hỏa, phong, không,              thức giới bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả              đắc; vì địa giới bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              bất khả tư nghì; thủy, hỏa, phong, không, thức giới bất khả tư nghì              nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; vì địa giới vô              tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; thủy, hỏa,              phong, không, thức giới vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa              cũng vô tri giác; vì thế lực của địa giới chẳng thành tựu nên biết              thế lực của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu; thế lực của              thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thành tựu nên biết thế lực              của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu.               Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói              Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.              Lại nữa, bạch Thế Tôn! Vì vô minh vô sanh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; hành, thức, danh sắc, lục xứ,              xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não vô              sanh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sanh; vì vô minh vô diệt              nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô diệt; hành cho đến lão tử,              sầu, than, khổ, ưu, não vô diệt nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              vô diệt; vì vô minh vô tự tánh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô              tự tánh; hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não vô tự tánh nên              biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tự tánh; vì vô minh vô sở hữu nên              biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô sở hữu; hành cho đến lão tử, sầu,              than, khổ, ưu, não vô sở hữu nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô              sở hữu; vô minh là không nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không;              hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não là không nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng không; vì vô minh vô tướng nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng; hành cho đến lão tử, sầu, than,              khổ, ưu, não vô tướng nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tướng;              vì vô minh vô nguyện nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện;              hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não vô nguyện nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô nguyện; vì vô minh viễn ly nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; hành cho đến lão tử, sầu, than,              khổ, ưu, não viễn ly nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng viễn ly; vì              vô minh tịch tịnh nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; hành              cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não tịch tịnh nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng tịch tịnh; vì vô minh bất khả đắc nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả đắc; hành cho đến lão tử, sầu,              than, khổ, ưu, não bất khả đắc nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng              bất khả đắc; vì vô minh bất khả tư nghì nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng bất khả tư nghì; hành cho đến lão tử, sầu,              than, khổ, ưu, não bất khả tư nghì nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa              cũng bất khả tư nghì; vì vô minh vô tri giác nên biết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô tri giác; hành cho đến lão tử, sầu,              than, khổ, ưu, não vô tri giác nên biết Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng vô              tri giác; vì thế lực của vô minh chẳng thành tựu nên biết thế lực              của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu; thế lực của hành cho              đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng thành tựu nên biết thế lực              của Bát-nhã-ba-la-mật-đa cũng chẳng thành tựu.               Bạch Thế Tôn! Con nương vào ý này mà nói              Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.
