Khi ấy, cụ tho Thiện Hiện thưa        Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã        Ba la mật đa thẳm sâu có bao nhiêu pháp rất quý lạ hiếm có, Thanh văn Độc        giác đều chỗ chẳng có?
Phật bảo: Thiện Hiện! Lắng nghe        cho kỹ, khéo suy nghĩ lấy, Ta sẽ vì ngươi phân biệt giải nói. Bồ tát Ma ha        tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, có bao nhiêu pháp rất quý lạ        hiếm có. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm        sâu trụ dị thục sanh bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát        nhã Ba la mật đa. Năm diệu thần thông, ba mươi bảy phẩm Bồ đề phần pháp.        Đà la ni môn, tam ma địa môn. Bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định,        bốn vô ngại giải. Tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười        biến xứ. Không, vô tướng, vô nguyện tam ma địa thảy vô lượng công đức. Qua        mười phương thế giới, nếu các hữu tình kẻ đáng dùng bố thí mà nhiếp ích,        thời dùng bố thí nhiếp ích. Kẻ đáng dùng tịnh giới mà nhiếp ích, thời dùng        tịnh giới mà nhiếp ích. Kẻ đáng dùng an nhẫn mà nhiếp ích, thời dùng an        nhẫn mà nhiếp ích. Kẻ đáng dùng tinh tiến mà nhiếp ích, thời dùng tinh        tiến mà nhiếp ích. Kẻ đáng dùng tĩnh lự mà nhiếp ích, thời dùng tĩnh lự mà        nhiếp ích. Kẻ đáng dùng bát nhã mà nhiếp ích, thời dùng bát nhã mà nhiếp        ích. Kẻ đáng dùng sơ tĩnh lự mà nhiếp ích, thời dùng sơ tĩnh lự mà nhiếp        ích. Kẻ đáng dùng đệ nhị, đệ tam, đệ tứ tĩnh lự mà nhiếp ích, thời dùng đệ        nhị cho đến đệ tứ tĩnh lự mà nhiếp ích. . Kẻ đáng dùng định không vô biên        xứ mà nhiếp ích, thời dùng định không vô biên xứ mà nhiếp ích. Kẻ đáng        dùng định thức vô biên xư, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ mà        nhiếp ích, thời dùng định thức vô biên xứ cho đến phi tưởng phi phi tưởng        xứ mà nhiếp ích. Kẻ đáng dùng từ vô lượng mà nhiếp ích, thời từ vô lượng        mà nhiếp ích. Kẻ đáng dùng bi hỷ xả vô lượng mà nhiếp ích, thời dùng bi hỷ        xả vô lượng mà nhiếp ích. Kẻ đáng dùng bốn niệm trụ mà nhiếp ích, thời        dùng bốn niệm trụ mà nhiếp ích. Kẻ đáng dùng bốn chánh đoạn, bốn thần túc,        năm căn, năm lực, bảy chánh đẳng giác chi, tám thánh đạo chi mà nhiếp ích        thời dùng bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi mà nhiếp ích. Kẻ đáng        dùng không tam ma địa mà nhiếp ích, thời dùng không tam ma địa mà nhiếp        ích. Kẻ đáng dùng vô tướng, vô nguyện tam ma địa mà nhiếp ích, thời dùng        dùng vô tướng, vô nguyện tam ma địa mà nhiếp ích. Kẻ đáng dùng các thứ        thiện pháp khác mà nhiếp ích thời dùng các thứ thiện pháp khác mà nhiếp        ích.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật        rằng: Bạch Thế Tôn! Sao là Bồ tát Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa        thẳm sâu trụ dị thục sanh bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự,        bát nhã Ba la mật đa. Năm diệu thần thông, ba mươi bảy phẩm Bồ đề phần        pháp. Đà la ni môn, tam ma địa môn. Bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc        định. Bốn vô ngại giải, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định,        mười biến xứ. Không, vô tướng, vô nguyện tam ma địa thảy vô lượng công        đức, dùng bố thí thảy nhiếp ích hữu tình?
Phật nói: Thiện Hiện! Bồ tát Ma        ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, thí các vật cần dùng cho        hữu tình: cần cơ, cho cơm, cần nước cho nước, cần áo mặc cho áo mặc, cần        xe cưỡi cho xe cưỡi, cần hương hoa cho hương hoa, cần tràng phan lọng cho        tràng phan lọng; cần đồ ngồi nằm cho đồ ngồi nằm, cần chuỗi anh lạc thảy        các đồ trang nghiêm cho chuỗi anh lạc thảy các đồ trang nghiêm; cần nhà        cửa cho nhà cửa, cần đèn sáng cho đèn sáng, cần kỹ nhạc cho kỹ nhạc, cần        thuốc uống cho thuốc uống.
Tùy các món đồ cần dùnng thảy        đều thí cho, khiến không thiếu thốn. Như thí Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác        các đồ cúng dường, thí các Độc giác cũng lại như vậy. Như thí Độc giác các        đồ cúng dường, thí các A la hán cũng lại như vậy. Như thí A la hán các đồ        cúng dường, thí các Bất hoàn cũng lại như vậy. Như thí Bất hoàn các đồ        cúng dường, thí các Nhất Lai cũng lại như vậy. Như thí Nhất Lai các đồ        cúng dường, thí các Dự Lưu cũng lại như vậy. Như thí Dự Lưu các đồ cúng        dường, thí các chánh chí chánh hành cũng lại như vậy. Như thí các chánh        chí chánh hành các đồ cúng dường, thí kẻ trì giới cũng lại như vậy. Thí kẻ        trì giới các đồ cúng dường, thí kẻ phạm giới cũng lại như vây. Như thí kẻ        phạm giới các đồ cúng dường, thí kẻ ngoại đạo cũng lại như vậy. Như thí        ngoại đạo các đồ cúng dường, thí các nhân thú cũng lại như vậy. Như thí        nhân thú các đồ cúng dường, thí các phi nhân cũng lại như vậy. Như thí phi        nhân các đồ cúng dường, thí các bàng sanh cũng lại như vậy.
Đối các hữu tình nơi tâm bình        đẳng không tưởng sai khác mà hành bố thí, trên từ chư Phật dưới đến bàng        sanh bình đẳng bình đẳng không chỗ sai khác. Vì cớ sao? Vì các Bồ tát Ma        ha tát rõ thấu được các pháp và các hữu tình tự tướng đều không, đều vô        sai biệt, nên không có tưởng khác, không có phân biệt mà hành bố thí. Bồ        tát Ma ha tát này do không tưởng khác, không chỗ phân biệt hành bố thí,        nên phải được quả vô dị vô phân biệt, nghĩa là được viên mãn Nhất thiết        tướng trí và các công đức vô lượng của chư Phật .
Thiện Hiện! Nếu Bồ tát Ma ha        tát thấy kẻ ăn xin bèn khởi tâm này: Nếu là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là        đấng phước điền ta nên thí cho, cúnng dường cũng chẳng thấy kẻ kính. Nếu        là bàng sanh thảy chẳng phải phước điền chẳng nên thí cho những đồ cằn        dùng. Bồ tát Ma ha tát này khởi tâm như thế.Vì cớ sao? Thiện Hiện! Các Bồ        tát Ma ha tát phát tâm Bồ đề, cầu tới Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề cần nhất        tịnh tự tâm, phước điền mới tịnh. Thấy các kẻ xin chẳng nên thí chẳng làm        nhiêu ích, vì trái với tâm căn bản sơ phát Bồ đề. Nghĩa là các Bồ tát phát        tâm Bồ đề rằng ta vì hữu tình phải làm chỗ cổn nương dựa, nhà cửa cứu hộ.
Thấy các kẻ xin nên khởi nghĩ        rằng: Nay hữu tình đây nghèo cùng cô quạnh, ta phải đem thí mà nhiếp ích        đó. Kia nhờ duyên đấy cũng nên chuyển thí, ít muốn vui đủ, lìa đoạn sanh        mạng, lìa lấy của không cho, lìa dục tà hạnh, lìa lời dối gạt, lìa lời        chia rẽ, lìa lời thô ác, lìa lòi tạp uế, cũng lìa tham dục, giận dữ, tà        kiến. Do nhân duyên đây sanh đại tộc Sát đế lợi, hoặc đại tộc Cư sĩ, hoạc        tùy sanh ở một chỗ giàu sang giàu có của báu, tu các nghiệp lành. Hoặc do        thí đây nhiếp ích nhân duyên, lần nương Tam thừa mà được độ thoát, nghĩa        là khiến tới vào Thanh văn Độc giác và Vô thượng thừa, ba cõi Vô dư y Niết        bàn.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát        Ma ha tát có oán địch thừa, hoặc các hữu tình đến tới chỗ mình để làm tổn        hại, hoặc vì thiếu thốn có điều cầu xin, Bồ tát Ma ha tát này trọn chẳng        phát khởi tâm phân biệt kỳ thị đây nên thí cho, đây chẳng nên thí cho. Chỉ        thường phát khởi tâm bình đẳnng, tùy điều cầu xin thảy đều thí cho. Vì        sao? Vì Bồ tát Ma ha tát này khắp làm lợi vui các hữu tình, cầu tới Vô        thượnng Chánh đẳng Bồ đề. Nếu mà phát khởi tâm phân biệt kỳ thị đây nên        thí cho, đây chẳng nên thí, bèn bị Như Lau Ứnng Chánh Đẳng Giác và các Bồ        tát, Độc giác, Thanh văn, thế gian, trời, người, a tố lạc thảy đồng chung        quở trách rằng: Ai cầu thỉnh ngươi phát tâm Bồ đề, thí khắp lợi vui các        loại hữu tình? Kẻ khônng nương về vì làm nương về, kẻ không cứu hộ vì làm        cứu hộ, kẻ không cồn bãi vì làm cồn bãi, mà khiến rẽ riêng có thí chẳng        thí?
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát        Ma ha tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, có người phi người đến        tới chỗ mình cầu xin thân phần, tay chân lóng đốt. Bồ tát Ma ha tát này        chẳng khởi hai tâm là thí chẳng thí. Duy khởi nghĩ rằng: Theo điều cầu xin        đều phải thí cho. Vì sao? Bồ tát Ma ha tát hằng khởi nghĩ rằng: Ta vì làm        lợi vui các loài hữu tình đến xin quyết định phải cho, chẳng nên chẳng        cho. Cho nên thấy kẻ xin bèn khởi tâm này: Thân ta nay đây vốn vì người        thọ dụng, kia chẳng đến lấy hãy nên tự đem đi, huống là đến cầu xin mà lại        chẳng cho. Khởi nghĩ này rồi vui mừnng nhảy nhót, tự cắt lóng tay mà trao        cho đó, lại tự mừng rằng nay được lợi lớn. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát        hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu như thế phải nên học.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ tát        Ma ha tát này thấy có kẻ xin bèn khởi nghĩ này: Nay ở trong đây ai thí ai        nhận? Thí những vật gì? Do đâu mà thí? Vì đâu mà thí? Vì sao mà thí? Tự        tánh các pháp đều bất khả đắc. Vì cớ sao? Các pháp như thế đều rốt ráo        không, chẳng phải trong pháp không có cho có nhận.
Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát        khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, nên học các pháp đều không như        thế. Nghĩa là hoặc do nội không nên không, hoặc do ngoại không nên không,        hoặc do nội ngoại không nên không, hoặc do không không nên không, hoặc do        đại không nên không, hoặc do thắng nghĩa không nên không, hoặc do hữu vi        không nên không, hoặc do vô vi không nên không, hoặc do vô vi không nên        không, hoặc do tất cánh không nên không, hoặc do tán không nên không, hoặc        do vô biến dị không nên không, hoặc do bổn tánh không nên không, hoặc do        tự tướng không nên không, hoặc do cộng tướng không nên không, hoặc do nhất        thiết pháp không nên không, hoặc do bất khảđắc không nên không, hoặc do vô        tánh tự tánh không nên không. Bồ tát Ma ha tát này trụ trong không đây mà        hành bố thí hằng thời không gián đoạn, viên mãn bố thí Ba la mật đa. Do bố        thí Ba la mật đa được viên mãn , nên khi vì người cắt đứt vật nội ngoại,        tâm mình đều không tức giận phân biệt, chỉ khởi nghĩ này: Hữu tình và pháp        tất cả đều không. Ai cắt đứt ta? Ai chịu cắt đứt? Ai lại quán không?
Lại nữa, Thiện Hiện! Ta dùnng        Phật nhãn xem thấy mười phương thế giới vô lượng Căng già sa thảy, các Bồ        tát Ma ha tát này vì muốn lợi vui các loại hữu tình, cớ đấy nghĩ nguyện        vào đại địa ngục, vào rồi phát khởi ba pháp chỉ dẫn. Những gì là ba? Một        là thần biến chỉ dẫn, hai là ghi nói chỉ dẫn, ba là răn dạy chỉ dẫn. Bồ        tát Ma ha tát này đem thần biến chỉ dẫn để diệt trừ các thứ dụnng cụ khổ        nước sôi, lửa, dao thảy. Đem ghi nói chỉ dẫn để ghi chỗ nghĩ nơi tâm của        loài hữu tình kia mà vì nói pháp. Đem răn dạy chỉ dẫn đối kia phát khởi        đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả mà vì nói pháp, khiến các loài hữu tình nơi        địa ngục kia đối chỗ Bồ tát sanh lòng tịnh tín. Do nhân duyên này từ địa        ngục ra được sanh trên trời, hoặc sanh trong ngưởi lần nương Tam bảo làm        ngằn mé khổ.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ta dùnng        Phật nhãn xem khắp mười phươnng thế giới vô lượng Căng già sa thảy, các Bồ        tát Ma ha tát thừa sự cúng dường chư Phật Thế Tôn. Bồ tát Ma ha tát này        khi thừa sự cúng dường chư Phật Thế Tôn thâm tâm vui mừng chẳng điều nào        chẳng ưa muốn, thân tâm ưa muốn chẳng điều nào chẳng cung kính. Bồ tát Ma        ha tát này đối các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thuyết ra chánh pháp cung        kính lắng nghe, thọ trì đọc tụng cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề trọn        chẳng quên mất. Tùy pháp được nghe, năng vì hữu tình giải nói không trái        khiến được an vui lợi ích thù thắng, cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề        thường không nhác bỏ.
Lai nữa, Thiện Hiện! Ta dùng        Phật nhãn xem khắp mười phương thế giới vô lượng Căng già sa thảy, các Bồ        tát Ma ha tát vì muốn nhiêu ích các loài hữu tình trong thú bàng sanh nên        tự xả thân mạng. Bồ tát Ma ha tát này thấy các thú bàng sanh bị các loại        lửa đói ép ngặt muốn làm hại lẫn nhau, khởi tâm thương xót tự cắt thân        phân, dứt các lóng đốt tung rải mười phương mặc chúng ăn nuốt. Các loại        bàng sanh đứa được ăn thịt Bồ tát này đều đối Bồ tát khởi tâm kính mến và        xấu hổ. Do nhân duyên đây thoát thú bàng sanh, được sanh trên trời, hoặc        sanh trong người gặp gỡ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nghe thuyết chánh        pháp, như lý tu hành lần nương Tam thừa mà được độ thoát, nghĩa là tùy        chứng vào Thanh văn, Độc giác và Vô Thượng Thừa, ba cõi Vô dư y Niết bàn .        Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát này năng vì thế gian làm việc        khó làm, được nhiều nhiêu ích, nghĩa là làm lợi vui các hữu tình, nên tự        phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh Giác, cũng khiến người phát tâm nhàm        lìa sanh tử cầu tâm Bồ đề, tự hành các thứ thật chánh hành, cũng khiến        người hành, lần vào cõi Tam thừa Niết bàn .
Lại nữa, Thiện Hiện! Ta dùng        Phật nhãn xem khắp mười phương thế giới vô lượng Căng già sa thảy, các Bồ        tát Ma ha tátvì muốn nhiêu ích các loài hữu tình trong giới quỷ đói. Do        đấy nghĩ rằng nguyện sanh trong cõi kia phương tiện dứt trừ khổ đói thảy,        các quỷ đói kia đã dứt nhiều khổ đói, đối Bồ tát này rất khởi tâm kính mến        xấu hổ. Nhờ căn lành đây thoát thú quỷ đói, được sanh trên trời, hoặc sanh        trong người, thường gặp Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, cung kính cúng dường        nghe tiếng chánh pháp, lần lữa tu hành chánh hạnh Tam thừa, cho đến được        vào ba cõi Vô dư y Niết bàn. Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát đối        loại hữu tình an trụ đại bi phát khởi vô biên phương tiện khéo léo cứu vớt        khiến vào Tam thừa Niết bàn, rốt ráo an vui.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ta dùng        Phật nhãn xem khắp mười phương thế giới vô lượng Căng già sa thảy, các Bồ        tát Ma ha tát hoặc làm trời Bốn đại vươnng chúng tuyên nói chánh pháp,        hoặc làm trời Ba mươi ba tuyên nói chánh pháp, hoặc làm trời Dạ ma tuyên        nói chánh pháp, hoặc làm trời Đổ sử đa tuyên nói chánh pháp, hoặc làm trời        Đổ sử đa tuyên nói chánh pháp, hoặc làm trời Lạc biến hóa tuyên nói chánh        pháp, hoặc làm trời Tha hóa tự tại tuyên nói chánh pháp. Các chúng trời        này ở chỗ Bồ tát nghe chánh pháp rồi, lần nương Tam thừa siêng tu chánh        hạnh tùy ứnng tới vào ba cõi Vô dư Niết bàn . Thiện Hiện! Trong chúng trời        kia có các Thiên tử say đắm năm diệu dục lạc trên trời và các điện ngọc        chỗ nương ở. Bồ tát Ma ha tát này thị hiện lửa dậy đốt cung điện kia khiến        sanh nhàm sợ, nhân vì thuyết pháp tác lên lời này. Các Thiên tử! Nên xem        xét kỹ các hạnh vô thường, khổ, không, phi ngã chẳng khá bảo đảm tin cậy,        đâu phải chỗ kẻ trí nương đây mà vui đắm? Khi ấy, các Thiên tử nghe pháp        âm đây, đều đối năm dục rất sanh nhàm lìa, tự xem thân mệnh hư ngụy vô        thường, in như bẹ chuối, điển sáng, ánh nắng, xem các cung điện giống như        lao ngục. Khởi lên ý nghĩ này rồi, liên nương Tam thừa siêng tu chánh hạnh        mà lấy diệt độ.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ta dùng        Phật nhãn vô ngại thanh tịnh xem khắp mười phương thế giới vô lượng Căng        già sa thảy, các Bồ tát Ma ha tát thấy các Phạm thiên đắm các kiến thú,        phương tiện hóa độ khiến kia xa lìa, bảo Thiên tiên rằng: Vì sao các ngươi        đốitrong tất cả pháp không, vo tướng, hư dối chẳng thật, phát khởi các ác        kiến thú như thế, nên mau bỏ đi, tín thọ chánh pháp, khiến ngươi được Vô        thượnng cam lồ. Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát an trụ đại bi,        vì các hữu tình tuyên nói chánh pháp.
Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát Ma ha        tát có bao pháp rất quý lạ hiếm có.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ta dùng        Phật nhãn xem khắp mười phương thế giới vô lượng Căng già sa thảy, các Bồ        tát Ma ha tát đem bốn nhiếp sự nhiếp các hữu tình. Nhưng gì là bốn? Một là        bố thí, hai là ái ngữ, ba là lợi hành, bốn là đồng sự.
Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha        tát năng đem bố thí nhiếp các hữu tình? Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát đem        hai món thí nhiếp các hữu tình. Những gì là hai? Một là tài thí, hai là        pháp thí.
Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha        tát năng đem tài thí nhiếp các hữu tình? Thiện Hiện! Khi Bồ tát Ma ha tát        hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, năng đem nhữnng thứ vàng, bạc, ngọc,        chơn châu, ma ni, san hô, ngọc phệ lưu ly, ngọc phả chi ca, kha bối, ngọc        bích, đế thanh, đại thanh, thạch tàng, xử tàng, ngọc hồng liên thảy, sanh        sắc khá nhuộm, thí các hữu tình. Hoặc đem các thứ áo mặc, ăn uống, điện        các lầu đài, phòng nhà, đồ nằm, xe cưỡi, hương hoa, đèn sáng, kỹ nhạc, bảo        tràng, phan lọng và chuỗi anh lạc thảy thí các hữu tình. Hoặc đem thân        phần tay chân lóng đốt, đầu mắt tủy não thí các hữu tình. Bồ tát Ma ha tát        này đem các thứ để ngã tư đường, trèo lên lầu cao xướng lời như vầy: Tất        cả hữu tình có ai cần dùng mặc ý đến lấy chớ sanh nghi nan, như lấy của        mình đừng nghĩ gì khác.
Bồ tát Ma ha tát này thí các        hữu tình của cần dùng rồi, lại khuyên quy y Phật Pháp Tăng tam bảo, hoặc        khuyên thọ trì năm giới cận sự, hoặc khuyên thọ trì tám giới cận trụ, hoặc        khuyên thọ trì mười thiện nghiệp đạo, hoặc khuyên tu hành sơ tĩnh lự, hoặc        khuyên tu hành từ vô lượng, hoặc khuyên tu hành bi hỷ xả vô lượng.
Hoặc khuyên tu hành định không        vô biên xứ, hoặc khuyên tu hành định thứcvô biên xứ, hoặc khuyên tu hành        định vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ. Hoặc khuyên tu hành Phật        tùy niệm, hoặc khuyên tu hành Pháp tùy niệm, hoặc khuyên tu hành Tăng tùy        niệm, giới tùy niệm, hoặc khuyên tu hành Tăng tùy niệm, giới tùy niệm, xả        tùy niệm, thiên tùy niệm, hoặc khuyên tu hành quán bất tịnh, hoặc khuyên        tu nhớ giữ hơi thở. Hoặc khuyên tu hành tướng vô thương, hoặc khuyên tu        hành tưởng khổ vô thường, tưởnng khổ vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng nhàm        ăn, tưởng tất cả thế gian chẳng đáng vui, tưởng chết, tưởng dứt, tưởng        lìa, tưởng diệt.
Hoặc khuyên tu hành bốn niệm        trụ; hoặc khuyên tu hành bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực,        bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Hoặc khuyên tu hành không tam am        địa; hoặc khuyên tu hành vô tướng, vô nguyện tam ma địa. Hoặc khuyên tu        hành không giải thoát môn; hoặc khuyên tu vô tướng, vô nguyện giải thoát        môn. Hoặc khuyên tu hành tam giải thoát; hoặc khuyên tu hành tam thắng xứ,        chín thứ đệ định, mười biến xứ. Hoặc khuyên tu hành bố thí Ba la mật đa;        hoặc khuyên tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã,        phương tiện xảo, nguyện, lực, trí Ba la mật đa. Hoặc khuyên an trụ khổ        thánh đế, hoặc khuyên an trụ tập diệt đạo thánh đế.
Hoặc khuyên an trụ nội không;        hoặc khuyên an trụ ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không,        thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không,        tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướnng khônng, cộng tướng        không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh        không, vô tánh tự tánh không. Hoặc khuyên an trụ chơn như; hoặc khuyên an        trụ pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng        tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư        nghì giới.
Hoặc khuyên tu hành tất cả đà        la ni môn, hoặc khuyên tu hành tất cả tam ma địa môn. Hoặc khuyên tu hành        Cực hỷ đi; hoặc khuyên tu hành Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa,        Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ        địa, Pháp vân địa. Hoặc khuyên tu hành năm nhãn, hoặc khuyên tu hành sáu        thần thông.
Hoặc khuyên tu hành Như lai        mười lực; hoặc khuyên tu hành bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại        bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Hoặc khuyên tu hành pháp        vô vong thất, hoặc khuyên tu hành tánh hằng trụ xả. Hoặc khuyên tu hành        nhất thiết trí; hoặc khuyên tu hành đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.
Hoặc khuyên tu hành ba mươi hai        tướng đại sĩ, hoặc khuyên tu hành tám mươi tướng tùy hảo. Hoặc khuyên tu        hành quả Dự lưu; hoặc khuyên tu hành quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc        giác Bồ đề. Hoặc khuyên tu hành tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát. Hoặc khuyên        tu hành tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát. Hoặc khuyên tu hành chư Phật Vô        thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát        Ma ha tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu phương tiện khéo léo,        với các hữu tình hành tài thí rồi, lại khéo an lập các loại hữu tình khiến        trụ trong pháp yên ổn cho đến Nhất thiết trí trí. Thiện Hiện! Đấy là Bồ        tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, có bao nhiêu pháp rất        quý lạ hiếm có.
Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha        tát khi hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, năng đem pháp thí nhiếp các        hữu tình? Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này thí pháp có hai loại. Những gì        là hai? Một là thế gian pháp thí, hai là xuất thế gian pháp thí.
Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha        tát hành thế gian pháp thí? Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này khi hành Bát        nhã Ba la mật đa thẳm sâu vì các hữu tình tuyên nói, khai chỉ rõ ràng phân        biệt các pháp thế gian. Nghĩa là quán bất tịnh, hoặc nhớ giữ hơi thở, hoặc        bốn tĩnh lự, hoặc bốn phạm trụ, hoặc bốn định vô sắc, hoặc những thế gian        pháp cộng dị sanh. Như thế gọi là thế gian pháp thí. Thiện Hiện! Bồ tát Ma        ha tát này hành thế gian pháp thí rồi, dùng các thứ phương tiện hóa đạo        hữu tình, khiến nó xa lìa các pháp thế gian, dùng các thứ phương tiện hóa        đạo hữu tình, khiến nó xa lìa các pháp thế gian, dùng các thứ phương tiện        giáo hóa hữu tình khiến trụ thánh pháp và thánh quả. Thiện Hiện! Sao là        thánh pháp và thánh quả.
Thiện Hiện! Thánh pháp nghĩa là        bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng        giác chi, tám thánh đạo chi. Không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Bố        thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Tám        giải thoát, chín thứ đệ định. Đà la ni môn, tam ma địa môn, Bồ tát thập        địa. Năm nhãn, sáu thần thông. Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại        giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng. Pháp vô        vong thất, tánh hằng trụ xả. Nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết        tướng trí, các pháp vô lậu. Thiện Hiện! Quả thánh pháp là quả Dự lưu.        Thiện Hiện! Quả thánh pháp là quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả        A la hán, Độc giác Bồ đề, chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Bồ tát Ma        ha tát ấy là thánh pháp trí quả Dự lưu, trí quả Nhất lai, trí quả Bất        hoàn, trí quả A la hán, trí Độc giác Bồ đề. Trí bốn niệm trụ; trí bốn        chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh        đạo chi. Trí không giải thoát môn; trí vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.        Trí bốn tĩnh lự, trí bốn vô lượng, trí bốn vô sắc định. Trí tám giải        thoát; trí tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Trí bố thí Ba la        mật đa; trí tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến. Tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa.        Trí tất cả tam ma địa môn. Trí khổ thánh đế, trí tập diệt đạo thánh đế.        Trí nội không; trí ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không,        thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không,        vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất        thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh        tự tánh không. Trí chơn như, pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất        biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế,        hư không giới, bất tư nghì giới. Trí Bồ tát thập địa. Trí năm nhãn, sáu        thần thông. Trí Như Lai thập lực; trí bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải,
đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả,        mười tám pháp Phật bất cộng. Trí pháp vô vong thất, trí tánh hằng trụ xả.        Trí nhất thiết trí, trí đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí. Trí tất cả        pháp thế gian xuất thế gian nữa. Trí pháp hữu lậu vô lậu, trí pháp hữu vi        vô vi. Đấy gọi là thánh pháp. Quả thánh ấy nghĩa là dứt hẳn tất cả tập khí        nối nhau tất cả phiền não. Đấy gọi là Thánh pháp.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa        Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát cũng năng được Nhất thiết tướng        trí ư? Phật nói: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát biết, chính nhớ, trừ mọi        tham ái ở đời. Trụ quán thân nhóm, trụ quán thân diệt, do kia đối thân,        trụ quán khắp thân. Trụ quán thân nhóm, trụ quán thân diệt, không chỗ        nương tựa. Đối các thế gian không chỗ chấp thọ. Đấy là đệ nhất.
Đối nội thọ trụ quán khắp thọ,        đối ngoại thọ trụ quán khắp thọ, đối nội ngoại thọ trụ quán khắp thọ, đầy        đủ chính siêng chính biết chính nhớ, trừ mọi tham ưu ở đời. Trụ quán thọ        nhóm, trụ quán thọ diệt, kia đối với thọ trụ quán khắp thọ. Trụ quán thọ        nhóm, trụ quán thọ diệt, không chỗ nương tựa, đối các thế gian không chỗ        chấp thọ. Đấy là đệ nhị.
Đối nội tâm trụ quán khắp tâm,        đối ngoại tâm trụ quán khắp tâm, đối nội ngoại tâm trụ quán khắp tâm, đầy        đủ chính siêng, chính biết, chính nhớ, trừ mọi tham ái ở đời. Trụ quán tâm        nhóm, trụ quán tâm diệt, kia do đối tâm trụ nhóm khắp tâm; trụ quán tâm        nhóm, trụ quán tâm diệt; không chỗ nương tựa, đối các thế gian không chỗ        chấp thọ. Đây là đệ tam.
Đối nội pháp trụ quán khắp        pháp, đối nội ngoại pháp trụ quán khắp pháp, đầy đủ chính siêng, chính        biết, chính nhớ, trừ mọi tham ưu ở đời. Trụ quán pháp nhóm, trụ quán pháp        diệt, kia do đối pháp trụ quán khắp pháp; trụ quán pháp nhóm, trụ quán        pháp diệt, không chỗ nương tựa, đối các thế gian không cho chấp thọ, đấy        là đệ tứ. Thiện Hiện! Đấy là tên bốn niệm trụ.
Thiện Hiện! Sao là bốn chánh        đoạn? Thiện Hiện! Đó là khiến các pháp ác bất thiện chưa sanh chẳng, nên        khởi ý muốn phát siêng tinh tiến, giục tâm giữ tâm, đấy là đệ nhất. Vì        khiến dứt các ác bất thiện pháp đã sanh nên khởi muốn phát siêng tinh        tiến, giục tâm giữ tâm, đấy là đệ nhị. Vì khiến pháp thiện chưa sanh nên        khởi muốn phát siêng tinh tiến, giục tâm giữ tâm, đấy là đệ tam. Vì khiến        pháp thiện đãsanh bền trụ chẳng quên, tu mãn trí bồi tăng rộng lớn làm        chứng, nên khởi muốn phát siêng tinh tiến, giục tâm giữ tâm, đấy là đệ tứ.        Thiện Hiện! Đấy là tên bốn chánh đoạn.
Thiện Hiện! Vì sao tên bốn thần        túc? Thiện Hiện! Dục tam ma địa trọn nên đoạn hành, tu tập thần túc. Nương        dựa nhàm, hương dựa lìa, nương dựa diệt, hồi hướng về xả, đấy là thứ nhất.        Cần tam địa trọn nên đoạn hành, tu tập thần túc, nương dựa nhàm, nương dựa        lìa, nương dựa diệt, hồi hướng về xả, đấy là thứ hai. Tấn tam địa trọn nên        đoạn hành, tu tập thần túc, nương dựa nhàm, nương dựa lìa, nương dựa diệt,        hồi hướng về xả, đấy là thứ ba. Quán tam ma địa trọn nên đoạn hành, tu tập        thần túc. Nương dựa nhàm, nương dựa lìa, hồi hướng về xả, đấy là thứ tư .        Thiện Hiện! Đấy gọi là bốn thần túc.
Thiện Hiện! Vì sao gọi là năm        căn? Thiện Hiện! Tín căn, tinh tiến căn, niệm căn, định căn, huệ căn.        Thiện Hiện! Đấy là năm căn.
Thiện Hiện! Sao gọi là năm lực?        Thiện Hiện! Tín lực, tinh tiến lực, niệm lực, định lực, huệ lực. Thiện        Hiện! Đấy gọi là năm lực.
Thiện Hiện! Sao gọi là bảy        nhánh đẳng giác? Thiện Hiện! Nhánh niệm đẳng giác, nhánh chọn pháp đẳng        giác, nhánh tinh tiến đẳng giác, nhánh hỷ đẳng giác, nhánh nhẹ an đẳng        giác, nhánh định đẳng giác, nhánh xả đẳng giác. Thiện Hiện! Đấy gọi là bảy        nhánh đẳng giác.
Thiện Hiện! Vì sao gọi là tám        nhánh thánh đạo? Thiện Hiện! Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh        nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Thiện Hiện!        Đấy là tám nhánh thánh đạo.
Thiện Hiện! Vì sao gọi là ba        giải thoát môn? Thiện Hiện! Không giải thoát môn, vô tướng giải thoát môn,        vô nguyện giải thoát môn. Thiện Hiện! Đấy là ba giải thoát môn.
Thiện Hiện! Sao gọi là không        giải thoát môn? Thiện Hiện! Hoặc hành tướng không, hành tướng hư ngụy,        hành tướng vô ngã, hành tướng vô tự tánh, tâm tánh nhất cảnh. Thiện Hiện!        Đấy là không giải thoát môn.
Thiện Hiện! Sao gọi là vô tướng        giải thoát môn? Thiện Hiện! Đấy là hoặc hành tướng diệt, hành tướng vắng        lặng, hành tướng xa lìa, tâm tánh nhất cảnh. Thiện Hiện! Đấy là không giải        thoát môn.
Thiện Hiện! Sao gọi là vô        nguyện giải thoát môn? Thiện Hiện! Đấy là hoặc hành tướng khổ, hành tướng        vô thường, hành tướngđiên đảo, tâm tánh nhất cảnh. Thiện Hiện! Đấy là        không giải thoát môn.
Thiện Hiện! Sao gọi là tám giải        thoát? Thiện Hiện! Hữu sắc, quán các sắc, đấy là giải thoát thứ nhất.        Trong tưởng vô sắc quán các sắc ngoài, đấy là giải thoát thứ hai. Tâm tịnh        thắng giải làm chứng, đấy là giải thoát thứ ba. Vượt tưởng tất cả sắc,        diệt tưởng hữu đối, chẳng suy nghĩ các thứ tưởng, vào định vô biên không,        không vô biên xứ trụ đầy đủ, đấy là giải thoát thứ sáu. Vượt tất cả vô sở        hữu xứ, vào định phi tưởng phi phi tưởng xứ trụ đầy đủ, đấy là giải thoát        thứ sáu. Vượt tất cả vô sở hữu xứ, vào định phi tưởng phi phi tưởng xứ trụ        đầy đủ, đấy là giải thoát thứ bảy. Vượt tất cả phi tưởng phi phi tưởng xứ,        vào định diệt tưởng thọ trụ đầy đủ, đấy là giải thoát thư tám. Thiện Hiện!        Đấy là tám giải thoát.
Thiện Hiện! Vì sao gọi là chín        thứ đệ định? Thiện Hiện! Nghĩa là có một thứ lìa dục pháp ác bất thiện, có        tầm có tứ, lìa sanh vui mừng, trụ sơ tĩnh lự đầy đủ, đó là thứ nhất. Lại        có một loại vắng lặng tầm tứ, tánh nội đẳng tịnh tâm nhất thú, không tầm        không tứ, định sanh hỷ lạc trụ đệ nhị tĩnh lự đầy đủ, đó là thứ hai. Lại        có một loại lìa hỷ trụ xả, chính nhớ, chính biết thân thọ vui, duy các        thánh giả năng thuyết nên xả, trụ đủ niệm vui, trụ đệ tam tĩnh lự đầy đủ,        đấy thứ ba. Lại có một loại dứt vui dứt khổ mất mừng buồn trước, chẳng khổ        chẳng vui, xả niệm thanh tịnh, trụ đệ tứ tĩnh lự đầy đủ, đấy là thứ tư.        Lại có một loại vượt tưởng tất cả sắc, diệt tưởng hữu đối, chẳng suy nghĩ        các thứ tưởng, vào định vô biên không, không vô biên xứ trụ đầy đủ, đấy là        thứ năm. Lại có một loại vượt tất cả không vô biên xứ, vào định vô biên        thức, thức vô biên xứ trụ đầy đủ, đấy là thứ sáu. Lại có một loại vượt tất        cả thức vô biên xứ, vào định vô thiểu sở hữu, vô sở hữu trụ đầy đủ, đấy là        thứ bảy. Lại có một loại vượt tất cả vô sở hữu xứ , vào tưởng phi tưởng        phi phi tưởng xứ trụ đầy đủ, đấy là thứ tám. . Lại có một loại vượt tất cả        phi tưởng phi phi tưởng xứ trụ đầy đủ xứ vào định diệt tưởng thọ đầy đủ,        đấy là thứ chín. Thiện Hiện! Đấy là chín định thứ lớp.
Thiện Hiện! Vì sao gọi là bốn        thánh đế trí? Thiện Hiện! Trí khổ, trí tập, trí diệt, trí đạo. Thiện Hiện!        Đấy tên là bốn thánh đế trí.
Thiện Hiện! Vì sao gọi là Ba la        mật đa? Thiện Hiện! Bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tin tiến, tĩnh lự, bát        nhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba la mật đa. Thiện        Hiện! Đấy gọi là Ba la mật đa .
Thiện Hiện! Vì sao gọi là trí        không thảy? Thiện Hiện! Đó là trí nội không, trí ngoại không, trí nội        ngoại không, trí không không, trí đại không, trí thắng nghĩa không, trí        hữu vi không, trí vô vi không, trí tất cánh không, trí vô tế không, trí        tán không, trí vô biến dị không, trí bổn tánh không, trí tự tướng không,        trí cộng tướng không, trí nhất thiết pháp không, trí bất khả đắc không,        trí vô tánh không, trí tự tánh không, trí vô tự tánh tự tánh không. Hoặc        trí chơn như, trí pháp giới, trí pháp tánh, trí bất hư vọng tánh, trí bất        biến dị tánh, trí bình đẳng tánh, trí ly sanh tánh, trí pháp định, trí        pháp trụ, trí thật tế, trí hư không giới, trí bất tư nghì giới. Thiện        Hiện! Đấy gọi là trí tất cả không thảy.
Thiện Hiện! Sao gọi là Bồ tát        thập địa? Thiện Hiện! Đó là Cực hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm        huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa,        Thiện huệ địa, Pháp vân địa. Thiện Hiện! Đấy là Bồ tát thập địa.
Thiện Hiện! Sao gọi là năm        nhãn? Thiện Hiện! Đó là nhục nhãn, thiên nhãn, thánh huệ nhãn, pháp nhãn,        Phật nhãn. Thiện Hiện! Đấy gọi là năm nhãn.
Thiện Hiện! Sao gọi là sáu thần        thông? Thiện Hiện! Đó là thần cảnh trí chứng thông, thiên nhãn trí chứng        thông, thiên nhĩ trí chứng thông, tha tâm trí chứng thông, túc trụ tùy        niệm trí chứng thông, lậu tận trí chứng thông. Thiện Hiện! Đấy là sáu thần        thông.
Thiện Hiện! Sao gọi là Như Lai        mười lực? Thiện Hiện! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thị xứ như thật        biết thị xứ, phi xứ như thật biết phi xứ. đấy là thứ nhất. Tất cả Như Lai        Ứng Chánh Đẳng Giác đối các hữu tình các nghiệp uá khứ vị lai hiện tại và        các pháp thọ xứ nhân dị thục đều như thật biết, đấy là thứ hai. Tất cả Như        Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối các thế gian chẳng những một cõi mà tất cả cõi        đều như thật biết, đấy là thứ ba. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối        các thế gian chẳng những một thắng giải mà tất cả thắng giải đều như thật,        biết, đấy là thứ tư. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều như thật biết        đối các hữu tình, bổ đặc già la, các căn thắng liệt đều như thật biết, đấy        là thứ năm. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối tất cả biến thú hành        đều như thật biết, đấy là thứ sáu. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối        tất cả các căn lực nhánh giác, nhánh đạo, tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì,        đẳng chí, tạp nhiễm, thanh tịnh đều như thật biết, đấy là thứ bảy. Tất cả        Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng tịnh thiên nhãn vượt quá hơn người, thấy        các hữu tình khi chết khi sanh các việc thiện ác, hữu tình như thế bởi        thân ngữ ý ba món ác hành, bớt các tà kiến, bởi các việc phỉ báng Hiền        thánh đọa các ác thú. Hữu tình như thế nhờ ba món diệu hạnh thân ngữ ý,        nhờ các chánh kiến, nhờ khen Hiền thánh thăng các thiện thú, sanh trong        các trời. Lại dùng thiên nhãn thanh tịnh hơn người, thấy các hữu tình khi        chết khi sanh, sắc tốt sắc xấu, từ đây sanh lại thiện thú ác thú. Đối các        hữu tình theo nghiệp thế lực sanh thú thiện ác đều như thật biết, đấy là        thứ tám. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối các hữu tình quá khứ vô        lượng các việc đời trước, hoặc một đời, hoặc trăm đời, hoặc ngàn đời, hoặc        trăm ngàn đời, hoặc một trăm ức đời, hoặc trăm trăm ức đời, hoặc ngàn trăm        ức đời, hoặc trăm ngàn ức trăm ức muôn ức đời; hoặc một kiếp, hoặc trăm        kiếp, hoặc ngàn kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp ; hoặc ức kiếp, hoặc trăm ức        kiếp, hoặc trăm trăm ức kiếp, hoặc trăm ngàn ức kiếp, hoặc trăm ngàn trăm        ức kiếp, hoặc trăm ngàn trăm muôn ức kiếp, cho đến ngằn mé đời trước có        bao nhiêu các hành, các thuyết, các tướng đều như thật biết, đấy là thứ        chín. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối các lậu tận, vô lậu tâm giải        thoát, vô lậu huệ giải thoát đều như thật biết. Đối tự lậu tận pháp chơn        giải thoát đều như thật biết. Đối tự lậu tận pháp chơn giải thoát tự chứng        thông huệ, đầy đủ mà trụ, như thật giác thọ. Ta sanh đã hết, phạm hạnh đã        lập, việc làm đã làm xong, chẳng thọ thân sau, đấy là thứ mười. Thiện        Hiện! Đấy gọi là Như Lai thập lực.