47. Phước huệ mới được nghe
Sau khi đức Thế Tôn nói trường hàng xong, ngài bèn dùng kệ tụng để trùng tuyên ý trước. Trong phần kệ tụng này, ngài lại nhắc lại điều sai, lẽ đúng, bác cái sai, đề cao cái đúng. Trong phần chỉ rõ cái đúng, lại gồm có ba phần: Một là tin vào vãng sanh; hai là Phật trí khó nghĩ lường; ba là niệm Phật đắc độ.
Chánh kinh:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bèn nói kệ tụng:
- Xưa kia nếu chẳng tu phước huệ
Thì chẳng được nghe chánh pháp này
Ðã từng cúng dường các Như Lai
Mới hoan hỷ tin nổi sự này
Ác, kiêu, biếng nhác và tà kiến
Khó tin Như Lai vi diệu pháp
Như kẻ đui ở mãi trong tối
Chẳng thể chỉ đường cho kẻ khác
Giải: Bốn câu đầu thể hiện ý nghĩa tên phẩm này ‘Phước huệ mới được nghe’. Ðây cũng chính là như trong kinh đã dạy: ‘Nếu có chúng sanh trồng các cội lành, đã từng cúng dường Vô Lượng Thọ Phật, do oai lực của đức Như Lai ấy gia bị nên mới được pháp môn quảng đại như thế này nhiếp thủ, thọ trì’.
‘Trồng các cội lành’ trong đoạn kinh trên chính là ‘xưa kia tu phước huệ’. Nếu trước đã chẳng tu ‘thì chẳng được nghe chánh pháp này’. ‘Ðã từng cúng dường các Như Lai’ chính là như trong đoạn kinh trên nói: ‘Ðã từng cúng dường Vô Lượng Thọ Phật’. Người như vậy rộng tu cội lành, lại được oai lực của đức Như Lai gia bị nên ‘mới hoan hỷ tin nổi sự này’.
Kinh Kim Cang nói: ‘Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau đó có kẻ trì giới, tu phước, đối với chương cú mà sanh nổi lòng tin, coi đó là thật thì nên biết là người ấy chẳng phải đã gieo trồng thiện căn ở nơi một đức Phật, hai đức Phật, ba, bốn, năm đức Phật, mà là đã từng ở nơi vô lượng trăm vạn đức Phật gieo các căn lành’. Vì thế, người nghe được pháp môn Tịnh Ðộ tối cực viên đốn, phương tiện rốt ráo này, nghe xong hoan hỷ tin nhận thì là đã từng tu phước, tu huệ, trồng các căn lành nơi vô lượng Phật.
Trái lại, hết thảy những kẻ ác trược, kiêu mạn, biếng nhác và tà kiến thì chẳng tin nổi pháp này; khác nào kẻ đui mù thường sống trong bóng tối, tự mình chẳng biết đường thì làm sao dẫn dắt nổi người khác đi theo đường chánh!
Chánh kinh:
Ðã từng nơi Phật gieo các thiện,
Thì mới tu nổi hạnh cứu đời
Nghe xong thọ trì và biên chép
Ðọc, tụng, khen, giảng và cúng dường
Nhất tâm như vậy cầu cõi tịnh
Quyết định vãng sanh cõi An Lạc.
Giả sử đại hỏa trọn tam thiên
Nương oai đức Phật vượt qua được
Giải: Chỉ có hạng người đã từng ở nơi vô lượng đức Phật trồng nhiều cội lành lớn lao mới có thể tu tập hạnh cứu độ khắp hết thảy thế gian này.
‘Hạnh cứu đời’ chính là như kinh này đã nói: hết thảy hàm linh trong đời tương lai đều nhờ vào pháp này mà được độ thoát. Ai muốn tự cứu và cứu khắp hết thế gian thì đều phải tu hạnh cứu độ thế gian đó. Cái hạnh ấy chính là như đoạn kệ tiếp đó đã nói: ‘Nghe rồi thọ trì và biên chép’… cho đến ‘nhất tâm như thế cầu cõi tịnh’.
Ðoạn trên là nói về việc nghe và tin kinh này, đoạn kệ đây giảng rộng ý nghĩa: từ nghe và tin nên phát khởi hạnh nguyện. ‘Thọ’ là tin nhận, ‘trì’ là gìn giữ. Phụng hành đúng theo lời dạy, phát Bồ Ðề tâm, một bề chuyên niệm A Di Ðà Phật. Ðồng thời còn biên chép, đọc tụng, khen ngợi, diễn nói, cúng dường kinh Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Ðẳng Giác này. Với các thứ công đức thắng diệu như vậy đều dùng tâm chí thành, tâm bất nhị hồi hướng Tịnh Ðộ, cầu sanh Cực Lạc nên bảo là ‘nhất tâm như thế cầu cõi tịnh’. Phật liền thọ ký rằng: ‘Quyết định vãng sanh cõi Cực Lạc’.
Hạng người như thế lúc lâm chung ‘giả sử cả tam thiên đại thiên thế giới đều ngập tràn đại hỏa vẫn có thể vượt qua sanh về cõi ấy’ cho nên mới nói: ‘Giả sử đại hỏa trọn tam thiên, nương oai đức Phật vượt qua được’.
Chánh kinh:
Biển Như Lai trí huệ rộng sâu
Chỉ Phật với Phật mới biết nổi
Thanh Văn ức kiếp suy Phật trí
Trọn hết thần lực chẳng lường nổi
Như Lai công đức Phật tự biết
Chỉ có Thế Tôn khai thị nổi
Thân người khó được, Phật khó gặp
Tín huệ nghe pháp khó bậc nhất
Giải: Ðoạn này ý nói Phật trí sâu rộng chỉ có Phật mới biết được nổi, hiền thánh Nhị Thừa đều chẳng suy lường nổi, huống hồ phàm phu! Vì thế, ta phải nên bỏ sạch mọi tình chấp, chỉ nên kính tin. Nay ta may được phước huệ đầy đủ nên mới được nghe pháp này thì chớ luống uổng dịp này!
Chữ ‘biển’ là hình ảnh dùng để ví dụ; trí huệ của Như Lai sâu rộng không bờ bến tựa như biển cả nên gọi là ‘biển trí huệ’.
‘Chỉ Phật với Phật biết được nổi’ là như trong phẩm Phương Tiện kinh Pháp Hoa đã chép: ‘Ðối với pháp hy hữu khó hiểu bậc nhất do đức Như Lai đã thành tựu thì chỉ có Phật với Phật mới có thể thấu hiểu trọn vẹn thật tướng của các pháp’ và: ‘Vô lậu bất tư nghì, thậm thâm vi diệu pháp, ta nay đã chứng trọn. Mình ta biết tướng này; thập phương Phật cũng thế!’ Ta thấy là pháp vi diệu vô lậu, rất sâu chẳng thể nghĩ bàn mà Phật đã thành tựu và cứu cánh thật tướng của các pháp thì chỉ có Phật mới biết nổi thôi.
‘Thanh Văn ức kiếp suy Phật trí, trọn hết thần lực chẳng lường nổi’ là như trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện đã nói: ‘Ta cùng mười phương Phật mới biết nổi việc này. Pháp này chẳng thể chỉ, tướng ngôn từ tịch diệt. Các loài chúng sanh khác không ai hiểu được nổi, trừ các vị Bồ Tát có tín lực kiên cố’.
Kinh còn dạy:
‘Bích Chi Phật trí lanh,
Vô lậu tối hậu thân,
Cũng đầy cả mười phương,
Số đông như rừng trúc,
Bọn họ chung một lòng,
Trong ức vô lượng kiếp,
Muốn suy Phật thật trí,
Cũng chẳng biết chút phần’.
Ý nói: Thật trí của Phật chẳng thể dùng ngôn ngữ để diễn tả nổi. Pháp ấy chẳng thể chỉ bày được, chẳng giảng nói được, ngoại trừ các vị Bồ Tát tín lực kiên cố; còn ngoài ra những kẻ khác không cách nào thấu hiểu nổi.
‘Như Lai công đức Phật tự biết’ là như trong phẩm Thọ Lượng của kinh Pháp Hoa đã nói:
‘Hết thảy thế gian: trời, người, a tu la đều cho rằng Thích Ca Mâu Ni Phật rời khỏi cung họ Thích, cách thành Già Da chẳng xa, ngồi nơi đạo tràng chứng đắc Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Nhưng này thiện nam tử! Thật ra ta thành Phật đến nay là đã vô lượng, vô biên trăm ngàn ức na do tha kiếp. Ví như giả sử có kẻ nghiền cả năm trăm ngàn vạn ức na do tha a tăng kỳ tam thiên đại thiên thế giới thành vi trần, đi qua khỏi năm trăm ngàn vạn ức na do tha a tăng kỳ cõi mới bỏ một vi trần xuống. Ði mãi về phía Ðông như thế cho đến hết số vi trần ấy.
Này các thiện nam tử! Ý các ông nghĩ sao? Các thế giới ấy có thể suy nghĩ, tính toán để biết được số đó chăng?
Di Lặc Bồ Tát v.v…đều bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Các thế giới ấy vô lượng, vô biên, chẳng thể dùng toán số biết nổi, cũng chẳng thể dùng tâm lực suy nổi. Hết thảy Thanh Văn, Bích Chi Phật dùng vô lậu trí cũng chẳng thể suy nghĩ biết nổi số hạn ấy. Chúng con đã ở vào địa vị A Duy Việt Trí mà đối với sự ấy cũng chẳng thể biết rõ. Bạch Thế Tôn! Các thế giới như vậy vô lượng vô biên”.
Lúc bấy giờ, Phật bảo các vị đại Bồ Tát: “Các thiện nam tử! Ta nay phân minh bảo các ông. Các thế giới ấy dù là có đặt một vi trần hay chẳng đặt vi trần, cho đến hết số vi trần ấy, cứ tính một vi trần là một kiếp thì từ khi ta thành Phật cho đến nay còn hơn số đó cả trăm ngàn vạn ức na do tha a tăng kỳ kiếp’.
Kinh đã nói rõ: đối với thọ lượng của Phật thì bậc Bổ Xứ Bồ Tát còn chưa biết nổi cho nên công đức của Phật chỉ mình Phật tự biết. Bởi thế tiếp theo đó, Phật mới nói: ‘Chỉ có Thế Tôn khai thị nổi’. Khai thị chính là khai Phật tri kiến, thị Phật tri kiến vậy.
Sáu câu kệ trên cực lực tán dương trí huệ của Phật nhằm làm cho chúng sanh hiểu rõ trí huệ sâu thẳm của Như Lai rồi thật sự tin tưởng vào lời Phật dạy. Trong phẩm Thọ Lượng [của kinh Pháp Hoa], đức Thế Tôn ba lượt bảo đại chúng: ‘Các ông nên tin hiểu lời nói thành thật, đúng đắn của Như Lai’. Ðó là bởi vì dẫu trong suốt cả ức kiếp, hàng Thanh Văn còn chẳng thấu hiểu nổi trí của Như Lai, huống hồ là phàm phu lại há nên dùng cái tâm sanh diệt để suy lường Phật trí một cách hư vọng ư? Vì thế, chúng ta chỉ nên kính ngưỡng, tin lời Phật dạy như phẩm Phương Tiện trong kinh Pháp Hoa đã chép: ‘Với pháp Phật đã thuyết, nên sanh đại tín lực’. Biển cả Phật pháp hễ tin thì được vào.
‘Thân người khó được’ là như trong tự phần của kinh Phạm Võng đã nói: ‘Một phen mất thân người, vạn kiếp khó có lại được’. Kinh Niết Bàn cũng dạy: ‘Thân người khó được như hoa Ưu Ðàm’. Ðược thân người ít như chút đất nơi móng tay, mất thân người nhiều như đất nơi đại địa.
‘Phật khó gặp’ là như phẩm Thọ Lượng kinh Pháp Hoa đã dạy: ‘Tỳ kheo nên biết: Chư Phật xuất thế khó thể gặp gỡ, vì sao vậy? Những người đức mỏng trải qua vô lượng trăm ngàn vạn ức kiếp hoặc thấy được Phật, hoặc chẳng được thấy Phật. Do bởi sự ấy, ta nói thế này: Các tỳ kheo, khó thể thấy được Như Lai’.
Lại ngay khi đức Phật ngự trong thành Vương Xá ở Ấn Ðộ mà chỉ có một phần ba người dân trong thành ấy gặp được Phật. Một phần ba số người chỉ nghe danh Phật chứ không được thấy. Một phần ba còn lại chẳng nghe danh, cũng chẳng gặp Phật, đủ thấy gặp Phật là một sự khó.
‘Tín huệ nghe pháp khó bậc nhất’ chính là như trên đã nói: ‘Nếu nghe kinh này mà tin ưa, thọ trì thì là điều khó nhất trong các điều khó, không còn gì khó hơn nữa’. Do huệ sanh giải cho nên nghe kinh liền phải tin ưa. Thân người khó được, Phật pháp khó nghe, Tịnh tông khó tin; điều khó được nay mình đã được, điều khó nghe nay đã được nghe, điều khó tin nay mình đã tin mà lại còn hiểu biết được bằng trí huệ nữa thì thật là ‘điều khó nhất trong các điều khó’. Phật khuyên hành nhân nên tin sâu, nguyện thiết, niệm Phật cầu sanh, chớ để luống qua. Ðể lỡ qua dịp này thật là điều mất mát lớn.
Chánh kinh:
Nếu các hữu tình sẽ thành Phật,
Hạnh vượt Phổ Hiền lên bỉ ngạn
Vì thế, các bậc trí học nhiều
Phải tin lời ta dạy như thật.
Diệu pháp như thế may được nghe
Nên thường niệm Phật, sanh hoan hỷ
Thọ trì rộng độ dòng sanh tử
Phật bảo người ấy chơn thiện hữu
Giải: Hai bài kệ trên đây tổng kết toàn bộ bản kinh. Phẩm thứ hai của kinh này được đặt tên là Ðức Tuân Phổ Hiền và các vị Bồ Tát trong hội ‘đều cùng tuân tu hạnh đức của Phổ Hiền đại sĩ’. Cuối bản kinh lại nói: ‘Nếu các hữu tình sẽ thành Phật, hạnh vượt Phổ Hiền lên bỉ ngạn’. Trước thì nói ‘đức tuân Phổ Hiền’, sao ở đây lại nói ‘hạnh vượt Phổ Hiền’ nghĩa là làm sao?
Câu ‘hạnh vượt Phổ Hiền’ trích nguyên văn từ bản Ðường dịch. Dịch giả của bản Ðường dịch chính là ngài Tam Tạng Pháp Sư Bồ Ðề Lưu Chí đời Ðường. Phần đầu của bản Ðường dịch cũng ghi: ‘Ðều cùng tuân tu đạo của Phổ Hiền’, cho thấy ý ‘đức tuân Phổ Hiền’ và ‘hạnh vượt Phổ Hiền’ đều cùng phát xuất từ bản Phạn, chứ chẳng phải là người dịch ghi nhầm.
Chẳng những ngài Bồ Ðề Lưu Chí không dịch nhầm, mà đó còn chính là lòng từ bi cùng cực của đức Thế Tôn. Phật phơi trọn tâm can cho chúng sanh được thấy:
Phổ Hiền là bậc đại hạnh Bồ Tát tượng trưng cho Sai Biệt Trí, được gọi là Hoa Nghiêm trưởng tử, dùng mười đại nguyện vương để dẫn dắt về Cực Lạc. Nguyện mà được gọi là “vương” thì nguyện của ngài Phổ Hiền phải rộng lớn không ngằn hạn, tột cùng vô tận kiếp, dẫn dắt quy về Cực Lạc, cứu vớt, lợi ích vô tận nên gọi là “đại nguyện vương”. Bởi thế, thánh chúng đến dự pháp hội này đều cùng tuân tu hạnh đức của ngài Phổ Hiền.
Nhưng trong kinh đây, đức Thế Tôn lại riêng dạy phương tiện bậc nhất trong các phương tiện, hiển thị pháp viên đốn nhất trong các pháp viên đốn, nêu thẳng một pháp tín nguyện trì danh để gồm trọn lục độ vạn hạnh, thâu tóm trọn vẹn mười đại nguyện vương vào một câu danh hiệu, bao gồm trọn vẹn vô biên hạnh môn của ngài Phổ Hiền quy về Nhất Hạnh Tam Muội của ngài Văn Thù.
Văn Thù tượng trưng cho Căn Bản Trí. Nhất Hạnh Tam Muội là ‘buộc tâm một chỗ, chuyên xưng danh hiệu’. Thế nên, một pháp trì danh đúng là đề hồ, gồm trọn các điểm mầu nhiệm. Phổ Hiền Ðại Nguyện Vương là từ Căn Bản Trí trở thành Sai Biệt Trí.
Nay thời gồm trọn nguyện vương, chỉ xướng xuất tín nguyện trì danh thì đó là Sai Biệt Trí quay trở về Căn Bản Trí, nghĩa là quay trở về gốc nên mới bảo là ‘hạnh vượt Phổ Hiền’.
Diệu hạnh trì danh là lấy quả giác làm cái tâm tu nhân; nhân quả đồng thời, chẳng nhọc phương tiện, chẳng cần theo thứ lớp, thật đúng như sách Di Ðà Yếu Giải nhận định:
‘A Di Ðà Phật dịch nghĩa là vô lượng, vốn chẳng thể nói. Ðức Bổn Sư lấy hai nghĩa quang minh và thọ lượng để thâu trọn hết thảy những điều vô lượng. Quang minh thời theo chiều ngang chiếu trọn mười phương, thọ thời theo chiều dọc suốt cả ba đời. Ngang dọc trọn khắp chính là thể của pháp giới.
Toàn bộ cái thể ấy tạo thành thân và cõi nước của Phật Di Ðà, mà toàn thể ấy cũng tạo thành danh hiệu A Di Ðà. Bởi thế, danh hiệu A Di Ðà chính là Bổn Giác lý tánh của chúng sanh. Trì danh là Thỉ Giác hợp với Bổn Giác. Thỉ Giác, Bổn Giác chẳng hai, chúng sanh và Phật chẳng hai. Vì thế, một niệm tương ưng với một niệm Phật, niệm niệm tương ưng với niệm niệm Phật’.
Nguyện vương của Phổ Hiền đại sĩ dẫn dắt về Cực Lạc nên niệm niệm chính là Di Ðà. Nhưng mười đại nguyện vương nghĩa lý sâu rộng, kẻ thường nhân chẳng thể phát khởi được; còn một pháp Trì Danh lại độ khắp ba căn. Ngũ nghịch, thập ác cũng đều có thể nương theo đó để thoát khỏi sanh tử. Ví như người trị được chứng bịnh chẳng trị nổi thì phải tôn là vua của các thầy thuốc; pháp độ được cả kẻ cực ác thì phải nên xưng tụng là vua của các pháp lành. Bởi thế, mới bảo pháp Trì Danh là ‘hạnh vượt Phổ Hiền’. Tín nguyện trì danh thì nhất định vượt được lên bờ kia nên bảo là ‘hạnh vượt Phổ Hiền, lên bỉ ngạn’.
Thế Tôn rủ lòng từ, khuyên dụ những kẻ học rộng nghe nhiều, kẻ có trí phải nên tin rằng mọi lời dạy của Như Lai đều khế hợp với Thật Tướng lý thể. Những điều được nói trong kinh đều là đúng lý, đều là chơn thật nên bảo: ‘Phải tin lời ta dạy như thật’. Vì Niệm Phật là pháp ‘hạnh vượt Phổ Hiền’ nên gọi là ‘diệu pháp’.
Diệu pháp khó gặp, khó nghe, khó tin, ta nay đã may mắn được nghe thì phải nên thọ trì, phụng hành đúng theo lời dạy, thời thời niệm Phật, sanh lòng vui mừng sâu xa. Như trong Quán kinh đã nói, Vy Ðề Hy phu nhân do chợt thấy quang minh thanh tịnh của cõi Phật A Di Ðà hiện ra trước mắt liền đắc ngay vô sanh pháp nhẫn. Ngài Thiện Ðạo bảo vô sanh nhẫn mà bà Vy Ðề Hy đã chứng đắc khi đó chính là Hỷ nhẫn, Ngộ nhẫn và Tín nhẫn. Ðại sư bảo Hỷ nhẫn là ‘niệm A Di Ðà Phật sanh tâm hoan hỷ’. Bởi thế, kinh nói: ‘Niệm Phật sanh hoan hỷ’ nghĩa là do niệm Phật nên tự tâm tự sanh hoan hỷ.
Cuối cùng, Phật khuyên hành nhân chẳng những chỉ tự mình thọ trì pháp này để thoát khỏi sanh tử mà còn phải nên làm lợi cho mình lẫn người bằng cách hoằng truyền pháp này, khuyên dạy trì danh, lần lượt giúp nhau độ thoát xuất ly sanh tử. Ðức Thế Tôn khen người làm được như vậy là ‘chơn thiện hữu’, tức là chơn thiện tri thức. Ðây chính là lời khen ngợi tột bực của đức Thế Tôn vì ngài coi thiện tri thức giống như Như Lai.
Bốn câu sau cùng chính là lời kỳ vọng và dạy răn của đức Thế Tôn đối với hết thảy chúng sanh trong đời sau được gặp kinh này, được nghe pháp này. Bởi thế, chúng ta phải nên tha thiết lãnh thọ, khắc cốt tạc dạ, khắng khít tuân theo di giáo, siêng năng tu hành, gìn giữ bền chặt, chẳng phụ bạc từ ân.
Cuối bản kinh này, đức Phật lại khuyên niệm Phật; bổn tâm của mười phương Như Lai đều dốc trọn cả ra. Những chữ ‘phước huệ mới được nghe’, ‘pháp vi diệu’, ‘hạnh cứu thế’, ‘biển trí huệ’, ‘khó nhất trong các điều khó’, ‘hạnh vượt Phổ Hiền’… trong phẩm này đều để chỉ diệu pháp vô thượng tín nguyện trì danh. Ðối với sự mầu nhiệm của pháp môn Niệm Phật đây, dẫu cho có vô lượng thân, mỗi một thân có vô lượng miệng, mỗi một miệng có vô lượng lưỡi. Mỗi lưỡi phát ra vô lượng âm đến hết cả kiếp vị lai diễn nói chẳng ngớt cũng khó bề diễn tả nổi ít phần.
Bởi thế, tôi chẳng dám lạm bàn nhiều, chỉ xin trích dẫn hai đoạn trong sách Di Ðà Yếu Giải của Linh Phong đại sư để kết lại lời chú giải phẩm này.
a. Sách Yếu Giải viết:
‘Do nghĩa là Vô Lượng Quang nên chúng sanh sanh về Cực Lạc tức là sanh về mười phương, thấy A Di Ðà Phật là thấy mười phương chư Phật, tự độ mình chính là độ khắp hết cả. Do nghĩa là Vô Lượng Thọ nên nhân dân cõi Cực Lạc chính là Nhất Sanh Bổ Xứ, đều nhất định ngay trong đời này thành Phật, chẳng phải sanh lần nữa. Nên biết rằng: hễ rời bỏ cái tâm vô lượng quang thọ nhất niệm hiện tiền thì chẳng thể tìm đâu ra danh hiệu A Di Ðà Phật; mà hễ đã rời bỏ danh hiệu A Di Ðà Phật thì còn do đâu mà chứng suốt tột cái tâm nhất niệm vô lượng quang thọ? Xin hãy suy xét kỹ, xin hãy suy xét kỹ!’.
b. Sách Yếu Giải viết: ‘Danh hiệu được chấp trì là chơn thật chẳng thể nghĩ bàn; cái tâm tánh chấp trì danh hiệu cũng chơn thật chẳng thể nghĩ bàn. Trì một câu thì là một câu chẳng thể nghĩ bàn; trì mười, trăm, ngàn, vạn vô lượng tiếng thì mỗi mỗi tiếng đều chẳng thể nghĩ bàn’.