Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (36)


Xem mục lục

20. Gió đức mưa hoa

 Gió viên minh cụ đức nên gọi là ‘gió đức’; hoa mầu nhiệm phấp phới rơi xuống như mưa nên gọi là ‘mưa hoa’. Hoa, gió, hương, ánh sáng nơi cõi Phật ấy đều cùng làm Phật sự tự nhiên tăng thượng chẳng thể nghĩ bàn.

 Chánh kinh: Cõi nước Phật ấy mỗi lúc ăn cơm, tự nhiên gió đức nhè nhẹ nổi lên thổi qua các lưới báu và các cây báu khiến vang ra âm thanh mầu nhiệm diễn nói khổ, không, vô thường, vô ngã, các ba la mật, lan tỏa vạn thứ đức hương ôn nhã. Ai ngửi mùi hương ấy thì trần lao cấu tập tự nhiên chẳng khởi. Gió chạm vào thân liền an hòa, điều thích, khác nào tỳ kheo đắc Diệt Tận Ðịnh.

 Giải: Phẩm kinh này trần thuật công đức trang nghiêm của gió đức và mưa hoa cõi Cực Lạc; riêng đoạn này nói về gió, đoạn kế sẽ nói về mưa.

Chữ ‘đức phong’ (gió đức) trích từ bản Ngụy dịch trong Cao Ly Ðại Tạng kinh (bản Ngụy dịch trong Càn Long Ðại Tạng kinh ghi là ‘đắc phong’. Ðức chính là điều đạt được từ Công, xin xem lại lời giải thích về chữ ‘công đức’ ở quyển 2, nên ‘đức phong’‘đắc phong’ mang cùng một ý nghĩa).

Bản Ngô dịch ghi: ‘Chẳng phải là gió trong thế gian, cũng chẳng phải là gió cõi trời mà là những gì tinh diệu nhất của các thứ gió trong cả tám phương và phương trên, phương dưới tự nhiên hội hợp lại hóa thành gió: chẳng lạnh, chẳng nóng, thường điều hòa, thích hợp, rất mát mẻ không gì khoan khoái bằng’.

Câu ‘Những gì tinh diệu nhất trong các thứ gió’ phải hiểu như kinh Lăng Nghiêm nói: ‘Trong Như Lai Tạng, tánh phong là Chơn Không, tánh Không là chơn phong, vốn sẵn thanh tịnh trọn khắp pháp giới’. Nghĩa là: Ðó là thứ gió chơn thật từ trong tánh đức nên bảo là ‘những gì tinh diệu nhất của các thứ gió’.

Quán kinh cũng dạy: ‘Tám thứ thanh phong từ quang minh mà ra’. Những ngọn gió cực thanh tịnh từ tám phương nói trong bản Ngô dịch thật phù hợp với tám thứ thanh phong nói trong Quán kinh. Nói chung, ngọn gió thanh lương trong cõi kia chính là ‘những gì tinh diệu nhất của các thứ gió’, ‘phát xuất từ quang minh’.

Ðức phong như vậy ‘tự nhiên nhè nhẹ nổi lên’. Sách Hội Sớ nói: “Nhè nhẹ nổi lên” là chẳng chậm, chẳng nhanh, chỉ vừa phải. Gió nổi là do công dụng tự nhiên của nguyện lực, chẳng do tạo tác nên bảo là “tự nhiên”.

Trước hết kinh nói đến gió khua động các âm thanh mầu nhiệm. Gió đức nhè nhẹ thổi qua cây báu, lưới báu khiến vang ra những pháp âm vi diệu như khổ, không, vô thường, vô ngã, các ba la mật

‘Khổ, không, vô thường, vô ngã’ chính là bốn tướng của Khổ Ðế trong Tứ Ðế. Trong các bản dịch theo lối Tân dịch, bốn tướng này được dịch là ‘phi thường, khổ, không, phi ngã’. Câu Xá Luận, quyển hăm sáu giảng: ‘Phụ thuộc vào duyên nên vô thường, tánh nó bức bách nên là khổ, trái nghịch với cái được ta thấy nên là không; trái nghịch cái thấy của ta nên là vô ngã’.

Hơn nữa, cái gì bức bách thì gọi là ‘khổ’. Pháp khổ chuyển dời nên gọi là ‘vô thường’. Hơn nữa, các tướng như nam, nữ, giống, khác… đều là hư vọng chẳng thật nên bảo là ‘không’. Tổng hợp các cách giải thích trên thì bức não là:

- Khổ: pháp Khổ chuyển biến và phải nhờ các duyên để hiển hiện nên là Vô Thường.

- Thấy có các tướng: nam, nữ, một, khác… nhưng thật sự chẳng có nên là Không.

- Ðã trái nghịch với cái ta thấy biết thì đương nhiên ta chẳng phải là chủ tể nên bảo là Vô Ngã.

Chữ ‘ba la mật’ xin xem lại lời giải thích ở phần trước.

Trong cõi Cực Lạc, tiếng nước lẫn tiếng gió đều có khả năng diễn nói diệu pháp. Vãng Sanh Luận có bài kệ như sau: ‘Lời phạm thanh xa thẳm, vi diệu rền mười phương’. Sách Luận Chú giải thích chữ ‘vi diệu’ như sau: ‘Xuất hữu nhưng lại là có nên bảo là vi’. ‘Xuất hữu’ nghĩa là đã vượt khỏi tam hữu (tam giới).

Sách Luận Chú giảng tiếp: ‘Do vô dục nên chẳng phải là Dục giới; do ở trên đất nên chẳng phải là Sắc giới; do có sắc nên chẳng phải là Vô Sắc giới’. Tịnh Ðộ chẳng thuộc vào tam giới, vượt ngoài ba cõi nên bảo là ‘xuất hữu’; nhưng Tịnh Ðộ lại là có vì nó nương vào Nhất Thừa nguyện hải nên hiện hữu. Lìa nhị biên, vượt tứ cú, xuất hữu mà lại hiện hữu nên bảo là ‘vi’.

Sách giảng tiếp: ‘Danh có khả năng khai ngộ nên bảo là diệu’. Danh là một trong năm pháp; hết thảy vạn vật đều có danh, có tướng. Cái gì tai nghe được thì gọi là ‘danh’; cái gì mắt thấy được thì gọi là ‘tướng’. Nghe cái danh của vật thể thì trong tâm ắt liên tưởng đến cái tướng của nó. Cây báu thuyết pháp cũng phải dùng đến danh và cú (câu). Do danh có khả năng làm cho người nghe khai ngộ nên gọi là ‘diệu’. Pháp âm vi diệu như vậy nên có thể khiến cho người nghe được giải ngộ sâu xa.

Tiếp đó, kinh nói đức phong còn lan tỏa mùi hương mầu nhiệm: ‘Ôn nhã đức hương’. ‘Ôn’ là hòa hoãn, tốt lành. ‘Nhã’ là đoan chánh. ‘Ðức hương’ là hương có đủ vạn đức. Sách Hội Sớ nói: ‘Ôn là ôn hòa, Nhã là nhã chánh. Mùi hương đẹp lòng người là Ôn, khiến người lìa ái nhiễm là Nhã’. Lại vì mùi hương có đủ vạn đức nên khiến ai ngửi phải cũng ‘trần lao, cấu tập tự nhiên chẳng khởi’. ‘Trần lao’ là tên gọi khác của phiền não, đã giải thích chi tiết trong phần trước. ‘Cấu tập’ là tập khí phiền não. ‘Cấu’ là phiền não cấu uế, ‘tập’ là tập tánh, thói quen. Trần lao cấu tập làm ô nhiễm tâm tánh, sai khiến chúng sanh. Nay do được đức hương xông thấu nên những thứ cấu nhiễm ấy chẳng khởi. Như vậy, mùi hương cũng làm Phật sự.

Kế đó, kinh nói đến diệu dụng của gió khi gió chạm vào thân. Ðức phong thổi chạm vào thân thì tự nhiên an vui, hài hòa, tâm điều thuận, vui thích nên bảo là ‘an hòa điều thích’. Niềm vui ấy hệt như niềm vui của tỳ kheo chứng đắc Diệt Tận Ðịnh.

‘Diệt tận định’ còn gọi là Diệt Tận tam muội, là môn Thiền Ðịnh diệt hết sáu thức, tâm, tâm sở; phải là bậc thánh giả từ quả Bất Hoàn trở lên mới chứng nhập được định này. Như vậy, diệu dụng này của gió cũng chính là kết quả của lời nguyện ‘vui như lậu tận’.

Ðoạn kinh tiếp theo đây sẽ nói đến gió thổi các loại hoa tụ lại phô bày màu sắc mầu nhiệm; hoa bay như mưa nên bảo là ‘mưa hoa’. Ðoạn kinh dưới đây trần thuật công đức của mưa hoa.

 Chánh kinh: Lại thổi qua rừng cây bảy báu, cuốn hoa tụ lại thành vầng, các thứ quang sắc đầy ắp cõi Phật. Hoa lần lượt tụ lại theo từng mầu riêng biệt chẳng tạp loạn, nhu nhuyễn sáng sạch như đâu la miên. Chân đạp lên trên hoa lún xuống sâu bốn ngón. Hễ giở chân lên, hoa trở lại như cũ. Quá khỏi giờ ăn, hoa ấy tự biến mất, đại địa thanh tịnh, lại mưa hoa mới. Tùy theo thời tiết, tuần hoàn trọn khắp như trên chẳng khác. Mưa sáu lần như thế.

 Giải: Ðức phong trong cõi ấy lại có các diệu dụng như sau: trước hết là gió thổi động các vật phát ra âm thanh diễn thuyết diệu pháp; kế đó là gió đưa hương, ai ngửi thấy liền được thanh tịnh; ba là gió đức thổi chạm vào thân vui thú như đắc Diệt Tận Ðịnh; bốn là gió thổi cuốn hoa rơi đầy cõi nước. Gió thổi qua những cây báu cuốn hoa tự nhiên tụ lại thành từng loại theo mầu sắc, ánh sáng riêng biệt.

Vì thế kinh chép: ‘Cuốn hoa tụ lại thành vầng, các thứ quang sắc đầy ắp cõi nước. Hoa lần lượt tụ lại theo từng mầu riêng biệt chẳng tạp loạn’. Bản Ngô dịch ghi như sau: ‘Thổi qua cây bảy báu vang tiếng ngũ âm; khiến cho hoa của cây bảy báu rải khắp cõi nước, đều rải trên Phật và chư Bồ Tát, A La Hán’. Hoa của các cây báu theo gió thổi bay vờn trên không cúng dường thánh chúng như trời đổ mưa hoa phủ khắp cõi Phật.

Vãng Sanh Luận bảo hoa báu phủ đất có hai điều thù thắng:

a. Một là diệu sắc thù thắng (màu sắc vi diệu thù thắng), gió thổi hoa theo thứ lớp, tụ lại thành từng loại. Hoa xanh, vàng, đỏ, trắng đều tụ lại theo đúng mầu của chúng. Vì thế kinh nói: ‘Theo từng mầu riêng biệt chẳng tạp loạn’. Hoa báu phủ đất như tranh vẽ, như gấm thêu ‘các thứ quang sắc đầy ắp cõi Phật’. Ðấy là diệu sắc thù thắng.

b. Hai là diệu xúc thù thắng (đụng chạm vào tạo cảm giác vi diệu thù thắng). Kinh dạy: ‘Nhu nhuyễn sáng sạch’. Chữ ‘sáng’ chỉ các thứ quang sắc vô lượng như đoạn trên đã nói. ‘Sạch’ nghĩa là thể chất của hoa thanh tịnh. ‘Nhu nhuyễn’ chính là cảm giác thù thắng khi đụng chạm vào hoa. ‘Ðâu la miên’ là tiếng Phạn, ngài Ðạo Tuyên luật sư bảo: ‘Là sợi tơ từ hoa của các loài thảo mộc, là tơ lấy từ các loài hoa như hoa bồ đài, bông liễu, hoa bạch dương, hoa bạch điệp v.v… [Chữ Ðâu La Miên] được dùng với ý nghĩa mịn nhỏ’. ‘Lún’ là chìm xuống. Chân giẫm lên hoa cảm thấy mềm mịn như đạp lên Ðâu La Miên; chân lún vào trong hoa sâu chừng bốn ngón. Giở chân lên, hoa lại bằng phẳng như cũ nên kinh bảo: ‘Hễ giở chân lên, trở lại như cũ’.

Tiếp đó, hoa rơi sáu lần trong một ngày; điều này cũng giống như kinh A Di Ðà dạy: ‘Ngày đêm sáu thời trời mưa hoa mạn đà la’. Sáu thời là buổi sáng, chính ngọ, lúc mặt trời lặn, lúc đầu đêm, lúc giữa đêm, lúc cuối đêm.

Buổi sáng mưa hoa, ‘quá khỏi giờ ăn, hoa ấy tự nhiên biến mất; đại địa thanh tịnh, lại mưa hoa mới’. Chữ ‘giờ ăn’ chỉ lúc ăn cơm, tức là lúc chính ngọ vậy. Kinh Sa Di Thập Giới Nghi Tắc nói: ‘Như lúc thọ trai thì chẳng được ăn quá giờ Ngọ’. Như vậy, câu kinh trong kinh Vô Lượng Thọ đây ngụ ý: Vào lúc giữa trưa, hoa được rải vào buổi sáng sẽ tự nhiên biến mất, đại địa thanh tịnh như cũ. Ngay khi đó, trên không lại mưa xuống hoa mới. Suốt cả sáu thời như thế: hoa tuôn xuống, hoa biến mất đi, tuần hoàn như vậy nên kinh bảo: ‘Tùy theo thời tiết tuần hoàn trọn khắp’. ‘Tuần hoàn’ có nghĩa là lần lượt xoay vòng, trở lại từ đầu. ‘Khắp nơi’ là đầy khắp cả cõi nước.

‘Sáu lượt như thế giống như trên không khác’: chữ ‘sáu lượt’ giống như chữ ‘sáu thời mưa hoa’ trong kinh Tiểu Bổn.

Nhưng ‘ngày đêm’ trong cõi Cực Lạc cũng chỉ là thuận theo tập tục cõi này mà nói. Sách Yếu Giải giảng: ‘Y báo và chánh báo cõi ấy đều có quang minh; chẳng cần nhờ đến mặt trời, mặt trăng để phân định là ngày hay đêm. Chỉ là thuận theo phương này nên mới giả nói có sự phân chia giờ khắc như thế’. Sách Sớ Sao giảng thêm: ‘Cõi ấy chẳng có Tu Di mà cũng chẳng có mặt trời, mặt trăng, luôn sáng sủa không tối tăm nên chẳng phân biệt là ngày hay đêm. Chỉ lấy hoa nở, chim hót là ngày; hoa khép lại, chim đậu lại là đêm’. Ngài Từ Ân cũng viết trong sách Di Ðà Thông Tán rằng: ‘Ao vàng hoa nở, người hóa sanh nghĩ là lúc ban ngày. Chim đậu rừng quỳnh, Bồ Tát nghĩ là trời đã tối’. Các thuyết khác cũng nói như vậy.

Riêng sách Viên Trung Sao lại còn giải thích ở một mức độ cao hơn như sau: ‘Trộm nghĩ: việc lấy hoa nở, chim hót làm ban ngày; coi lúc chim đậu, hoa khép là đêm chỉ là khí phận của cõi Phàm Thánh Ðồng Cư: còn chưa quên được những điều thuộc uế độ đáng lẽ phải nên quên đi. [Ấy là vì] chúng sanh vãng sanh đa số là kẻ mang nghiệp đi vãng sanh. Còn trong ba cõi trên, ắt chẳng hề có tướng trạng như vậy’.

Xem mục lục