GIẢI THÍCH: PHẨM CHÚC LỤY THỨ 66
(Kinh Đại Bát Nhã Phần 2 ghi: Phẩm Thật Ngữ Thứ 65)
KINH:  Bấy giờ trời Đế-thích bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Con nói như vậy,  đáp như vậy là thuận theo pháp chăng, là đáp đúng chăng? Phật bảo trời  Đế-thích: Này Kiều-thi-ca! Lời ông nói và đáp đều thuận theo pháp.
Trời Đế-thích thưa: Hy hữu thay! Điều Tu-bồ-đề vui nói đều là  nói về không, vô tướng, vô tác, bốn niệm xứ cho đến Vô thượng Chánh đẳng  Chánh giác. Phật bảo trời Đế-thích: Tỳ kheo Tu-bồ-đề trong khi tu hạnh  “Không”, Thí ba-la-mật còn không thể có được, huống gì người hành Thí  ba-la-mật, cho đến Bát-nhã ba-la-mật còn không thể có được, huống gì  người hành Bát-nhã ba-la-mật. Bốn niệm xứ không thể có được, huống gì  người tu bốn niệm xứ; cho đến tám phần Thánh đạo không thể có được,  huống gì người tu tám phần Thánh đạo; thiền, giải thoát, tam muội, định  không thể có được, huống gì người tu thiền, giải thoát, tam muội, định;  mười lực của Phật không thể có được, huống gì người tu mười lực của  Phật;
 
* Trang 723 *

bốn việc  không sợ không thể có được, huống người được bốn việc không sợ; bốn trí  vô ngại không thể có được, huống gì người được bốn trí vô ngại; đại từ,  đại bi không thể có được, huống gì người thực hành đại từ bi; mười tám  pháp không chung không thể có được, huống gì người được mười tám pháp  không chung; Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không thể có được, huống gì  người được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; Nhất thiết trí, Như lai  không thể có được, huống gì người sẽ làm Như lai; pháp vô sinh không thể  có được, huống người chứng pháp vô sinh; ba mươi hai tướng không thể có  được, huống gì người được ba mươi hai tướng; tám mươi vẻ đẹp tùy hình  không thể có được, huống gì người được tám mươi vẻ đẹp tùy hình. Vì cớ  sao? Này Kiều-thi-ca! Vì Tỳ-kheo Tu-bồ-đề đối hết thảy pháp tu hạnh ly  tướng, đối với hết thảy pháp tu hạnh không có sở đắc, đối với hết thảy  pháp tu hạnh không, đối với hết thảy pháp tu hạnh vô tướng, đối với hết  thảy pháp tu hạnh vô tác, đó là sở hành của Tỳ-kheo Tu-bồ-đề, muốn sánh  với Bồ-tát tu hạnh Bát-nhã ba-la-mật trăm phần không kịp một; ngàn, vạn,  ức phần cho đến toán số thí dụ không thể sánh kịp, vì sao? Vì trừ Phật  hạnh, Bồ-tát ấy hành Bát-nhã ba-la-mật đối với các hành của Thanh-văn,  Bích-chi-Phật là tối tôn, tối diệu, tối thượng. Vì thế, nên Bồ-tát muốn  được tối
 
* Trang 724 *

thượng  đối với chúng sinh hãy nên tu hành Bát-nhã ba-la-mật, vì sao? Vì các  Bồ-tát khi tu Bát-nhã ba-la-mật đã vượt quá Thanh-văn, Bích-chi-Phật mà  vào Bồ-tát vị, đầy đủ được Phật pháp, được trí Nhất thiết chủng, dứt hết  tập khí phiền não, thành Phật.
Trong hội chúng, trời Ba mươi ba lấy hoa trời Mạn-đà-la rải lên  trên Phật và Tăng. Khi ấy 800 Tỳ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy lấy hoa rải  lên Phật, trạc áo vai phải chấp tay, gối phải quỳ sát đất, bạch Phật  rằng: Bạch đức Thế Tôn! Chúng con sẽ tu hạnh vô thượng ấy, hàng  Thanh-văn, Bích-chi-Phật  không thể tu được. Bấy giờ Phật biết tâm hạnh  của các Tỳ-kheo bèn mỉm cười. Như pháp của chư Phật có các thứ ánh sáng  đủ màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, hồ thủy, từ miệng Phật phóng ra chiếu  khắp ba ngàn đại thiên thế giới, nhiễu quanh Phật ba vòng rồi trở lại  vào trên đỉnh Phật. 
Bấy giờ A-nan trịch áo vai bên phải, gối phải quỳ sát đất bạch  Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Nhân duyên gì nên mỉm cười, chư Phật chẳng  vì không có nhân duyên mà cười.
Phật bảo A-nan: Tám trăm Tỳ-kheo ấy vào kiếp Tinh tú sẽ thành  Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các Phật ấy đều có danh hiệu Tán Hoa.  Chúng Tỳ-kheo Tăng, cõi nước thọ mạng đều
 
* Trang 725 *

đồng  nhau, mỗi mỗi trải qua 10 vạn năm, xuất gia làm Phật. Khi ấy các cõi  nước thường có mưa hoa trời năm sắc. Vì thế nên Bồ-tát muốn tu hạnh tối  thượng hãy nên tu Bát-nhã ba-la-mật.
Phật bảo A-nan: Nếu kẻ thiện nam, người thiện nữ tu được  Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm, nên biết Bồ-tát ấy đã chết từ trong cõi  người và sinh đến đây; hoặc chết ở cõi trời Đâu-suất lại sinh đến đây;  hoặc ở trong cõi người, hoặc ở trên cõi trời Đâu-suất, khi ấy đã rộng  nghe Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm. Này A-nan, ta thấy các Bồ-tát ấy tu  được Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm.
Này A-nan! Nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nghe Bát-nhã  ba-la-mật thậm thâm, thọ trì, đọc tụng, thân cận, nhớ nghĩ đúng, trở lại  đem Bát-nhã ba-la-mật dạy người tu đạo Bồ-tát, nên biết Bồ-tát ấy từng  đối diện trước Phật nghe Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm cho đến thân cận và  gieo trồng căn lành ở chỗ Phật. Kẻ thiện nam người thiện nữ sẽ nghĩ  rằng: Chúng ta chẳng phải gieo trồng căn lành đối với Thanh-văn, cũng  chẳng từ Thanh-văn nghe Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm. Này A-nan! Nếu có  kẻ thiện nam, người thiện nữ thọ trì Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm, đọc  tụng, thân cận, tu theo nghĩa, theo pháp, nên biết kẻ thiện nam người  thiện nữ ấy mặt từng thấy Phật. Này A-nan, nếu có kẻ thiện nam người 
 
* Trang 726 *

thiện nữ  nghe Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm, tín tâm thanh tịnh không thể hoại,  nên biết kẻ thiện nam người thiện nữ ấy từng cúng dường Phật, trồng căn  lành, đắc ý với thiện tri thức. 
Này A-nan! Ở nơi ruộng phước của chư Phật trồng căn lành, tuy  không hư dối nhưng phải được Thanh-văn, Bích-chi-Phật và Phật mới được  giải thoát, nên phải rõ ràng, sâu xa tu sáu Ba-la-mật cho đến trí Nhất  thiết chủng. Nếu Bồ-tát rõ ràng, sâu xa tu sáu Ba-la-mật cho đến trí  Nhất thiết chủng, người ấy nếu trụ vào Thanh-văn, Bích-chi-Phật  đạo mà  không chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thời không có lẽ ấy.  Thế nên A-nan! Ta đem Bát- nhã- ba-la mật phó chúc nơi ông, nếu ông thọ  trì hết thảy pháp, trừ Bát-nhã ba-la-mật hoặc quên, hoặc mất, lỗi ấy nhỏ  nhặt không có tội lớn. Nếu ông thọ trì Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm nếu  quên mất một câu, lỗi ấy rất lớn. Nếu ông thọ trì Bát-nhã ba-la-mật thậm  thâm, sau trở lại quên mất, tội ấy rất nhiều. Thế nên A-nan! Ta phó  chúc nơi ông Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm ấy, ông hãy khéo thọ trì, đọc  tụng cho thông suốt. Này A-nan! Nếu có kẻ thiện nam, người thiện nữ thọ  trì Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm, thời là thọ trì Vô thượng Chánh  đẳng Chánh giác của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.
 
* Trang 727 *

Này  A-nan! Nếu kẻ thiện nam, người thiện nữ hiện tại, muốn cung kính, tôn  trọng, tán thán, cúng dường Ta hoa hương, anh lạc, hương bột, hương  nước,[1]  y phục, phan lọng, hãy nên thọ trì Bát-nhã ba-la-mật, đọc tụng, thuyết  giảng, thân cận, cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường hoa hương  cho đến phan lọng. Này A-nan! Cúng dường Bát-nhã ba-la-mật là đã cúng  dường Ta và cúng dường chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Nếu có kẻ  thiện nam, người thiện nữ nghe nói Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm, tín tâm  thanh tịnh cung kính, ưa thích, thời là đã tín tâm thanh tịnh cung kính,  ưa thích chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Này A-nan! Ông ưa thích  Phật không rời bỏ, nên ưa thích Bát-nhã ba-la-mật chớ rời bỏ. Bát-nhã  ba-la-mật thậm thâm cho đến một câu không nên quên mất.
Này A-nan! Ta nói nhân duyên phú chúc rất nhiều, nay chỉ lược  nói: Như Ta là Thế Tôn; Bát-nhã ba-la-mật cũng là Thế Tôn. Thế nên có  nhiều nhân duyên Ta phó chúc cho ông Bát-nhã ba-la-mật. Này A-nan! Nay  Ta ở giữa hết thảy thế gian trời, người, A-tu-la mà phó chúc cho ông.  Những ai muốn không bỏ Phật, không bỏ pháp, không bỏ tăng, không bỏ Vô  thượng Chánh đẳng Chánh giác của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại thời  hãy cẩn thận chớ bỏ Bát-nhã ba-la-mật. Đó là điều Ta giáo hóa đệ tử.  Nếu kẻ thiện nam, người 
 
[1] T. 8: Phóng quang Bát-nhã kinh  (放光般若經), quyển 10, tr. 71c21-24: Xá-lợi-phất! nếu có thiện nam tử,  thiện nữ nhơn hành Bồ-tát đạo, viết chép, thọ trì tu học Bát-nhã  ba-la-mật, phúng tụng, giữ gìn tu tập, hành các hạnh như vậy; vui thích  cúng dường Bát-nhã ba-la-mật, danh hương,  hương bột, hương nước, hương  tạp, tràng phan, bảo cái làm những sự cúng dường như vậy; T. 8: Đạo hành  Bát-nhã kinh (道行般若經), quyển 2, tr. 432a5-7. 
 
 
* Trang 728 *

 thiện  nữ thọ trì Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm, đọc tụng, giảng nói, nhớ nghĩ  đúng, lại vì người khác mỗi mỗi nói rộng nghĩa ấy; khai thị, diễn giảng,  phân biệt làm cho dễ hiểu, kẻ thiện nam, người thiện nữ ấy chóng được  Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chóng gần Nhất thiết trí, vì sao? Vì từ  trong Bát-nhã ba-la-mật xuất sinh Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của  chư Phật. Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của chư Phật quá khứ, vị lai,  đều từ trong Bát-nhã ba-la-mật xuất sinh. Nay Vô thượng Chánh đẳng Chánh  giác của chư Phật hiện tại ở phương Đông, Nam, Tây, Bắc, bốn góc, trên,  dưới cũng từ Bát-nhã ba-la-mật xuất sinh. Thế nên các Bồ-tát muốn được  Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác hãy nên học Bát-nhã ba-la-mật, vì sáu  Ba-la-mật là mẹ của Bồ-tát, xuất sinh các Bồ-tát. Nếu có Bồ-tát học sáu  Ba-la-mật thời đều sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì thế nên  Ta một lần nữa đem sáu Ba-la-mật phó chúc cho ông. Này A-nan! Sáu  Ba-la-mật ấy là pháp tạng vô tận của chư Phật. Mười phương chư Phật hiện  tại thuyết pháp đều từ pháp tạng sáu Ba-la-mật xuất sinh; chư Phật quá  khứ cũng từ trong sáu Ba-la-mật tu học, được Vô thượng Chánh đẳng chánh  giác; chư Phật vị lai cũng từ trong sáu Ba-la-mật tu học được Vô thượng  Chánh đẳng Chánh giác. Đệ tử của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều  từ trong sáu Ba-
 
* Trang 729 *

la-mật tu học mà được diệt độ, đã được, nay được và sẽ được diệt độ.
Này A-nan! Ông là hạng Thanh-văn mà thuyết pháp khiến cho chúng  sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới đều chứng được quả A-la-hán, vẫn  chưa phải là việc của đệ tử Ta; nếu ông đem một câu tương ưng với  Bát-nhã ba-la-mật dạy hàng Bồ-tát, thời là làm việc của đệ tử Ta, Ta  cũng hoan hỷ hơn là dạy chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới,  khiến chứng được quả A-la-hán.
* Lại nữa, Này A-nan! Chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế  giới chẳng trước, chẳng sau, cùng trong một lúc đều chứng được quả  A-la-hán. Các A-la-hán ấy tu công đức bố thí, trì giới, thiền định, công  đức ấy nhiều chăng? - A-nan thưa: Rất nhiều, bạch Thế Tôn! Phật dạy:  Này A-nan! Chẳng bằng đệ tử đem pháp tương ưng với Bát-nhã ba-la-mật  giảng nói cho Bồ-tát cho đến chỉ một ngày, phước rất nhiều. Không kể một  ngày, chỉ nửa ngày; không kể nửa ngày, chỉ khoảng một bữa ăn; không kể  trong khoảng một bữa ăn, chỉ trong một lát giảng nói, phước kia rất  nhiều, vì sao? Vì căn lành của Bồ-tát hơn hết thảy Thanh-văn,  Bích-chi-Phật . Bồ-tát tự mình muốn được Vô thượng Chánh đẳng Chánh  giác, cũng khai thị giáo hóa lợi ích vui mừng cho người khác khiến
 
* Trang 730 *

được Vô  thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này A-nan! Bồ-tát tu sáu Ba-la-mật, bốn  niệm xứ cho đến trí Nhất thiết chủng như vậy, tăng ích căn lành, nếu  không được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thời không có lẽ ấy.
Khi nói phẩm Bát-nhã ba-la-mật, Phật ở trước bốn chúng đệ tử và  trời, người, rồng, quỷ, thần, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già biến hóa thần  thông khiến đại chúng đều thấy Phật A-súc, với chúng Tỳ-kheo Tăng vây  quanh Phật nghe thuyết pháp, đại chúng nhiều như biển cả, đều là  A-la-hán sạch hết lậu hoặc, không còn phiền não, đều được tự tại, được  hảo giải thoát, tâm giải thoát, tuệ giải thoát; tâm kia điều hòa nhu  nhuyến như voi lớn; việc cần làm đã làm xong, chóng được lợi mình, sạch  hết các thứ kiết sử ba cõi, chánh trí, được giải thoát; được tự tại đối  với hết thảy tâm tâm số pháp, và thành tựu vô lượng công đức của các  Bồ-tát.
Bấy giờ Phật thu nhiếp thần túc, đại chúng không còn thấy Phật  A-súc, hàng Thanh-văn, Bồ-tát và cõi nước kia cũng không còn đối hiện  trước mắt, vì sao? Vì Phật đã thu nhiếp thần túc.
Bấy giờ Phật bảo A-nan: Hết thảy pháp không đối hiện trước mắt,  pháp pháp không thấy nhau, pháp pháp không biết nhau; như Phật A-súc,  đệ tử, Bồ-tát cõi nước không đối hiện trước 
 
* Trang 731 *

mắt. Như  vậy, hết thảy pháp không đối hiện trước mắt, pháp pháp không thấy nhau,  pháp pháp không biết nhau, vì sao? Vì hết thảy pháp không có biết,  không có thấy, không có tác, không có động, không thể nắm bắt, không thể  nghĩ bàn, như người huyễn hóa, không có thọ, không có giác, không có  chơn thật. Bồ-tát tu như vậy là tu Bát-nhã ba-la-mật, cũng không nhiễm  đắm các pháp. Bồ-tát học như vậy là học Bát-nhã ba-la-mật. Muốn được các  Ba-la-mật nên học Bát-nhã ba-la-mật, vì sao? Vì học như vậy là đệ nhất  học, tối thượng học, vi diệu học. Học như vậy sẽ lợi ích, an vui cho thế  gian, làm nơi cứu hộ cho người không ai cứu hộ. Ấy là sở học của chư  Phật, chư Phật ở trong học ấy có thể dùng cánh tay phải cất ba ngàn đại  thiên thế giới lên, đem để lại chỗ cũ mà chúng sinh ở trong đó không ai  hay biết, vì sao? Vì chư Phật học Bát-nhã ba-la-mật được thí vô ngại,  thấy pháp quá khứ, vị lai, hiện tại. Này A-nan! Bát-nhã ba-la-mật là tối  tôn đệ nhất, vi diệu vô thượng giữa các môn học. Nếu có người muốn biết  được bờ mé Bát-nhã ba-la-mật là không khác gì muốn biết được bờ mé hư  không, vì sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật không có hạn lượng, danh thân, cú  thân, văn thân là có lượng; Bát-nhã ba-la-mật không có hạn lượng.
A-nan bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Bát-nhã ba-la-mật vì sao không có hạn lượng?
 
* Trang 732 *

Phật bảo  A-nan: Vì Bát-nhã ba-la-mật không có tận, không có cùng tận nên không  có hạn lượng; vì Bát-nhã ba-la-mật lìa tướng nên không có hạn lượng. Này  A-nan! Chư Phật quá khứ đều học Bát-nhã ba-la-mật ấy mà được độ, vì  Bát-nhã ba-la-mật nên không cùng tận; chư Phật vị lai cũng học Bát-nhã  ba-la-mật mà được độ, vì Bát-nhã ba-la-mật không cùng tận; mười phương  chư Phật hiện tại đều học Bát-nhã ba-la-mật mà được độ, vì Bát-nhã  ba-la-mật không cùng tận. Đã không tận, nay không tận, sẽ không tận. Này  A-nan! Muốn tận Bát-nhã ba-la-mật chẳng khác gì muốn tận hư không.  Bát-nhã ba-la-mật không thể tận; đã không tận, nay không tận và sẽ không  tận. Thiền ba-la-mật cho đến Thí ba-la-mật không thể tận; đã không tận,  nay không tận, sẽ không tận, cho đến trí Nhất thiết chủng cũng như vậy,  vì sao? Vì hết thảy pháp đều vô sinh, nếu pháp vô sinh làm sao có cùng  tận!
Bấy giờ, Phật hiện tướng lưỡi rộng dài bảo A-nan: Từ ngày nay  nên ở giữa bốn chúng diễn rộng, mở bày, phân biệt Bát-nhã ba-la-mật, làm  cho rõ ràng, dễ hiểu, vì sao? Vì trong Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm, nói  rộng các pháp tướng. Người cầu Thanh-văn, Bích-chi-Phật, người cầu Phật  đạo đều nên học trong đó, học rồi đều được thành tựu. Này A-nan!  Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm là cửa ngõ của hết thảy chữ, tu Bát-nhã baa
 
* Trang 733 *

-la-mật thậm thâm có thể vào môn đà-la-ni; các Bồ-tát học môn đà-la-ni ấy được biện tài lạc thuyết (nghĩa là tài biện luận vui vẻ, giảng nói và làm cho người nghe vui vẻ - ND).  Này A-nan! Bát-nhã ba-la-mật là diệu pháp của chư Phật ba đời, thế nên  Ta vì ông mỗi mỗi nói ra rõ ràng. Nếu có người thọ trì Bát-nhã ba-la-mật  thậm thâm, đọc tụng, thân cận, thời người ấy có thể thọ trì Vô thượng  Chánh đẳng Chánh giác của chư Phật. Này A-nan! Ta nói Bát-nhã ba-la-mật  là đôi chân của người tu; ông thọ trì Bát-nhã ba-la-mật đà-la-ni (Tổng  trì) thời thọ trì được hết thảy pháp.
LUẬN: Hỏi: Trời Đế-thích cớ sao nghi lời mình nói rằng : Tôi nói là thuận theo pháp và đáp đúng đắn chăng?
Đáp: Trời Đế-thích chẳng phải là người Nhất thiết trí, tuy  được đạo quả ban đầu mà ba độc tham, sân, si chưa hết, nên còn có sai  lầm mà tự suy lường: Ta tuy có nhân duyên phước đức làm chúa tể chư  thiên, tuy được ý vị của Thánh đạo mà chưa có Nhất thiết trí, hết thảy  lậu hoặc chưa hết, nên nói ra có thể sai lầm, không tự giác tri, vì thế  nên hỏi.
* Lại nữa, trong chúng có nhiều vị Bồ-tát chẳng thoái chuyển, vị  A-la-hán sạch hết lậu hoặc và hàng chư thiên ly dục, thấy Phật và  Tu-bồ-đề với trời Đế-thích cùng nhau vấn nạn tâm không khiếp nhược, liền  nghĩ rằng: Trời Đế-thích lậu hoặc còn chưa hết, làm sao có
 
* Trang 734 *

thể vấn nạn đến cùng tận bờ mé các pháp. Vì việc ấy nên trời Đế-thích hỏi Phật.
* Lại nữa, trời Đế-thích tự biết mình nói các pháp tướng không có sai  trái, cầu Phật ấn chứng khiến người nghe tin thọ, nên Phật liền chấp  thuận.
Hỏi: Cớ gì Phật chấp thuận lời trời Đế-thích nói?
Đáp: Trời Đế-thích tuy chẳng phải là người Nhất thiết trí,  nhưng vì thường theo Phật nghe pháp, có sức đọc tụng mạnh nên nói ra có  lý, Phật bèn chấp thuận. Phật nói có ba thứ tuệ: văn tuệ, tư tuệ và tu  tuệ. Người có văn tuệ (śrutamayīprajñā), tư tuệ (cintāmayī prajñā) sáng suốt nên có thể cùng người có tu tuệ (bhāvanāmayī prajñā)  vấn nạn; thí như có thuyền đi theo dòng nước, không tự dùng sức mà mau  hơn đi bộ; như A-nan tuy chưa lìa dục, chưa được thiền định thâm sâu mà  có thể cùng với Phật và các vị A-la-hán đã sạch hết lậu hoặc luận nghị,  thuận theo pháp không trái.
Trời Đế-thích bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn! Tu-bồ-đề ưa nói về  không, khéo nói về không, là bậc tối đệ nhất giữa hàng đệ tử Phật, có  nói gì cũng đều hướng về không, vô tướng, vô tác; nghĩa là, nói pháp bốn  niệm xứ cho đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đều là nhân duyên hòa  hợp rốt ráo không. Phật nói với trời Đế-thích: Tu-bồ-đề là người tu về  “rốt ráo không”, đời đời tu tập, chẳng phải chỉ đời nay, ông ấy do pháp  môn “không giải thoát” mà vào đạo, cũng lấy pháp môn ấy giáo hóa chúng  sinh. Ông ấy nếu vào pháp “không” thâm diệu, còn không thấy các pháp,  huống gì thấy có 
 
* Trang 735 *

người tu pháp  ấy? Như kinh nói: Thí ba-la-mật không thể có được, huống gì người tu thí  cho đến tám mươi vẻ đẹp tùy hình. Tu-bồ-đề tu hạnh “không”, muốn so  sánh với Bồ-tát tu hạnh “không”, trăm phần chẳng kịp một.
Hỏi: Pháp Không, Chúng sanh không, lại còn có cái gì không cùng tận mà nói trăm phần chẳng kịp một?
Đáp: Phật dạy: Trừ Phật ra, các Thanh-văn, Bích-chi-Phật   không có ai bằng Bồ-tát. Thật tướng các pháp có nhiều tên gọi, hoặc gọi  là không, hoặc gọi rốt ráo không, hoặc gọi Bát-nhã ba-la-mật, hoặc gọi  Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, còn trong đây gọi thật tướng các pháp  là Không hành. Như giữa hết thảy các đệ tử Thanh-văn, Tu-bồ-đề tu  “không” hành hơn hết. Như vậy, trừ Phật, các Bồ-tát tu Không hành hơn  Nhị thừa, vì sao? Vì trí tuệ có lợi độn mà thâm nhập có sâu cạn, nên tuy  đều gọi là được thật tướng các pháp, nhưng người lợi căn thì được rõ  ràng hơn. Thí như muốn phá bóng tối nên đốt đèn, lại có đèn lớn thời ánh  sáng càng tỏ hơn. Nên biết, ngọn đèn trước tuy chiếu sáng nhưng bóng  tối li ti không hết được; nếu hết được thời ngọn đèn sau trở thành vô  dụng. Người tu về Không hạnh cũng như vậy, tuy đều được đạo, song vì trí  tuệ có lợi độn nên vô minh có diệt hết và diệt không hết, duy chỉ có  trí tuệ Phật mới diệt hết các vô minh.
* Lại nữa, hàng Thanh-văn, Bích-chi-Phật không có tâm từ bi, không có  tâm độ sinh, không có ý nguyện nghiêm tịnh cõi Phật, không có vô lượng  Phật pháp, không có chuyển pháp luân độ chúng sinh, cũng không
 
* Trang 736 *

vào Vô dư  Niết-bàn cho đến không có tâm nguyện lưu lại giáo pháp để độ sinh; không  có tâm ba đời độ sinh, là thời kỳ làm Bồ-tát, thời kỳ làm Phật và thời  kỳ diệt độ, nên chẳng phải chỉ do tu Không hạnh mà bằng Bồ-tát được.
* Lại nữa, hàng Nhị thừa ngộ được “Không” còn có phân lượng; chư Phật,  Bồ-tát không có phân lượng; giống như người khát uống nước sông, chẳng  qua uống vừa đủ, vậy đâu được nói đều tu Không hạnh mà không thể có sai  khác! Lại, như chỗ trống của lỗ chân lông, muốn đem so với lỗ trống giữa  mười phương, không có lẽ ấy. Thế nên, Thanh-văn so với Phật và Bồ-tát  ngàn vạn ức phần không kịp một. Phật phân biệt các lối tu Không hạnh ấy  rồi bảo Đế-thích rằng: Nếu muốn tối thượng giữa hết thảy chúng sinh, nên  tu Bát-nhã ba-la-mật. Trong đây, Phật tự nói nhân duyên: Bồ-tát học  Không hạnh của Bát-nhã ba-la-mật vì không chấp thủ tướng không, nên hơn  Nhị thừa, được vào pháp vô sinh nhẫn vào Bồ-tát vị. Vì vào Bồ-tát vị nên  được đầy đủ Phật pháp. Phật pháp là Bồ-tát đạo, Bồ-tát đạo đầy đủ nên  được trí Nhất thiết chủng; được trí Nhất thiết chủng nên gọi là Phật,  người dứt các phiền não tập khí. Các việc ấy đều lấy Không hạnh làm gốc.
Hỏi: Niết-bàn là vô lượng, cớ sao nói Niết-bàn của Nhị thừa chứng được có lượng?
Đáp: Nói trí tuệ có phân lượng chứ không nói thật tánh các pháp có phân lượng. Không nghe nói thí dụ 
 
* Trang 737 *

nước lớn ư? Đồ đựng có lượng, chẳng phải nước có lượng.
* Lại nữa, lượng, vô lượng đối đãi nhau, đối với người phàm là vô  lượng, đối với Phật đều lượng được hết. Ngang bấy nhiêu phần cho đến  ngang bấy nhiêu phần là A-la-hán, Bích-chi Phật, Bồ-tát, còn lại bao  nhiêu phần pháp tính rốt ráo khác là Phật.
Bấy giờ chư thiên ở trong hội chúng lấy hoa trời Mạn-đà-la rải lên Phật như trong kinh văn nói.
Hỏi: Hoa cúng dường Phật và Tăng, cớ sao 800 Tỳ-kheo đây chỉ lấy cúng dường Phật?
Đáp: Hoa của chư thiên rải, các Tỳ-kheo được phần hoa rơi trên  áo mình, thấy sắc hương của nó rất tuyệt diệu, nhân đó phát tâm đem  cúng dường Phật, bạch rằng: Tôi từ nay sẽ tu hạnh vô thượng ấy, nghĩa là  tu rốt ráo không, vô tướng, vô tác, vì độ hết thảy chúng sinh, nên hàng  Nhị thừa không sánh kịp như Phật đã nói.
Bấy giờ Phật mỉm cười như đã nói trong phẩm “Hằng-già-đề-bà”,[1]  800 Tỳ-kheo ấy là thiện tri thức của nhau, hạnh đồng, tâm đồng, đời đời  cùng nhau tu tập công đức nên cùng một lúc được làm Phật, đồng một danh  hiệu. Do lấy hoa trời năm sắc cúng Phật nên trong cõi nước thường mưa  hoa trời Mạn-đà-la đủ năm sắc. Phật nhân việc ấy tán thán Bát-nhã rằng:  Người muốn hành đạo Bồ-tát tối thượng, hãy hành Bát-nhã ba-la-mật. 
 
[1] Đại trí độ luận,  quyển 75, Giải thích phẩm hà thiên thứ 59, tr. 591 c14-22:  Hỏi: Cớ gì  tên là Hằng-già-đề-bà? Đáp: Tất cả đều có tên gọi để mà biết, cần gì tìm  hiểu nó. Có người nói người nữ ấy do cha mẹ cúng dường thần Hằng-già  nên đặt tên Hằng-già-đề-bà. Hằng-già là tên sông; Đề-bà nghĩa Trời.  Người nữ ấy có nhân duyên phước đức sinh vào nhà giàu, nghe giảng Phật  pháp, tin vui, nên dùng hoa báu, vàng bạc, chỉ vàng dệt thành áo thượng  hạ và đồ anh lạc trang nghiêm nơi thân mình dùng để cúng dường Phật.  Phật đáp lại bằng cách thọ ký cho và vì xem thấy sở hành đời trước của  người nữ ấy nên mỉm cười. Vì nhân duyên nhỏ mà phát khởi đại sự nên Phật  mỉm cười. 
 
 
* Trang 738 *

Này A-nan! Nếu  có kẻ thiện nam tu Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm ấy, nên biết người ấy đến  từ trong nhân đạo, hoặc từ trên cõi trời Đâu-suất, vì cớ sao? Vì trong  ba đường ác tội khổ nhiều, không tu Bát-nhã thậm thâm được. Trời ở cõi  Dục say đắm năm dục tịnh diệu tâm cuồng hoặc, không thể tu, trời cõi Sắc  đắm say hương vị thiền định nên không thể tu; cõi Vô sắc không có hình  tướng nên không thể tu; quỷ thần có đạo nhãn, căn lợi, vì bị phiền não  che tâm nên không thể chuyên tu Bát-nhã thậm thâm; chỉ trong nhân đạo  khổ ít hơn ba đường ác, vui không bằng chư thiên; các căn mắt, tai... ô  trược nặng nề, thân phần nhiều thuộc địa đại, nên có thể chế phục ý khổ  vui mà thực hành Bát-nhã. Trên trời Đâu-suất thường có vị Bồ-tát còn một  đời bổ xứ làm Phật, chư thiên cõi trời kia thường nghe Bồ-tát ấy thuyết  Bát-nhã nên cái vui ngũ dục tuy nhiều, mà có pháp lực mạnh hơn; thế nên  nói đến từ hai nơi; hoặc đến từ cõi Phật ở phương khác hoặc đến từ cõi  này, nơi có Bát-nhã ba-la-mật.
* Lại nữa, A-nan! Nếu có người cầu Phật đạo, có thể hỏi, có thể tin,  thọ trì, cho đến nhớ nghĩ đúng, nên biết người ấy Phật thường dùng Phật  nhãn trông thấy. Người ấy nên nghĩ rằng: chúng ta trực tiếp theo Phật  thọ trì, theo Phật phát tâm, gieo trồng căn lành, chứ không từ nơi Nhị  thừa. Này A-nan! Nếu có người tín tâm thanh tịnh không thể phá hoại, nên  biết người ấy từng cúng dường vô lượng chư Phật, được thiện tri thức  thủ hộ, nên có thể thọ trì.
 
* Trang 739 *

Hỏi:  Phật cũng gọi là báu, cũng gọi là ruộng phước vô thượng; nếu người theo  Phật trồng căn lành, chắc chắn do pháp ba thừa mà vào Niết-bàn không hư  dối; như trong kinh Pháp Hoa nói: Có người hoặc lấy một cành hoa, hoặc  lấy ít hương cúng dường Phật, cho đến một lần xưng “Nam-mô Phật”. Những  người như vậy đều sẽ thành Phật.[1]  Nếu như vậy có người nghĩ rằng: Chỉ cần tu năm Ba-la-mật, khi muốn làm  Phật mới quán Không, cần gì thường tu Bát-nhã ba-la-mật khó biết, khó  được Không hạnh?
Đáp: Do việc ấy nên Phật tự đáp với A-nan: Nơi ruộng phước của  Phật tuy không hư dối nhưng cần phải được pháp ba thừa vào Niết-bàn,  phải nên rõ ràng tu sáu Ba-la-mật cho đến rõ ràng tu trí Nhất thiết  chủng, mới chóng được Phật đạo, chịu khổ sinh tử không còn lâu. Bát-nhã  có công đức, lợi ích như vậy nên cần phải học .
Này A-nan! Vì Bát-nhã có công đức, lợi ích như vậy nên ta phó chúc cho ông.
Hỏi: Phật không có tham gì, cho đến trí Nhất thiết chủng, Phật  được giải thoát vô ngại, thanh tịnh vi diệu, đối với Phật pháp còn  không tham, cớ gì lại đem Bát-nhã ba-la-mật ân cần phó chúc cho A-nan,  như tuồng có tham kiết ?
Đáp: Chư Phật vì lợi ích chúng sinh nên xuất hiện ở đời, hiện  đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp tùy hình, có hào quang vô lượng, biến hóa  thần túc đều vì chúng 
 
[1]  T. 9: Diệu pháp liên hoa kinh (妙法蓮華經), quyển 1, phẩm phương tiện, tr.  9a10-25: hoặc có người đối với tháp miếu, đối với tượng báu, tượng vẽ,  dùng hoa hương, phan lọng đem tâm cung kính để cúng dường. Hoặc khiến  người khác trổi nhạc, đánh trống, thổi còi, tổi ốc, thổi ống tiêu, ống  địch, đờn cầm, đờn không hầu, đờn tỳ bà, não bạc. Các âm nhạc như vậy  dùng để cúng dường, hoặc với tâm hoan hỷ, ca ngâm khen ngợi công đức của  Phật, cho đến một tiếng nhỏ, cũng đều thành Phật đạo. Hoặc người tâm  tán loạn, cho đến dùng một cành hoa cúng dường nơi tượng vẽ, cũng lần  lượt thấy vô số Phật. Hoặc có người lễ bái, hoặc chỉ chấp hai tay, cho  đến đưa một tay, hoặc chỉ hơi cúi đầu để cúng dường tượng Phật thì cũng  lần lượt thấy vô số Phật, tự thành vô thượng đạo, rộng độ vô số người mà  vào Vô dư niết-bàn, như củi hết lửa tắt. Ngay cả người tâm tán loạn, đi  vào trong tháp miếu, một lần xưng Nam mô phật, đều đã thành Phật đạo.”;  Saddharmapuṇḍarīka sūtra,  upāyakauśalyaparivartaḥ, tr. 36-37: dhātūṣu yaiścāpi tathāgatānāṁ  stūpeṣu vā mṛttikavigraheṣu vā| ālekhyabhittīṣvapi pāṁsustūpe puṣpā ca  gandhā ca pradatta āsīt (89). Vādyā ca vādāpita yehi tatra bheryo’tha  śaṅkhāḥ paṭahāḥ sughoṣakāḥ| nirnāditā dundubhayaśca yehi pūjāvidhānāya  varāgrabodhinām (90). Vīṇāśca tālā paṇavāśca yehi mṛdaṅga vaṁśā tuṇavā  manojñāḥ| ekotsavā vā sukumārakā vā te sarvi bodhāya abhūṣi lābhinaḥ  (91). Vādāpitā jhallariyo’pi yehi jalamaṇḍakā carpaṭamaṇḍakā vā|  sugatāna uddiśyatha pūjanārthaṁ gītaṁ sugītaṁ madhuraṁ manojñam (92).  Sarve ca te buddha abhūṣi loke kṛtvāna tāṁ bahuvidhadhātupūjām|  kimalpakaṁ pi sugatāna dhātuṣu ekaṁ pi vādāpiya vādyabhāṇḍam (93).  Puṣpeṇa caikena pi pūjayitvā ālekhyabhittau sugatāna bimbān|  vikṣiptacittā pi ca pūjayitvā anupūrva drakṣyanti ca buddhakoṭyaḥ (94).  Yaiścāñjalistatra kṛto’pi stūpe paripūrṇa ekā talasaktikā vā| unnāmitaṁ  śīrṣamabhūnmuhūrta-mavanāmitaḥ kāyu tathaikavāram (95). Namo’stu  buddhāya kṛtaikavāraṁ
yehī tadā dhātudhareṣu teṣu| vikṣiptacittairapi ekavāraṁ te sarvi prāptā imamagrabodhim (96).  
 
 
* Trang 740 *

sinh. Đều làm  lợi ích cho chúng sinh nhất không gì hơn Bát-nhã ba-la-mật, vì có thể  dứt hết các khổ. Bát-nhã ba-la-mật nhân nơi ngữ ngôn, văn tự, chương cú  mà có thể hiểu được nghĩa nó, thế nên Phật đem quyển kinh Bát-nhã ân cần  phó chúc cho A-nan.
* Lại nữa, có người thấy Phật ân cần phó chúc nói rằng : Đại sự Phật đã  làm xong, còn tôn trọng Bát-nhã, như vậy pháp ấy chắc chắn tôn quí mầu  nhiệm; thí như trưởng giả giàu lớn, khi sắp mệnh chung đem bảo vật trao  cho con, riêng ngọc báu Như ý thời ân cần phó chúc rằng: Ngươi chớ cho  thứ châu báu này không có màu sắc nhất định, chất như hư không, nhiệm  mầu khó biết mà không thủ hộ; nếu các vật báu khác mất có thể được, còn  châu báu này không thể để mất. Vị trưởng giả giàu lớn là Phật, đem châu  báu Bát-nhã ba-la-mật phó chúc cho A-nan: Ông khéo giữ gìn, thủ hộ, đừng  để mất. Ngoại trừ Bát-nhã ba-la-mật, 12 bộ kinh tuy đều mất hết, lỗi ấy  còn ít, nếu mất một câu Bát-nhã, lỗi ấy rất nhiều, vì sao? Vì pháp tạng  Bát-nhã thậm thâm là mẹ của ba đời mười phương chư Phật, hay khiến  người mau đạt đến Phật đạo, như trong kinh nầy nói: Ba đời chư Phật đều  từ Bát-nhã mà được,[1] cho đến vì hàng Thanh-văn thuyết pháp, trong ấy đều là việc tán thán Bát-nhã.
Hỏi: Thuyết pháp làm cho chúng sinh trong ba ngàn đại thiên  thế giới đều được thành A-la-hán, tại sao không bằng đem một câu Bát-nhã  dạy cho Bồ-tát?
Đáp: Việc ấy trước đã đáp rồi, nay sẽ lược nói: Chúng sinh trong ba ngàn đại thiên thế giới tuy đều 
 
[1]  Prajñāpāramitāhṛdaya sūtra: tryadhvavyavasthitāḥ sarvabuddhāḥ  prajñāpāramitāmāśritya anuttarāṃ samyaksaṃbodhimabhisaṃbuddhāḥ; T. 8: Ma-ha Btá-nhã ba-la-mật kinh  (摩訶般若波羅蜜經), quyển 14, phẩm vấn tướng thứ 49 )〈問相品第49), tr. 326 a11-12,  quyển 27, phẩm pháp thượng thứ 89 (法尚品第89), tr. 423c19-20; T. 8: Phóng quang Bát-nhã kinh (放光般若經), quyển 11, phẩm vân stướng thứ 50 (問相品第50), tr. 78a22-26; Đại trí độ luận , quyển 18, tr. 190c19-20. 
 
 
* Trang 741 *

được thành  A-la-hán mà chỉ tự độ mình, không nhằm làm Phật; nếu nói một câu  Bát-nhã, người nghe sẽ được làm Phật. Như người trồng nhiều cây có nhiều  quả, chẳng bằng một người trồng một cây Như ý, tùy sở nguyện của người  đều được như ý.[1]
Trong pháp nói cho hàng Thanh-văn  không có đại từ bi, trong pháp Đại  thừa, một câu tuy ít mà có tâm đại từ bi. Trong pháp Thanh-văn  đều vì  lợi mình, trong pháp Đại thừa rộng vì chúng sinh; trong pháp Thanh-văn  không có tâm muốn biết rộng các pháp, chỉ muốn mau lìa khổ già, bệnh,  chết; trong pháp Đại thừa muốn mỗi mỗi rõ ràng biết hết thảy pháp; trong  pháp Thanh-văn công đức có hạn lượng; trong pháp Đại thừa bao gồm hết  các công đức không có bỏ sót. Đại tiểu sai khác nhau như vậy; thí như  kim cương tuy nhỏ song có thể hơn tất cả châu báu, chẳng được nói ít  không bằng nhiều. Phước đức của các vị A-la-hán trong ba ngàn đại thiên  thế giới so với đem một câu Bát-nhã dạy cho Bồ-tát trong một ngày, cho  đến trong giây lát, phước kia rất nhiều. Trong đây Phật tự nói nhân  duyên: Bồ-tát tự muốn được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng dạy  người khiến được; tự tu sáu Ba-la-mật, cũng dạy người tu. Bồ-tát có hai  công đức như vậy mà không thành Phật đạo, thì không có lẽ ấy.
Bấy giờ Phật muốn làm rõ việc ấy nên dẫn chứng, cũng muốn chứng hết thảy pháp không (sarvadharma-śūnyatā), không đắm trước hết thảy pháp không ấy, mà chỉ vì thương xót hết thảy chúng sinh nên phó chúc cho A-nan. Như Phật A- 
 
[1] Đại trí độ luận, quyển 60, tr. 484 c7-16, quyển 77, tr. 599b10-20. 
 
 
* Trang 742 *

súc và đại chúng  trang nghiêm không đối hiện trước mắt, hết thảy pháp không đối hiện  trước mắt cũng như vậy. Pháp mà mắt thịt, mắt trời trông thấy đều là  pháp tác vi hư dối không thật; còn pháp mà mắt tuệ, mắt pháp, mắt Phật  trông thấy đều là pháp vô tướng, vô vi nên không thể thấy; nếu không thể  thấy cũng không thể biết.[1]  Pháp không tác vi cũng như vậy. Chúng hội Phật A-súc được trông thấy  đều như huyễn, như mộng. Quán các pháp được như vậy gọi là Bồ-tát tu  Bát-nhã, gọi là không đắm trước. Điều Phật phó chúc cũng không đắm  trước, chỉ vì tâm đại từ bi nên tán thán Bát-nhã. Tướng hết thảy pháp  tuy không thể nghĩ bàn, song vì lợi ích chúng sinh nên tán thán rằng:  Học như vậy là học Bát-nhã; nếu muốn được hết thảy Ba-la-mật nên học  Bát-nhã ba-la-mật như kinh đã nói rộng.
Phật dùng nghĩa vô lượng tán thán Bát-nhã, trí tuệ Phật không thể cùng  tận, công đức Bát-nhã cũng không thể cùng tận, vì sao? Vì tướng Bát-nhã  ba-la-mật không có hạn lượng; danh từ, ngôn ngữ, chương cú, quyển số có  hạn lượng như các câu chữ trong các quyển kinh Tiểu phẩm Bát-nhã, Phóng  quang Bát-nhã, Quang tán Bát-nhã v.v... có hạn lượng, còn nghĩa lý  Bát-nhã không có hạn lượng. A-nan hỏi: Tại sao Bát-nhã không có hạn  lượng? - Phật đáp: Vì Bát-nhã tự lìa tướng, lìa tướng nên từ trước lại  đây không sinh không nhóm; không sinh không nhóm nên không tận không  diệt. Trong đây Phật tự nói nhân duyên: Vô lượng vô số chư Phật và đệ tử  quá khứ dùng Bát-nhã ba-la-mật chiếu sáng mười phương, độ vô lượng  chúng sinh đều vào Vô 
 
[1] Xem Đại trí độ luận, quyển 7, tr. 112b16-c6, quyển 67, tr. 530a1-b3, quyển 39, tr. 347a6-348c5. 
 
 
* Trang 743 *

dư Niết-bàn, vì  Bát-nhã ba-la-mật nên không cùng tận; chư Phật vị lai, hiện tại cũng như  vậy. Thí như có người muốn đi cùng tận hư không, hư không không thể  cùng tận, công đức của Bát-nhã ba-la-mật, cho đến trí Nhất thiết chủng  cũng như vậy, đã không tận, nay không tận sẽ không tận. Có người biết  quá khứ không cùng tận, nhưng cho vị lại, hiện tại có cùng tận, thế nên  nói ba đời không thể cùng tận, vì sao? Vì các pháp vốn vô sinh, làm sao  cùng tận! Phật biết Bát-nhã ba-la-mật là không cùng tận, nhưng vì danh  tự, ngôn ngữ, chương cú có cùng tận nên phó chúc. Như người đem bình dầu  thơm phó chúc cho đệ tử, tuy không phải vì tiếc cái bình mà chỉ vì để  giữ gìn dầu thơm. Ngôn ngữ, văn tự hay giữ gìn nghĩa lý cũng như vậy;  nếu mất ngôn ngữ, văn tự thời nghĩa lý chẳng còn.
Bấy giờ Phật vì người tín thọ Bát-nhã, nên hiện tướng lưỡi dài phủ lên  mặt, hỏi A-nan rằng: Ta nay ở giữa bốn chúng phó chúc Bát-nhã cho ông,  ông hãy vì chúng sinh giải nói, hiển bày, phân biệt, làm cho dễ hiểu.
Sở dĩ hiện tướng lưỡi rộng dài là theo tướng pháp của thế gian. Lưỡi có  thể phủ lên mũi là tướng không vọng ngữ, huống gì phủ lên mặt, thế nên  Phật chỉ cho chúng sinh rằng: Thân ta từ cha mẹ sinh ra đã có tướng lưỡi  ấy, nay muốn đem Bát-nhã ba-la-mật khiến ông tin hiểu, vì các ông chưa  được Nhất thiết trí, không thể biết khắp, vì muốn khiến các ông tin nên  hiện tướng lưỡi, chứ chẳng phải dùng thần thông hiện ra. 
 
* Trang 744 *

Phật đối với pháp thâm thâm, trí tuệ, thiền định còn không đắm trước, huống gì tám pháp thế gian (lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, đắc, thất - ND),  vì cái lợi cúng dường mà lại làm việc hư dối! Ở giữa hết thảy pháp như  chim bay giữa hư không không bị chướng ngại. Phật chỉ vì bản nguyện độ  sinh, tâm đại bi thương xót hết thảy nên đem cái lợi đệ nhất là Bát-nhã  ba-la-mật, ân cần phó chúc cho ông.
* Lại nữa, A-nan! Người tu Bát-nhã ba-la-mật thậm thâm có thể vào môn Đà-la-ni (dhāraṇī) Văn tự, nhân nơi một chữ mà liền chứng nhập rốt ráo không (atyanta-śūnyatā), nên gọi là Đà-la-ni Văn tự. Như các văn tự đều từ Bát-nhã ba-la-mật mà có được;[1] ngoài ra như Văn trì Đà-la-ni (là nghe được rồi, giữ gìn không mất - ND)  v.v... cũng đều do Bát-nhã ba-la-mật mà có được. Bồ-tát có được Pháp  Đà-la-ni rồi, được môn biện tài như đã nói trước, trải vô lượng vô số  kiếp nói một câu, một nghĩa mà không bao giờ hết; ấy gọi là chơn pháp  của chư Phật ba đời, lại không có pháp khác.
* Lại nữa, A-nan! Bát-nhã là diệu pháp của ba đời mười phương chư Phật;  như thành chỉ có một cửa, người bốn phương đi đến không có cửa khác đi  vào. Này A-nan! Ta nay vì ông mỗi mỗi nói rõ ràng: Nếu có người thọ trì  Bát-nhã, chẳng phải chỉ thọ trì pháp Ta, mà cũng thọ trì Vô thượng Chánh  đẳng Chánh giác của chư Phật ba đời. Này A-nan! Nơi nơi Ta đều nói  Bát-nhã ba-la-mật là đôi chân của hành giả, vì cớ sao? Vì Bồ-tát được  Bát-nhã thời có thể hành đạo Bồ-tát. Này A-nan! Ông 
 
[1] Đại trí độ luận,  quyển 28, chương 40: giải thích sáu thần thông, tr. 268 a23-29: Lại  nữa, có Đà-la-ni lấy b?n muoi hai chữ (dvacatvari?sad ak?ara) mà thu  nhiếp hết tất cả ngôn ngữ danh tự. Những gì là b?n muoi hai chữ? Đó là  A-la-ba-giá-na v.v..., A-đề (Bàn-đầu), A-nậu-ba-nại (Bất sanh)  (adi-anutpanna). Vị Bồ-tát tu hành Đà-la-ni nghe chữ “A” ấy, liền vào  tất cả pháp ban đầu chẳng sanh. Các chữ như vậy, chữ theo chỗ nghe, điều  vào trong thật tướng hết thảy các pháp. Ấy gọi là Tự nhập môn  đà-la-ni-(Ak?aramukhapravesadhara?i); quyển 48(tr. 407c10-409c24, quyển  42, tr. 366c27-367a6. 
 
 
* Trang 745 *

được Bát-nhã Đà-la-ni (prajñā-dhāraṇī) nên có thể giữ gìn hết thảy Phật pháp.
Hỏi : Do sức Văn trì Đà-la-ni nên có thể giữ gìn, cớ sao lại nói có được Bát-nhã nên có thể giữ gìn hết thảy Phật pháp?
Đáp: Văn trì Đà-la-ni có thể giữ gìn pháp có số lượng,  Đà-la-ni thế gian cũng có, như Tu-thi-ma ngoại đạo cũng được Văn trì  Đà-la-ni, tuy được trong ít lúc, lâu ngày quên mất, còn từ Bát-nhã được  Đà-la-ni thời thọ trì rộng rãi các pháp, không bao giờ quên mất, đó là  chỗ sai khác.
Hỏi : Bát-nhã là Ba-la-mật, cớ gì còn gọi là Đà-la-ni?
Đáp: Thật tướng các pháp là Bát-nhã có nhiều lợi ích, được  chúng sinh ái niệm, nên có nhiều danh xưng; như Phật có mười hiệu. Văn  tự Bát-nhã ba-la-mật cũng như vậy, hay dẫn đến bờ mé hết thảy trí tuệ,  nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật. Bồ-tát tu Bát-nhã được thành Phật, đổi lại  gọi là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; như ở trong tâm Tiểu thừa thời  chỉ gọi là Ba mươi bảy pháp trợ đạo, ba cửa giải thoát; nếu người muốn  được nghe rồi không quên, thời ở trong tâm người ấy gọi là Đà-la-ni. Thế  nên Phật nói thí dụ ngọc Như ý, tùy theo màu sắc của vật ở trước nó mà  thay đổi tên gọi. Phật nói mỗi mỗi công đức của Đại Bát-nhã cũng như  vậy.
(Hết cuốn 79 theo bản Hán)
 
* Trang 746 *
