CHƯƠNG 17
GIẢI THÍCH: ĐÀN BA-LA-MẬT
KINH: Phật bảo: “Xá-lợi-phất! Bồ-tát Ma-ha-tát do không trú pháp mà trú trong Bát-nhã Ba-la-mật, vì không có gì xả mà được đầy đủ Đàn Ba-la-mật. Vì người cho, người nhận và tài vật đều bất khả đắc vậy.”
LUẬN: Hỏi: Bát-nhã Ba-la-mật là những pháp gì?
Đáp: Có người nói: “Tuệ căn vô lậu là tướng Bát-nhã Ba-la-mật, vì cớ sao? Vì tuệ căn vô lậu là bậc nhất trong các tuệ, nên gọi Bát-nhã Ba-la-mật? Vì tuệ căn vô lậu là bật nhất, nên tuệ căn vô lậu gọi là Bát-nhã Ba-la-mật.”
Hỏi: Nếu Bồ-tát chưa dứt hết kiết sử, làm sao được thực hành tuệ vô lậu?
Đáp: Bồ-tát tuy chưa dứt kiết sử, thực hành vô lậu Bát-nhã Ba-la-mật tương tự, cho nên được gọi là thực hành vô lậu Bát-nhã Ba-la-mật. Thí như người Thanh-văn thực hành noãn pháp, đảnh pháp, nhẫn pháp, thế đệ nhất pháp, trước tiên thực hành pháp vô lậu tương tự, sau mới dễ được sanh ra khổ pháp trí nhẫn-duḥkhe dharmajñānakṣānti.[1]
Có người nói: “Bồ-tát có hai hạng: Có hạng dứt kiết sử được thanh tịnh; có hạng chưa dứt kiết sử, không được thanh
[1] Tham khảo T. 29: A-tỳ-đạt-ma câu-xá luận (abhidharmakośa-śāstra-阿 毘 達 磨 俱 舍 論), quyển 23, tr. 121b23-c9; Abhidharmakośa, quyển 7, tr. 393.
tát Thiên Tu hỏi: “Trưởng lão Đại Ca-diếp bậc kỳ túc cao niên, bậc nhất về hạnh tu mười hai pháp đầu đà, tại sao không thể ngồi yên trên tòa?” Đại Ca-diếp nói: “Ngũ dục của ba cõi không thể làm lay động tôi, nhưng đây là vì các công đức thần thông quả báo của Bồ-tát khiến tôi như vậy, chứ chẳng phải tôi có tâm động, không thể tự an. Thí như núi Tu-di, gió thổi bốn bề không thể làm lay động, nhưng đến khi đại kiếp tận diệt, có gió Tỳ-lam nổi lên thì như thổi cỏ mục.”
Do các việc như vậy, nên biết trong hai thứ kiết sử, có một thứ chưa dứt hết. Những Bồ-tát như vậy, nên phải thực hành Bát-nhã Ba-la-mật, ấy là trong A-tỳ-đàm nói.
Lại có người nói: “Bát-nhã Ba-la-mật là hữu lậu tuệ, vì cớ sao? Vì Bồ-tát khi đến dưới cội Bồ đề mới dứt hết kiết sử. Trước đó tuy có đại trí tuệ, có vô lượng công đức mà các phiền não chưa dứt hết. Thế cho nên nói Bát-nhã Ba-la-mật của Bồ-tát là trí tuệ hữu lậu.”
Lại có người nói: “Từ sơ phát tâm cho đến khi ngồi dưới cội Đạo thọ, những trí tuệ có được ở khoảng trung gian đó, gọi là Bát-nhã Ba-la-mật. Đến khi thành Phật, thì Bát-nhã Ba-la-mật ấy đổi lại gọi là Tát-bà-nhã.”
Lại có người nói: “Trí tuệ hữu lậu vô lậu của Bồ-tát dều gọi là Bát-nhã Ba-la-mật, vì cớ sao? Vì Bồ-tát quán Niết-bàn, hành Phật đạo. Do việc như vậy, nên trí tuệ của Bồ-tát phải là vô lậu. Lại nữa vì chưa dứt hết kiết sử, việc phải làm chưa làm xong, nên gọi là hữu lậu.”
Lại có người nói: “Bát-nhã Ba-la-mật của Bồ-tát là vô