PHẨM I: QUẢNG CHIẾU KHÔNG HỮU
"Không"  nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc"được  thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh, vô danh  là cha của danh vô tướng là mẹ của tướng, ấy là nguồn gốc của muôn  loài, thái tổ của trời đất, trên tỏ rõ đủ thứ hình tượng, dưới bày ra  nhà cửa cây cối, nguyên khí (tự tánh) hàm nơi đại tượng, đại tượng ẩn  nơi vô tướng, ấy là cái linh tánh hay nhận vật trong linh có thần, trong  thần có thân, vô vi biến hóa, mỗi mỗi theo nơi tự nhiên. Vừa mống lên  chút sự dụng thì dần dần mới có danh tướng, tướng sanh khởi khi chưa có  thật chất, danh lập ra lúc chưa có tên gọi, danh tướng đã hiện thì du  khí (1)[1] làm đục cái trong sạch của tự tánh, từ tịch liêu trống rỗng  sanh ra đủ thứ phân biệt, trên thì có vua, dưới thì có thần, cha con  thân cận cùng ở, tôn ty ngôi bậc khác nhau, đời sống văn minh bắt đầu,  con người thành lập gia đình, rồi từ đó tụ nhau hình thành bộ lạc, trong  mỗi bộ lạc gồm nhiều hộ, mỗi người tự giữ lấy bổn phận của mình. Vì an  ninh trật tự mà đặt ra lễ giáo, nên có danh từ để phân chia thiện ác,  người thiện được trọng, kẻ ác bị khinh; người trí thong thả, kẻ ngu tự  trói, từ đó mống khởi đủ thứ thị phi, trên bày ra sự phiền phức, dưới  chẳng có sự an vui, làm mất cái ý chí tự nhiên của con người, bị bó buộc  vào cái khuôn khổ của ngoại vật, mê lầm cái hữu vi của vô vi, động  thành cái tác dụng của hữu tác. Giáo hóa đã thi hành, khiến trên dưới  đều phải tuân theo, cho nên, thanh lập ngũ âm, sắc lập ngũ sắc, hạnh lập  ngũ hành, đức lập ngũ đức, có thầy có trò, thầy đã dạy bảo trò phải  tuân theo, mảy may xê dịch, lỗi bằng Tu Di, luật cấm khi chưa phạm,  phòng ngừa lúc chưa làm, có nhiều điều hạn chế, chẳng tha thứ khoan  hồng. Tại sao vậy? Vì con người tham dục chẳng biết đủ, từ đó sanh ra  hỗn loạn.
Trời đất vắng lặng, vũ trụ trống rỗng, trong niệm vừa  dấy lên chút bụi trần, liền thành lớp màng che phủ con mắt của tự tánh.  Cái bản thể lừng lẫy vốn là trong ngoài thần linh, vọng tưởng bỗng khởi  thì chơn nhất (tự tánh) ẩn dấu, do vọng sanh ý thức phân biệt nên chơn  tánh bị mê hoặc, chẳng cần cầu mà mong cầu, chẳng cần đắc mà muốn đắc,  nói về lý thì vô cùng, nói về vật thì vô tận, từ đó sanh ra động loạn,  bên trong sanh khởi tam độc, bên ngoài lãnh thọ ngũ dục, thân tâm bận  rộn bối rối, đuổi theo thấy nghe, tùy cảnh tạo tác, như lửa cháy bừng.  Nên bậc thánh kiến lập chánh giáo, nói ra chơn lý, khiến những kẻ ngu  muội có nơi nương tựa, tu vô vi, ngưng hữu vi, dần dần đến chỗ như như.  Cái lý như như này là bản thể của chơn tánh, chẳng thể tu chứng, chẳng  thể mong cầu, chỉ là tánh tịch diệt vậy.
Cái nhân duyên vào đạo  có muôn ngàn đường lối, như cá bị kẹt nơi vũng lầy, chim bệnh mắc trong  đám sậy, cả hai đều chẳng biết nơi biển lớn rừng sâu, con người tu theo  tiểu thừa thì cái nghĩa cũng vậy. Ấy là phí công tu lâu, ngưng nghỉ giữa  đường, vì chẳng thông đạt được lý như như, bỏ lớn cầu nhỏ, được ít cho  là đủ, tự an nơi tiểu an, chẳng bằng sự an ổn của đại an. Nói "đại" là  mênh mông chẳng bờ bến, tất cả hàm linh vạn vật đều đồng, ứng cơ thì có  muôn ngàn phương tiện, biến hóa thì có đủ thứ tướng hiện, nhưng chẳng  xuất chẳng nhập, sự dụng chẳng có gián đoạn. Có tâm vô tướng, có dụng  chẳng người, thị hiện sanh mà vô sanh, thị hiện thân mà vô thân, thường  suy lường mà chẳng lường, thường biết mà chẳng biết, vi mà vô vi, đắc mà  vô đắc, gương tỏ ngàn tượng, nước hiện muôn sắc, trong bóng phân ra  trần thế tam giới, ứng dụng vô tận, vô tướng mà thành tướng, vô danh mà  lập danh, loài vật cảm ứng với nhau, hòa hợp mà sanh. Nhưng sanh cũng  chẳng sanh, tình cũng chẳng tình chúng sanh gọi là thánh, chúng sanh gọi  là minh, đủ thứ danh hiệu, tùy mọi vật mà gán tên, kỳ thực đều lấy vô  vi làm tông chỉ, vô tướng làm dung mạo, trống rỗng đồng như hư không,  muốn tìm thì chẳng có xứ sở, mà sự dụng thường ở trong đó. Kẻ đắc là  nhất, kẻ chứng là mật, đắc thì bất nhất, chứng thì bất mật, nhưng phi  bất nhất, phi bất mật, bản thể âm ly, sự dụng dương vi (âm ly và dương  vi, giải thích nơi  phẩm sau), nói lý thì vô cùng, nói hành thì vô tận,  ấy gọi là thái vi (tự tánh). Cũng như cây cỏ vô cùng, nước suối vô tận,  gió thổi chẳng ngưng, tiếng chuông chẳng ngừng, loài vật còn như vậy,  huống chi là đạo! Sự hữu ắt phải chóng mất, sự vô ắt được lâu dài, trời  đất dù có thay đổi, hư không luôn luôn trống rỗng.
Người học đạo  thì học theo vô dư, kẻ chẳng học đạo thì học theo hữu dư. Vô dư thì đạo  gần, hữu dư thì đạo xa, tri hữu thì hữu hoại, tri vô thì vô hoại, sự tri  của chơn tri, hữu vô đều chẳng chấp, nơi hữu mà chẳng hữu, nơi vô mà  chẳng vô, hữu vô đều chẳng chấp thì tánh tướng như như, bản thể của tự  tánh tịch nhiên vô vật, sự dụng từ đó mà ra. Nếu chẳng như thế thì trở  thành nhiều vọng nhiều sai, trong có mộng tưởng, do đó huân tập thành  nhiều bệnh, chẳng hung mà hung, chẳng kiết mà kiết (lành), những việc  kiết hung, chướng ngại chơn nhất, nên người hành đạo chẳng nên mê theo  mộng tưởng. 
Người học đạo có ba loại: một gọi là chơn, hai gọi  là lân (lân cận), ba gọi là văn (nghe), tập học gọi là văn, tuyệt học  gọi là lân, vượt cả hai này gọi là chơn. Người chẳng học đạo cũng có ba:  bậc thượng gọi là tường, bậc trung gọi là lương, bậc hạ gọi là ương  (tai họa); cực vui gọi là lương, cực khổ gọi là ương, chẳng khổ chẳng  vui gọi là tường, nhưng ba loại này đều chẳng nhập chơn thường, tức là  chẳng phải đạo vậy.
Tự tánh nhiệm mầu, sự dụng mênh mông, hễ tâm  trần nhiễu động thì như biển nổi làn sóng, thành sự sanh tử luân hồi  trong lục đạo, chẳng thể dùng đạo tiếp tế, chẳng thể dùng Chơn cứu giúp,  thật đáng buồn thay! Chư Phật thương xót như mẹ nhớ con, dù muốn độ hết  nhưng phải có cơ duyên, nên có duyên thì hiện, chẳng duyên thì ẩn, đại  đạo như thế, xưa nay đều vậy, chẳng thể thình lình, chẳng thể làm gấp.
Chơn  tánh tự có trí, trong trí tự có bi (từ bi), bi hay cứu khổ, khổ cứu  chẳng được, Chỉ tự lao nhọc, hễ khi độ được thì cứ độ tiếp mãi. Nhưng  chúng sanh thường ở trong mộng tưởng, dù học đạo siêng năng tinh tấn,  nhưng chẳng tin tự tâm, mà tìm kiếm bên ngoài, lạc mất đường lối chánh  pháp, như ô uế làm đục nước trong, bởi do tình chấp thật có thật không,  chẳng lìa được phiền não, thật là khổ thay!
Mặt trời ẩn trong đám  mây, dù sáng mà chẳng chiếu; trí huệ ẩn trong mê hoặc, dù chơn mà chẳng  phải đạo. Tại sao vậy? Vì tự mình chưa ra khỏi ràng buộc, cho nên xa  thì chẳng thể dung hợp, gần thì chẳng thể lìa bỏ, kẻ chưa đạt đạo chẳng  nên làm càn! Kẻ quyết quay về thì chẳng màng việc sau, kẻ quyết chiến  thì chẳng màng cái đầu, kẻ quyết học thì chẳng quý cái thân, kẻ quyết  học đạo thì chẳng quý nơi sự, nhập chẳng dấu tích, xuất không chỗ tìm,  ngộ vô sở đắc, phan duyên tự tịch, tịch mà chẳng sanh, tự thể vô danh,  vô danh là thật, lý chẳng ngoài dục, hằng sa công đức, rõ ràng cụ túc.
Loài  vật sống trong vỏ như cua, ốc thì chẳng biết sự rộng lớn của vũ trụ;  loài vật sống trong ao giếng thì chẳng biết sự mênh mông của biển cả,  trong tối thì chẳng sáng, trong sáng thì chẳng tối, các pháp mỗi mỗi  chẳng biết nhau, nên vật cách tình lìa, nghịch tình thì khó hiểu, cũng  như trái táo có sâu, bên trong đã hư mà bên ngoài vẫn tốt; như nước với  cát cùng chảy thì trên trong dưới đục; cũng như quốc gia có gian thần  thì đất nước chẳng yên, hễ trong tâm có ẩn dấu hình tướng thì vạn vật  đều loạn. Tại sao? Vì đã mắc bệnh vậy. Cho nên, hễ vật có linh (giác  tri), linh tất có yểu (tà vọng), yểu tất có dục, dục tất có tâm (ý thức  phân biệt), tâm tất có tình, tình động thành dục, yểu phát thành tinh  (yêu tinh), tinh mê nơi thần, dục mê nơi chơn. Vậy thì người học đạo  chẳng nên lọt vào loại lân (tuyệt học), cũng như gương cổ chiếu soi yêu  tinh thì yêu tinh tự hiện hình, cổ giáo (giáo pháp của cổ đức) chiếu soi  nơi tâm thì tâm tự minh. Hễ nói về trời đất thì có trên dưới; nói về  nhựt nguyệt thì có đông tây, nói về thân thể thì có bỉ thử, nói về tâm  thức thì có thị phi, nếu không có bỉ thử thì thị phi chẳng sanh. Chỉ vì  vật theo tình đổi, tình tùy vật dời, trong ngoài lay động, tâm đuổi theo  vật, tự thành lao nhọc, khi sống thành người, khi chết thành hồn, tương  tợ tương tục, như thân trong chiêm bao, khi chiêm bao thì chấp cái thân  trong chiêm bao là ta, vậy thì cái thân thức tỉnh chẳng phải ta; khi  thức tỉnh thì chấp cái thân thức tỉnh là ta, vậy thì cái thân trong  chiêm bao chẳng phải ta. Kỳ thực, tất cả đều như chim bay trên trời,  chẳng có dấu tích, những hiện tượng kỳ lạ khó suy khó lường, âm dương  tương đối, võng tưởng âm thầm, mỗi mỗi tự có nhân quả?, sự vật như huyễn  hóa, đủ thứ hiện tượng đều chẳng phải thật, ấy gọi là bất chơn, chỉ làm  mê hoặc con người.
Chơn lý trống rỗng, vốn là vô thân, sự thần  thông biến hóa như con rồng trên trời, sự che khuất vũ trụ như mây bỗng  tụ, ấy chưa phải là quý, ấy chưa phải là chơn, nếu chấp đó cho là thật  tức là người chưa đạt đạo. Hoặc có hình tướng đẹp đẻ, hoặc có ngôn ngữ  biện tài, hoặc có trí huệ thông minh, hoặc có ứng dụng khéo léo, nếu  chấp ấy cho là đạo cũng chưa phải là việc lành vậy. Sự hữu tất bất chơn,  tạo tác tất bất thường, trời đất còn phải hoại, huống là vật chất, đâu  thể vững chắc lâu bền!
Chỉ có đạo là vô căn (gốc), trạm nhiên  thường tồn, chỉ có đạo là vô thể, vi diệu thường chơn, chỉ có đạo là vô  sự, xưa nay thường quý chỉ có đạo là vô tâm, muôn vật đầy đủ. Nên đại  đạo vô tướng, vô hình, vô sự, vô ý, vô tâm hay lợi ích chúng sanh vạn  vật, làm chủ cho tất cả người và vật, vạn vật đều có đối đãi, chỉ có đại  đạo độc tồn, bên ngoài chẳng có cái khác, bên trong chẳng phải trống  rỗng, chẳng trong chẳng ngoài, bao hàm thái nhất (tự tánh), gồm cả vũ  trụ, vạn vật đầy đủ. Cái thực tướng ấy phi nội phi ngoại, phi tiểu phi  đại, phi nhất phi dị, phi minh phi muội, phi sanh phi diệt, phi thô phi  tế, phi không phi hữu, phi khai phi bế, phi thượng phi hạ, phi hành phi  hoại, phi động phi tịnh, phi quy phi thệ (mất), phi thâm phi thiển, phi  ngu phi huệ, phi nghịch phi thuận, phi thông phi tắc, phi bần phi phú,  phi tân phi cố (cũ), phi hảo (tốt) phi tệ (xấu), phi cương phi nhu, phi  độc phi đôi, tại sao vậy? Nếu nói là nội thì bao hàm pháp giới, nếu nói  là ngoại thì ứng dụng đầy đủ, nếu nói là tiểu thì phổ khắp xa gần, nếu  nói là đại thì nhập vào vi trần, nếu nói là nhất thì hình tướng đủ thứ,  nếu nói là dị thì bản thể vô vật, nếu nói là minh thì mờ mờ mịt mịt, nếu  nói là muội thì chiếu soi sáng tỏ, nếu nói là sanh thì vô tướng vô  hình, nếu nói là diệt thì xưa nay thường linh, nếu nói là thô thì rút  thành hạt bụi, nếu nói là tế thì thân bằng tu di, nếu nói là không thì  sự dụng mênh mông, nếu nói là hữu thì chẳng có dung mạo, nếu nói là khai  thì chẳng nhập trần ai, nếu nói là bế thì nghĩa rộng vô biên, nếu nói  là thượng thì bình đẳng vô tướng, nếu nói là hạ thì chẳng vật nào so  bằng, nếu nói là thành thì duyên hết liền tan, nếu nói là hoại thì luôn  luôn tồn tại, nếu nói là động thì trạm nhiên vắng lặng, nếu nói là tịnh  thì bận rộn lăng xăng, nếu nói là quy thì đi mà chẳng về, nếu nói là thệ  thì ứng cơ trở lại, nếu nói là thâm thì vạn vật cùng ở, nếu nói là  thiền thì gốc chẳng thể tìm, nếu nói là ngu thì ứng cơ chẳng sai, nếu  nói là huệ thì tịch diệt vô dư, nếu nói là nghịch thì có tín có tựa, nếu  nói là thuận thì vật chẳng thể trói, nếu nói là thông thì chẳng thấu  tông tích, nếu nói là tắc thì ra vào trống rỗng, nếu nói là bần thì muôn  ngàn công đức, nếu nói là phú thì chẳng có một vật, nếu nói là tân thì  sẵn từ đời xưa, nếu nói là cố thì vật chẳng ô nhiễm, nếu nói là hảo thì  chẳng vật để giữ, nếu nói là tệ thì từ xưa vẫn vậy, nếu nói là cương thì  sanh diệt bất thường, nếu nói là nhu thì sức mạnh vô cùng, nếu nói là  độc thì hằng sa chủng tộc, nếu nói là đôi thì chơn nhất chỉ một. Nên đại  đạo chẳng thể dùng chữ nhất để gán tên, chơn lý chẳng thể dùng một  nghĩa nào để diễn tả, nay chỉ thể trình bày đại khái, chẳng thể tỏ rõ  tận cùng, dù cho chặt đầu thiêu xác cũng chẳng thể làm thương tổn sự  sanh, kim đơn cam lồ cũng chẳng thể giữ mãi sự sanh, nếu chơn sanh thì  bất diệt, chơn diệt thì bất sanh, nên có thể gọi là thường diệt, cũng có  thể gọi là thường sanh. Kẻ ham sanh sợ diệt ấy là chẳng ngộ lý thường  diệt, kẻ muốn diệt chán sanh ấy là chẳng ngộ lý thường sanh, nhưng kẻ mê  người ngộ đều là chẳng thấy chơn nhất, vì có tâm lấy bỏ, đuổi theo tình  chấp hư vọng vậy.
Thường không chẳng có, thường có chẳng không,  nếu cả hai chẳng đối đãi thì mỗi mỗi đều là chánh tông. Cho nên bậc  thánh tùy có nói có, tùy không nói không, không chẳng trái có, có chẳng  trái không, hai lời chẳng bệnh, hai nghĩa đồng thông, cho đến nói "ngã"  cũng chẳng trái với "vô ngã", nói "sự" cũng chẳng trái với "vô sự", nên  chẳng bị lời nói xoay chuyển. 
Đúc vàng thành người, nếu chỉ nhìn  người mà chẳng nhìn vàng thì bị hình tướng mê hoặc, ấy gọi là mê, tại  sao? Vì mất cái chơn vậy. Thế thì tất cả đều huyễn, hư vọng chẳng thật,  biết huyễn là huyễn, trong giữ chơn nhất, ngoài chẳng nhiễm vật, ấy là  sự trống rỗng của thái nhất, thì chơn đâu có mất! Quên tâm bỏ ý, thể lìa  bệnh tật (bệnh chấp thật), một tướng chẳng sanh, kiết hung tịch lặng,  kiết còn không theo, hung làm gì được! Sự kiết sự hung đều chẳng nương  tựa.
Đường lối vào đạo như nước trong lặng hiện bóng vạn tượng,  trong ngoài rõ ràng, tâm chẳng nổi, ý chẳng sanh, chẳng xuất chẳng nhập,  trạm tịch như như, trong ngoài chẳng nhiễm, vật chẳng biết nhau, chẳng  nhờ lời nói văn tự, mỗi mỗi tự có cái bản nhất. Như lửa chẳng nhờ mặt  trời mà nóng, gió chẳng nhờ mặt trăng mà mát, sáng chẳng nhờ tối, khô  chẳng nhờ ướt, vật vật còn chẳng nhờ nhau huống chi là đạo!
Vạn  vật do con người mới được hiện ra sự dụng, người phụ thuộc nơi vua, vua  nương tựa nơi người, ngộ được tất cả bất nhị ấy gọi là Phật, tam giới  độc tôn, giác ngộ vô vật, chẳng làm mà làm, việc làm đã xong, hiệu chánh  biến tri. Là đạo sư của trời người, dẫn dắt chúng sanh, phương tiện tùy  nghi, lý tịnh dù hư vô, ánh sáng siêu huệ nhật, chiếu khắp mười phương,  trên dưới cùng được lợi ích, chẳng muốn khác với con người, chẳng muốn  khác với trần thế, chẳng muốn khác với nghĩa lý, chẳng muốn khác với  nhân quả, tất cả đều bình đẳng bất nhị, nhất thể viên thông, lý ấy khó  thấy, nhờ sự gì, thiết phương tiện, lập ra pháp số, vấn đáp, ngôn luận,  tùy cơ ứng hiện, gọi là chơn thật của đại tượng.
Kẻ ham bên ngoài  là chấp trần, kẻ ham bên trong là chấp thân, kẻ ham thấy nghe là chấp  tâm, dựa theo lục trần là dục giới, dựa theo hình tướng là sắc giới, dựa  theo tâm so đo là vô sắc giới, diệt ba loại này gọi là đạo đế, hễ diệt  đế tức là đạo vậy. Nhưng cái đạo này chỉ là phương tiện tạm thời, chưa  phải là chánh, tam giới hư vọng chẳng thật, lục đạo như mộng huyễn vô  vật. Người đạt đạo chẳng bỏ một pháp, chẳng đắc một pháp, chẳng tu một  pháp, chẳng chứng một pháp, tự tánh thiên chơn trong sạch, gọi là đại  đạo. Do đó quán khắp thiên hạ, tức người tức chơn, nếu ngộ lý này thì  bình đẳng đồng một, nhưng kẻ học đạo này đã hiếm có, mà kẻ đắc đạo này  lại càng ít hơn, vì việc này thâm sâu, mịt mù khó biết, người biết được  là đạo sư, kẻ thông suốt là yên ổn, động tác vô tâm thì tác mà vô vi, vô  vi mà vi thì vô sở bất vi, hòa quang tùy vật nên vật chẳng thể trói.
Ở  nơi trời đất, khắp cả vũ trụ, có một bửu vật, ẩn trong hình tượng, tự  tánh linh chiếu, trong ngoài trống rỗng, tịch lặng khó thấy gọi là huyền  diệu, sự dụng khéo léo ra ngoài tưởng tượng, sức lực ẩn nơi hư vô, tùy  cơ giáo hóa mà chẳng động, độc nhất không hai, hễ lên tiếng thì phát ra  diệu âm, hiện hình thì tỏ ra diệu sắc, muốn thấy thì chẳng có xứ sở, chỉ  có thể tạm gán tên gọi là không không. Chỉ giữ âm thanh, chẳng thấy  hình tướng, chỉ giữ công đức, chẳng thấy dung mạo, ẩn hiện đều chiếu soi  sáng tỏ, vật và lý dung thông ấy là bửu ấn của sum la, chơn tông của  vạn tượng. Nói về hình tướng thì âm thầm tịch lặng, bản thể trong sạch  mà chẳng phải sáng, pháp vốn viên mãn, quang minh siêu nhựt nguyệt, đức  dụng vượt vũ trụ, vạn vật vô tác, tất cả vô danh, chuyển biến trời đất,  tự tại tung hoành, hằng sa diệu dụng, hỗn độn mà thành, ai nghe được  chẳng vui mừng, ai thấy được chẳng ngạc nhiên, chúng sanh tại sao cho  cái bửu vật vô giá đem chôn vùi trong hầm của ngũ ấm lục nhập! Sự đen  tối nhiều kiếp làm sao mà sáng được? Ấy là tự khinh, thật đáng thương  xót!
Cái bửu vật ấy sáng lạn chói chang, chiếu khắp mười phương,  tịch nhiên chẳng động, sự dụng cảm ứng rõ ràng, tùy thanh ứng thanh, tùy  sắc ứng sắc, tùy âm ứng âm, tùy dương ứng dương, kỳ lạ chẳng gốc, trạm  nhiên thường tồn, mắt nhìn chẳng thấy, lắng tai chẳng nghe, bản thể  nhiệm mầu, muôn ngàn biến hóa, diệu dụng linh động gọi là tinh vi của  đại đạo. Cái tinh vi ấy rất chơn thật, là nhân sanh khởi của vạn vật,  tịch liêu thường trụ, chẳng gì so bằng. Nên kinh nói: "tùy nơi tâm tịnh  tức Phật độ tịnh", diệu dụng sum la gọi là Bậc thánh.
[1] Du khí: Vọng tưởng hóa thành khí trược, phù du lơ lững trong hư không, gọi là du khí.
