Ngày giờ thấm thoát, phút đã qua năm Ất Hợi (1935), tháng hai, ngày mười chín, dương lịch là 1er Avril 1935. Nghĩ rằng : tiền lo cũng đủ đủ, tham học cũng vừa thông thông. Nay cũng nên nhất định, bèn làm đơn trình quan Chủ-tỉnh, xin giấy xuất dương. Sự tích Tây du Phật quốc sơ dẫn vậy.Xin giấy xuất dương
Ngày 1er Avril 1935, tôi cầm đơn đến dinh quan Chủ-tỉnh, lại phòng việc trình đơn. Quan phủ cho thầy thông coi về vụ xuất dương ; thầy hỏi tên họ, nhựt ký vào sổ và biên số hiệu giấy căn-cước. Thầy làm giấy cho phép xuất dương, đem hầu ký tên và đóng dấu quan Chủ-tỉnh. Đoạn thầy trao cho tôi, bảo đem đến phòng việc sở Thông-hành (ở Saїgon, tại đường Catinat) mà trình và xin giấy Thông-hành. Cám ơn thầy, lấy giấy đi ra chợ, tìm tiệm chụp hình, chụp ba tấm hình nhỏ, y kiểu hình gắn vào giấy Căn-cước, đặng đem đến phòng việc thông hành, dán vào thông hành. Ba ngày mới rồi.
Xin giấy Thông hành
Ngày 3 Avril, tôi đem giấy cho phép xuất-dương và ba tấm hình, thẳng xuống Saїgon, lại phòng Thông hành trình cho quan đầu-phòng. Ngài xem rồi, phủ cho thầy thông coi việc ấy. Thầy lấy giấy in kiểu (imprimé de déclaration) bảo tôi khai lý-lịch, y theo lời hỏi trong giấy, đoạn thầy hỏi giấy thuế-thân và căn-cước. Thầy bảo, thôi để giấy tờ ấy lại đây, ông về nghỉ và trước khi đi một tuần lễ, thì lại đây lấy giấy thông-hành. Tôi chào thầy, ra về, và đi và nghĩ : “Đó là kiểu của sở Thông-hành, trước khi cho người bổn-xứ xuất dương, thì cho lính mật-thám dọ xem tánh-tình, vân vân…”, đi luôn về thảo-thất.
Đến bữa 8 Avril, tôi thẳng xuống tại Nhà-rồng, hãng tàu, lại tại phòng việc hay về sự tàu đi (bureau de départ), tàu về (arrivée), đặng hỏi thăm. Vào đó, có mấy thầy Annam và Ấn-độ làm việc. Tôi chào và hỏi thăm, chừng nào có tàu đi qua Madras ? Thì có thầy Ấn-độ, xem sổ và lấy giấy in, biên tên tàu và ngày giờ đi, rồi trao cho tôi và nói : “17 Avril có chuyến tàu đi về Tây, sẽ đi ngang Ấn-độ và đáp bến Madras ; thầy đem giấy nầy đến sở Thông-hành mà trình thì tiện việc.” Chào mấy thầy, đi qua sở Thông-hành, trao giấy cho thầy thông, thầy xem rồi bảo đóng 3.$00 tiền giấy thông-hành. Thầy thâu bạc rồi, bảo 15 Avril lại lấy đủ giấy tờ. Chào thầy, trở về nghỉ.
Đúng 7 giờ rưỡi mơi ngày 15 Avril tôi có tại sở Thông-hành kỳ chót. Thầy thông thấy tôi, bèn lo làm giùm giấy thông-hành. Tôi thấy bữa nay thầy mới chịu làm thông-hành, thì biết rằng : “Không điều chướng ngại, vì sở mật-thám đã cho tin lành rồi. Ăn thua bữa nay, nếu có điều ma chướng thì không trông đi đặng.” Thầy bảo đưa 40.$00 đăng tiền thế-chưng quận về. Tôi trao rồi, thầy bèn làm giấy đăng kho, đem qua thượng-thơ ký tên và đi đăng kho giùm. 10 giờ, thầy về sở, trao giáp lai kho cho tôi và nói : “Số tiền nầy, lúc trở về sẽ lãnh lại, phải giữ giáp lai.” Buổi sớm mơi, hầu ký tên chưa đặng. Chiều 3 giờ trở lại sở, chờ tới 4 giờ, ký tên rồi, thầy giao giấy thuế-thân, căn-cước và thông-hành cho tôi. Cám ơn thầy và từ giã ra về, hai cẳng nhẹ nhàng, vì bữa nay mới chắc xong việc và phỉ-nguyện. Đêm nay mới hả hơi và ngủ êm-đềm.
Tại Lãnh-sự Ăng-lê
Sớm mơi bữa 16 Avril, tìm đến phòng quan Lãnh-sự Ăng-lê, đặng hầu ghi trong Thông-hành. Trước phòng-việc Lãnh-sự có một thầy Ấn-độ để lo về vụ ấy. Lại bàn viết của thầy, trao thông-hành. Thầy bảo đóng 5.$00. Thầy thâu tiền rồi, gắn con niêm, nhựt ký, đoạn đem vào cho quan Lãnh-sự ký tên, đóng dấu rồi trao cho tôi. Cám ơn, chào thầy, ra đi thẳng nhà-rồng. Lại phòng bán giấy tàu, nhưng thầy bán giấy nói, mai mua đặng, trở về am nghỉ. Nghĩa là : giấy tàu hạng chót không cần mua sớm, trước hai giờ tàu chạy còn mua đặng.
Một đêm chót cùng huynh đệ
Từ khi lấy đặng giấy thông-hành rồi, thì trong huynh-đệ và chư cô : xuất-gia, cư-sĩ đều có vẻ ưu-bi vì sẽ xa cách một người Thiện-tri-thức. Tôi thấy vậy thì an-ủi mà rằng : Sự du-lịch đất Phật đây chưa phải là một sự hằng-hữu. Nước nhà của mình, mới một mình bần tăng, là Thích-tử Việt-nam, ngày nay đi lễ-bái Thế-tôn thánh địa, nơi Trung-thiên-trước-quốc. Cổ-kim, mới một lần thứ nhứt có cái hạnh-phúc nầy, sao lại không vui, mà lại có sắc buồn-bã là cớ sao ?
Sớm mơi mai, tôi muốn một mình tôi đi êm-ả, xin chư huynh, cô đừng mất công đi đưa làm gì. Tối lại tôi lo ngơi nghỉ, vì mấy ngày rày chạy sở, chạy tần mỏi mê thân-tâm. Tôi cũng có cái ý lánh sự bận bịu. Đến khuya, tôi thức giấc, nghe trống điểm canh ba. Lên chánh-điện, đèn nhang lễ Thánh-tượng và cầu xin để pháp-phục lại Đạo-tràng. Nguyện mặc một cái áo tràng vải dà, theo tục-lệ nước nhà mà đi. Qua đến Tây-thiên sẽ tùy cơ ứng-biến. Đó là đề phòng Ngoại-đạo, e biết pháp-phục mà sanh khó.
Tạm biệt lên đường
Sáu giờ rưỡi mơi, bữa 17 Avril, có xe hơi của cô Diệu-nhẫn ở Lái-thiêu (bà ba Thu) đem đến tiễn-hành. Mở cửa chánh-điện, lễ Thế-tôn thánh-tượng, đoạn ra xe hơi, chư huynh-cô đứng hai bên xe, mà làm lễ tiễn-hành. Tôi và huynh Chí-thông lên xe, có mượn một người Ấn-độ quen ở Lái-thiêu đi xuống Saїgon đổi bạc Ấn-độ giùm.
Xe hơi đi tới đường Catinat là 8 giờ. Anh sáu chà đem vào nhà đổi bạc Ismaёl, đổi. Đoạn gặp một người Ấn-độ trạc lối hai mươi ngoài tuổi, mặc âu-phục, đi ngang qua đây, thấy bọn tôi ăn mặc đồ thầy-tu Ấn-độ, nên dừng chưn hỏi anh sáu chà.
Hai đàng nói chuyện với nhau rồi, thì thầy Ấn-độ âu-phục nói với tôi rằng : Ông đi Madras, không có ai quen, để tôi đem ông lại một người anh em của tôi, đặng nói với y gởi gấm ông tốt hơn. Hạnh-phúc thay, cám ơn người có lòng tốt, đoạn theo chưn ông ta đi lại đường Ohier, ông ta đem tôi vào căn phố 27, thì thấy có một người Xả-tri ngồi nơi bàn-viết, xem người tuổi lối ba mươi. Hai đàng gặp nhau, chuyện vãn, rồi kêu tôi lại gần mà nói rằng : “Ông nầy là Mr. Ramassamy, là phó-hội-trưởng của hội Xả-tri Madras, ổng vui lòng mà gởi gấm ông, ông đừng lo sợ.” Nói rồi, ông ta nói : “Tôi mắc đi làm việc, ông ở đây nói chuyện, đoạn chào mà đi. Ông Ramassamy vui-vẻ mời ngồi, đoạn kêu một thầy Annam làm việc cho hội đến thông ngôn. Đoạn ông Phó-hội-trưởng viết hai cái thơ, viết rồi trao cho tôi và nói với thầy thông-ngôn một chập. Thầy thông nói : “Hai cái thơ một cái trao cho ông Chánh-hội-trưởng khi tàu tới Singapore, vì ổng cũng về Madras, mà ổng đi trước qua Xiêm vì có việc, rồi ổng xuống Singapore mà đáp chuyến tàu nầy mà về Madras. Còn một cái, thì khi ông đến tại thành Ba-la-nại (Bénarès city) tìm lại nhà hội cho vay Madras mà trao, thì ông sẽ đặng an-ổn.” Nói rồi thầy thông chào mà đi lo phận sự. Vì sao mà thầy Ấn-độ âu-phục khi nãy, sẵn lòng đem tôi đi gởi gấm ? Bởi khi nãy, thầy nghe nói ông chủ nhà đổi-bạc Ismaёl không chịu gởi-gấm giùm, vì tôi là thầy tu khác-đạo. Do đó thầy Ấn-độ âu-phục thương đến, nên đem đi gởi gấm. Ismaёl là đạo Hồi-hồi, đối với các chi đạo, thì đạo Hồi-hồi vẫn công kích hết, chẳng một mình đạo Phật mà thôi đâu.
Nhắc lại, ông phó-hội-trưởng Ramassamy có lòng sốt sắng lo thơ từ gởi gấm giùm rồi, ông lại mời ở lại ăn-ngọ, vì ông cũng ăn chay. Căn phố của ông ở cũng gần bên. Ông dẫn lại nhà, thì thấy có bốn người chà ở trong, ông bèn chỉ mấy ảnh mà nói với tôi rằng : “Mấy người nầy cũng về Madras chuyến tàu nầy.” Đoạn cơm đổ vào lá chuối rồi ông mời ngồi lại ăn cơm. Cùng mấy anh chà ăn cơm rồi thì các ảnh lo kêu xe lại chở đồ đi xuống bến tàu.
Chào ông Ramassamy và cảm ơn ông, đoạn ra xe đi với bốn anh chà, và đi và ngó thành phố Saїgon mà từ giã tạm biệt. Tới cầu tàu nhà rồng, bước xuống xe, thẳng lại mua giấy tàu. Thầy bán giấy, xem thông hành y theo luật-lệ, thầy mới dám bán giấy. Trả 70.$00 tiền tàu, lấy giấy quày ra cầu, thấy chư huynh-đệ đứng chực đưa. Tôi thẳng lại, chào nhau và nói : “Chư huynh-đệ không ở Đạo-tràng an-ổn, đi đưa làm chi cho mất thì giờ.”
Đoạn tạm-biệt nhau, tôi lại thang cầu lên tàu, trình giấy cho người gác thang, đặng lên bông tàu.
Tám ngày dưới tàu
Thẳng lên bông tàu, xuống một cái hầm, phòng hạng chót, đồ hành lý chỉ có hai túi-dết, một túi đựng kinh, một túi đựng y-phục. Choán một cái giường, để đồ hành-lý, đoạn thay pháp-phục, trao cho huynh Chí-thông đem về đạo-tràng. Huynh Chí-thông từ-giã lên bờ, tôi leo lên giường ngồi, quan-sát chung-quanh chỗ tạm. Thấy mấy anh chà quen, cũng choán giường gần bên mình. Trước tôi, lại có một người bồi Bắc-kỳ theo chủ về Tây, nằm cái giường đó. Còn bao nhiêu giường kia, đều là người Ấn-độ. Kế cái hầm-phòng nầy là cái căn lò-bếp, để nấu ăn cho hành-khách Ấn-độ. Anh bồi Bắc-kỳ, mỗi khi ăn cơm, lại đến ăn bên phòng bếp An-nam kế bên. Còn tôi, thì đang lúc phải tập ăn cơm theo Ấn-độ, nên tiện bề khỏi đi đâu, lại tiện bề học tiếng Chà và Ăng-lê.
Năm giờ ngoài, tàu xúp-lê mở đỏi. Ai nấy đều lên bông mà chào cảnh-vật Saїgon, tỏ lòng tạm-biệt hay từ-giã. Còn tôi, nằm êm trên giường, nghe tiếng máy chạy ầm-ì và dòm ra lỗ-bô, thấy cảnh-vật thay-đổi như hình rọi trên vải hát-bóng. Khuất gian nhà nầy, tới dãy phố kia, hết tốp người nầy, tới đoàn người nọ. Lầu-đài, nhà-cửa, nhơn-vật, cầu-bến, sông-rạch, cây-cỏ, ruộng-vườn, đường-xá, nói tắt cảnh-vật đều đổi-thay trong nháy mắt. Toại chí, kệ rằng :
Cửa sổ ngựa qua, đời mấy lát,
Lỗ-bô tàu chạy, cảnh thay liền.
Hỏi thăm giả thiệt, vùng hoàn-vũ,
Giấc mộng trả lời, dứt đảo-điên.Kệ rồi, để mắt hai bên lỗ-bô, thấy cỏ xanh đồng, ruộng. Biết tàu đã xa phong cảnh Saїgon, bèn nói trong bụng rằng : “Từ đây, yên hà vân-thủy, phóng thang giang-hồ. Mặt nước, chơn-trời, ra rồi lồng, chậu.” Trong tàu, đèn khí nổi ngọn, ngoài trời trăng ló bóng. Nằm nghỉ, vì mỏi mê cả ngày, phút êm-đềm giấc-ngủ. Chừng giựt-mình thức dậy, thấy quanh giường bạn lữ khách ngáy pho-pho. Xuống giường êm-ái, lại máy nước rửa mặt, rồi lại thang lên bông-tàu. Vắng-hoe, người người đều an-giấc. Gẫm giờ nầy, không ai thức làm gì, ngoài ra người coi bánh lái và bọn chụm lửa và người coi máy, thì không còn ai thức nữa. Tôi đứng dựa song-ly bong-tàu, dòm mặt biển. Mùa nầy, gió lặng sóng êm, tàu không chao-lắc, hèn chi lời tục nói : “Tháng ba, bà già đi biển” phải lắm. Gặp lúc trăng rằm, tỏ-rạng, mặt nước không nhăn, bóng trăng soi tận đáy. Toại kệ rằng :
Gió êm, biển lặng bóng trăng lồng,
Đáy nước, bầu trời, một Hóa-công.
Đuốc nguyệt, đèn sao trên dưới tỏ,
Thiên, Long hội yến tiễn bần-tăng.Kệ rồi, xây lưng, sắp xuống hầm, trực ngó một lớp lính sơn-đá, nằm ngủ trên bong và khách Ấn-độ, một đôi người sắp lớp, kẻ ngang, người dọc ngáy ro-ro. Tôi dừng bước, nhìn đó mà nghĩ rằng : “Kiếp con người đến bao nhiêu đó là cùng. Ngày thức, như kiếp sống, bôn ba tranh cạnh, bỉ-thử lấn-xô, hồ, cáo cấu xé, bất quá bảo tồn cái ngã và ngã-sở, nuôi sống xác-thân. Đêm ngủ, như giấc chết tạm, xả rồi mọi sự, ngã ấy bất quá bản-thân, cũng quên, cũng bỏ. Kẻ nghịch, đến giết cũng không hay không biết. Hà tất ngã-sở, vợ con, nhà cửa, của tiền, vân vân…
Tuy thân còn tại thế, mà trong một giấc ngủ, đủ rồi buông bỏ ; sự mất còn, phú đó cho rủi-may. Huống chi là trong giấc ngàn thu của xác thịt… Một mình nghĩ đến đó, một mình thở ra, rồi thẳng xuống phòng ; thấy đồng hồ đã quá 3 giờ. Lên giường nằm nghỉ, chưa kịp nhắm mắt, nghe đằng chỗ nấu ăn, mấy người chà đầu bếp đã thức dậy, tôi cũng còn nằm nghỉ mệt.
Sớm mơi, điểm tâm lúc 7 giờ, một ly café sữa với bánh mì. No-nê rồi lấy cuốn sách trợ khách (guide) chữ Tây và Ăng-lê, học ít câu để đi đường. Rồi cũng hỏi mấy anh chà tiếng Ấn-độ mà học. Họ nói đâu thì biên vào sổ tay tiếng nấy, vì tiếng Tamil khó nói và khó nhớ lắm.
Trưa 11 giờ ăn cơm với cà-ri chay, chiều họ ăn, mình nghỉ. Ngày nào như ngày nấy. Ngày nào không có cà-ri chay thì tôi lại có cà-na muối, đậu phộng nấu mặn, sẵn dành trong túi-dết.
Bảy giờ mơi ngày 20 Avril 1935, tàu đã tới Singa-pore. Tàu cập cầu rồi, thì khách trên bờ, khách dưới tàu, kẻ lên người xuống. Tàu đậu tới 1 giờ chiều, mặc-tình hành-khách đi xem thành-thị và mua vật-dụng.
Khi ấy, tôi thấy nhiều người Ấn-độ xuống tàu, hỏi thăm anh Bảy Venugopala, ông nào là Tào-kê([5] chủ hội Xả-tri ? Anh ta chỉ rồi, tôi đem thơ của ông Ramassamy đưa cho Tào-kê chủ. Ông ngó tôi một cách sửng-sốt, như kiếm trên gương mặt tôi coi có vẻ quen hay không. Anh Bảy Venugopala bèn trăm(6) lia với ông. Ông lấy thơ ra xem, rồi tươi cười và xá-xá tôi, đoạn nói : “Tốt quá, tới Madras có tôi không sao mà.” Ông xếp thơ bỏ vào túi rồi hỏi tôi : “Ông đi lên chợ chơi, coi chơi.” Tôi lắc đầu, nói không đi. Mấy ảnh kéo nhau đi, còn tôi thì lên mé bực thạch coi người mua bán. Đoạn thả theo đường lộ, một nẻo cho dễ nhớ, không dám quẹo qua đường khác, vì sợ lạc đường. Singapore thì vui rồi, phố xá, lầu-đài, dinh-thự, ngó xán-qua thì cũng biết đẹp xinh. Người Tàu ở đây đông đảo lắm. Ấy là một cái hải cảng to lớn. Trở lại cũng một con đường đó, xuống tàu, lên giường ngồi, sực nhớ cặp mắt sửng-sốt của anh Tào-kê xả-tri ngó mình khi nãy, và những mắt người gặp trên đường ngó mình, trong lúc dạo xem thành-thị. Bèn toại ý kệ rằng :
Không kim, không cổ, vẫn quen nhau,
Cảnh huyễn mài bôi, ngũ thể màu,
Mắt huệ toàn xem, nào có lạ,
Nơi mô cũng gặp, ngảnh là sao ?
Là sao bỉ-thử, buổi hôm nay ?
Ngũ dục tranh mồi, quên lửng ai ;
Nhượng hết cho đời, tay rũ sạch,
Xin đừng chia rẽ, nói là hai.Một giờ ngoài, tàu xúp-lê mở đỏi. Hành-khách xuống tàu, trong tay ai nấy cũng có ôm xách, không nhiều thì ít, những vật mua trên thành phố Singapore. Vì ở đây đồ đạc rẻ lắm, ai cũng ham vật tốt mà giá rẻ. Đem xuống tàu, phô-trương trầm-trồ, so-sánh cùng nhau.
Tôi lên bong, đứng ngắm cái cảnh hải-cảng Singa-pore. Vì một lần thứ nhứt mới thấy, chớ bấy lâu nay nghe tiếng vậy thôi. Đi một con đường không thấy hết, đứng cao xa thấy trọn mặt châu-thành, thiệt là :
Lầu-các, phố-phường cao chất-ngất,
Trên bờ, dưới nước chật tàu xe.
Dân-cư đủ sắc, nhiều phe,
Bán-buôn đủ vật, dưới ghe trên phường.
Xắt-xẻ phân, nhiều đường lắm nẻo,
Khách lại qua kéo tốp, kéo bầy.
Trông xa đảnh núi đụng mây,
Đỡ trời ngăn bể hộ bầy sanh-linh.
Thủy-long choán thinh-thinh ba hướng.
Ngăn cõi bờ chẳng nhượng con trời.
Hằng ngày hầm-hét khắp nơi.
Đùng đùng binh sóng ngoài khơi áp vào.
Mặt thành rấp xôn xao muốn hãm.
Quyết trả thù cho đám cá tôm.
Con trời đoài buổi đoài hôm.
Mưu câu kế lưới chẳng nhờm sát-sanh.
Bao giờ sóng lặng người lành.
Ta-bà vàng trải đã thành Lạc-bang.Ngẫm nghĩ rồi cảnh vật, tàu chạy đã xa, còn thấy mờ-mờ, dạng-dạng. Bèn quày quả xuống phòng, xem kinh đọc sách, học tiếng chà đủ mửng, tiêu khiển ngày giờ, chờ ngày đến Ấn-độ. Ngày ăn, đêm ngủ không bỏ đặng.
Bước đầu trên đất Tây-trúc
Ba ngày nương tại thành MadrasBảy giờ sáng ngày 25 Avril, tàu đã tới hải-cảng Madras. Quảy gói lên bong, ngó lên thành-phố, có ý sốt-lòng và nghĩ thầm trong trí : “Ngờ đâu mà Thành-phố xứ Ấn-độ đặng lịch-lãm, đồ-sộ như thế.” Ngó dài theo bến bực thạch, cũng đủ ngưng tròng.
Tàu cập cầu, anh Venugopala kêu tôi bảo sửa-soạn đặng trình thông hành rồi lên bờ. Lính xuống tàu, đứng tại cửa thang tàu đã thòng đụng mặt cầu. Ai lên tại đây đều lại trình giấy tờ mà lên. Tôi theo anh bảy lại trình thông hành rồi, bèn xuống thang, đứng nơi cầu đặng chờ mấy anh bảy. Họ còn đồ-đạc, rê ở xứ Annam, đem về Ấn-độ lung lắm. Cả năm mười rương. Nên tôi đứng đó coi chừng giùm và để mắt xem tốp người trên cầu. Ròng là người bổn-xứ, mà tôi nghĩ sao lạ quá, vì không thấy một người Hoa-kiều nào cả. Mấy ảnh đem đồ hành-lý lên đủ rồi, kêu xe chở lại sở Thương-chánh. Xét rồi, đóng thuế rồi, xe lần-lượt ra cửa sở. Đụng đường-lộ lớn, láng-bóng không một miếng rác. Càng đi vào thành-thị càng thấy nguy-nga, trẽ qua một con đường hẻm lớn, đi ngang qua một đống rác và tro. Tôi để ý khắp nơi, ấy là đầu-óc người lữ-khách. Đến xứ người, không một sự việc chi trong cảnh-vật, quanh mình, dầu lớn dầu nhỏ, cũng có thể dạy ta đặng những sự ta chưa từng thấy. Vì vậy nên mới thấy đặng một gã trai ốm yếu, đầu cổ chôm-bôm, trạc chừng hai mươi tuổi, nằm lăn nơi tro rác. Mình mẩy trần truồng, chỉ có một rẻo vải che chỗ kín. Lạ thay, không ai chiếu cố, để mắt chia giùm cảnh thảm ấy. Tôi bèn hỏi huynh Venugopala (anh bảy nầy biết nhiều tiếng Annam, nên hay lân-la với tôi, hơn hai chú nhỏ Tampi), nên mới rõ là một người tu-hành trong đạo Phá-kích (Fakir). Hành khổ hạnh, lấy tro ướp thân, trần truồng chịu mưa, nắng, tuyết, sương. Bấy lâu nay nghe trong kinh nói, chớ chưa từng thấy. Nay đặng tận mắt, thì phá tan đặng một màn tưởng-tượng. Xe quẹo qua một con đường không mấy rộng, ngừng trước một cái nhà hai từng, rộng lớn nền cao. Đây là nhà hội Xả-tri cho vay đó, tôi theo chưn ông Tào-kê bước vào. Thì cả thảy cặp mắt tròng trắng như bạc kia, đều nhắm qua hướng của tôi, cách sững-sờ tự-nhiên. Tào-kê biết, trăm lia, ai nấy gật đầu, tôi cũng chào họ. Chôi cha, dưới tàu học được ít tiếng chà miền-dưới, như con nít mới học nói. Phúc gặp đám mừng bạn đường xa mới về, nghe qua như vịt nghe sấm. Tôi đem thẳng cái gói hành-lý lại một cái góc-xó, cận tường mà rộng-rãi. Để đồ đó, ngồi đó mà nghỉ một cách không e-lệ. Vì đã quen mắt dưới tàu, vào ra cùng người da đen nầy. Ngồi nghĩ rằng : “Ta nay mới hạ sanh trên đất Ấn-độ, phải chịu câm, điếc một ít lâu, như con trẻ mới ra khỏi lòng mẹ. Có tai không biết nghe tiếng người là điếc, có miệng không nói đặng tiếng người là câm. Nhưng, ta khá hơn trẻ bé, vì biết ra dấu, đỡ lắm. Mở gói, lấy dết đựng trang phục, lấy cái chăn nhuộm già, có đem theo phòng lúc tắm rửa. Thay quần áo, vì tám ngày ở dưới tàu chịu lì. Đoạn trải cái mền ra, trên nền tráng xi-măng, nằm nghỉ như mấy ảnh, trên đệm trên chiếu đó. Chớ họ có bàn, ghế, ván, giường chi đâu. Mấy anh kia đem đồ vô rồi, họ cũng đi chào bạn cố hương của họ. Mười giờ rưỡi, mấy ảnh hô : “Côlick borème” tôi nghe biết họ đi tắm. Tên Tampi cháu Tào-kê, lại bảo tôi đi tắm. Tôi nói không tắm, thì y nói : “Không tắm ăn cơm không đặng mà.” Tôi hiểu đó là phong-tục của họ. Thôi thay chăn đi tắm, có hồ nước phía sau, lớn và đầy nước. Cả thảy đều đứng quanh hồ, múc nước xối tắm. Mình cũng chẳng nên ngại, chen với họ mà tắm, mà coi họ vui lòng. Có một người xả-tri đứng gần tôi, nói : “Hồi trước tôi có ở Saїgon hai ba năm. Về miền-dưới lâu rồi, quên tiếng Annam lung lắm.” Anh nói còn sửa quá. Đây là thêm một bạn tại Madras đó. Tắm rồi, giặt đồ dơ. Đoạn thay áo sạch, quần sạch, theo họ đi ăn cơm. Đồ ăn chay, cà-ri và vài món cũng cà-ri chua, cà-ri khô không có nước. Họ nấu khéo, ngon, nhưng cay xé họng. Mới tắm đó, mà muốn tuôn mồ-hôi. Dưới tàu ít cay và không ngon bằng. Có sữa chua, mỗi người một thố đất, y như thố ô-môi khách-trú bán trong xứ mình. Họ trộn cơm họ ăn, thiệt chua quá lẽ. Song họ nói nó kỵ ớt, mát tì và không bón. Tập ăn cho quen, ớt lung lắm, nếu không dùng nó thì sẽ đau bao-tử. No nê rồi, lên nghỉ trưa, chiều thả rểu ra phía trước. Ngó qua phía trước gian phố bên kia, thấy một người không giống bọn xả-tri, vì nước da màu bánh-ít, hồng-lợt, tóc bạc, râu dài, trên trán có vẽ một cái chỉa ba hai bên trắng, ở giữa đỏ. Trong cổ đeo một xâu chuỗi hột kim cang. Tôi lấy làm lạ, không biết thuộc phái đạo nào. Kế anh bảy Venugopala bước ra, rủ đi nhà dây thép. Tôi hỏi ông già ngồi bên kia, trên trán vẽ chi vậy ? Anh ta nói : “Thiếu gì đạo, cũng thờ Ông Phật, Ông Trời.” Tôi hỏi : “Đạo gì ?” Ông nói : “Đạo Brahmana.” Tôi mới hiểu đạo Bà-la-môn. Đã biết đặng hai đạo rồi. Như đạo-sĩ nhỏ khi nãy, thì trong kinh có nói : Lục chưởng tà-sư, các hữu khổ-hạnh giái. Lục khổ-hạnh Phá-kích vi đệ tử. Trong kinh luận ngoại-đạo lục sư rằng : “Tứ giả : Tự-tòa-ngoại-đạo, thường vi lõa hình, bất câu hàn thử, tọa ư lộ địa giả.” Còn bọn Bà-la-môn nầy, là nòi giống đặng người đời tôn-kính, quí-trọng hơn hết. Bởi dân Ấn-độ có bốn giai-cấp, phân biệt trong nhơn-dân : 1. Bà-la-môn (Brahmana) là nòi giống người tu-hành ; 2. Sắc-đế-rị (Ksatrya) dòng vua-chúa ; 3. Phệ-xá hoặc Tỉ-xá (Vais’ija) dòng thương-mãi ; 4. Thủ-đà hoặc Thủ-đà-la (Sudra) nông-phu, tôi tớ, chuyên nghề hạ-tiện.
Trong bốn cấp dân nầy, đến nay, tuy hết hàng vua chúa, nhưng họ cũng còn y phong-tục tôn-kính vậy. Ngoài thị-tứ thì lợt-lạt hơn ở trong xóm, làng, đồng-bái ; nhơn-dân còn tôn-kính mấy sư Bà-la-môn, cư-sĩ hay xuất-gia lắm. Mà nòi-giống ấy, còn là người thế-gian, cũng đặng yêu-mến kính nể vậy, vì họ có cái tánh-tình thuần-hậu, ngay-thẳng.
Lúc đang suy nghĩ cái giai-cấp, bốn bực loài người nầy, dường như đã định kiếp ban-sơ, trong lúc sanh nhơn-loại. Do đức Phạm-thiên-vương từ miệng, tay, hông và cẳng mà sanh bốn bậc người. Cùng hữu-mạng, vô-mạng, vạn-vật đều ở tay của ngài sanh-hóa cả thảy. Toại kệ rằng :
(Do tích Tỉ-nửu-thiên cỡi Ca-lầu-la điểu)
Tỉ-nửu, Ca-lầu cỡi khắp bay.
Na-la-diên rúng, trổ liên hoa.
Phạm-vương từ đó, sanh nhơn-loại.
Bốn giống, muôn hình của Thích-ca.
(Xin xem trong Đại-nhựt-kinh sớ thập)Viếng châu-thành
Đã hai giờ ngoài, anh Venugopala hối đi nhà dây-thép trước, theo chưn ảnh, và đi và xem thành-phố, nhơn-vật. Cũng để mắt xem coi có người đạo-Phật hay chùa Phật không. Phút tới bến xe điện, anh cùng tôi lên xe điện, rảo xem cảnh-vật, tả hữu ngó liền-liền, xe ngừng nhiều bến. Đoạn tới nhà thơ, xuống xe, thẳng vào, thấy rộng lớn, nhiều phòng, nhiều gui-chet, sạch-sẽ, ghế bàn láng-bóng. Có salle d’attendre (phòng chờ của khách) trong có bàn ghế (salon meublé) đẹp-đẽ. Hai anh em gởi thơ về Saїgon và anh ta cũng gởi về nhà ảnh một cái dây-thép. Xong việc đi ra, thả qua nhà băng, anh ta lãnh bạc, nhà băng lớn hơn nhà băng xứ mình, có vẻ đẹp-đẽ hơn. Ảnh lãnh xong bèn trở ra đường, thả bộ lần theo nẻo nào chưa đi. Ngó xem không mãn-nhãn. Mình mặc áo tràng vải-dà, nên khêu mắt mọi người. Trối ai xem ta rằng lạ, mà thật, tự-cổ chí-kim họ chưa từng thấy, cũng như ta mới lần đầu, mới thấy cảnh trạng và nhơn vật của thành Madras của nước Tây-thiên. Ôi thôi, ta ngó phố phường, tiệm hãng, dinh-thự, lầu-đài không mãn-nhãn. Số người lại qua, đếm không hết. Họ lạ mắt, mà ta cũng chẳng quen ngươi, ngó ngang, ngó dọc dưới cùng trên. Thiệt là :
Mỏi mắt cảnh-mầu, người tạo đó,
Nguy-nga thành-thị, ngó không cùng.
Xe-hơi, xe-điện cũng lung,
Chở không hết khách trong vùng Trời-tây.
Nam, nữ đó toàn bầy Hắc-tộc.
Số lại qua lốc-cốc muôn-ngàn.
Lộn trong một mỗ da vàng.
Chen cùng anh chị một đoàn huyền-mun.
Chưn đã mỏi, chưa cùng đường-xá.
Phường phố kia xem lạ, quên thôi.
Thịt buôn, cá bán làm mồi,
Lẫy lừng sát-khí, làm hôi khí trời.
Mắt Thích-tử thầm rơi nước lụy.
Tủi đoàn em, anh chị cường quyền.
Hoàn-cầu giặc-giã nhân-duyên.
Thần kinh, quỉ khóc, đất nghiêng, trời gầm.
Than ôi ! giống nghiệp gieo-giâm.
Con Trời có biết lỗi lầm hay chưa ?
Mặt nhựt xế, chẳng thưa dạng khách.
Đoàn nam-thanh trắng-bạch áo chăn.
Xông pha nữ-tú lăng-xăng.
Má huyền, mũi ngọc, môi ngâm, răng ngà.
Áo xiêm phủ màu da sậm tím.
Chéo chăn hồng, đậy điệm tóc xanh.
Đỏ, vàng, hàng vải đành rành.
Neo, chuyền, kiềng cẳng đã thành thuyền-quyên.
Trâm, hoa, cũng tùy duyên thủ phận.
Vàng, ngọc đầy là phẩm giàu sang.
Hột chai, đồ bạc, bần-hàn.
Salon, ngọc-điệp là đoàn trung gia.
Đừng khinh đó chà-và…Đã về tới nhà-hội ngụ. Năm giờ rưỡi, anh bảy vô, tôi đứng lại cửa xem tấm bảng đồng gắn nơi cột tường. Lấy cuốn nhựt-ký ra biên mấy hàng chữ khắc trên đó “Nagara Viduthi No. 4 Coral Merchant. Street Mannady – Post Madras”. Bước vô nằm nghỉ mệt. Chập lâu họ kéo nhau đi ăn cơm. Một mình nằm suy nghĩ, chốn nầy không có chùa Phật, ở lâu không ích ; mình gấp đi Ba-la-nại, mà nói với Tào-kê đặng mai đi, mà ổng nằng nằng nói mốt sẽ đi, vì mốt ổng và ba người kia cũng đồng về nhà hết.
Họ ăn cơm rồi, kéo lên rần-rộ, nổi đèn khí sáng trưng. Lấy cuốn guide ăng-lê ra tập đọc, vừa đặng vài câu, anh bảy và hai chú Tampi lại kêu tôi, bảo đi coi chợ đêm, rồi đi coi hát ông Phật, ông Trời. Tôi nói không coi hát, anh Venugopala nói : “Hát ông Phật, thầy đi coi tốt, tôi mua giấy rồi.” Tôi không hiểu sao, chỗ không có chùa Phật mà có hát Phật. Mà sao mình lại có duyên bói tuồng hát Phật. Thôi tùy thuận, bận áo tràng theo mấy ảnh. Chín giờ mới hát, nên mấy ảnh còn có ý dẫn tôi đi xem chợ đêm mà khoe bổn-xứ. Mấy nơi thắng cảnh họ đều trải-sang. Thiệt là :
Đèn sáng chói, trời hôm cảnh lịch.
Người dạo đêm, chẳng ít hơn ngày.
Từ lớn lên, mới có bữa nay.
Mắt xem trần thế, lối ngoài bổn-hương.
Cảnh-vật đó, không nhường không sút.
Nhơn-luân nầy, phong-tục nhu-hòa.
Trong điều cợt-nguyệt trêu-hoa.
Trên đường lả-lúa hẳn là bặt tin.
Chỗ truy-hoan, lao hình tốn của.
Trang-sức thân, sáng-sủa nhượng người nam…Gần 9 giờ, đem nhau lại rạp hát bóng. Tôi hỏi anh Venugopala, coi hát ở đây sao ? Anh gật-đầu. Tôi nói : Tôi tưởng hát tại chùa, chớ ở đây thì coi không tốt. Ảnh không hiểu ý, chỗ mình nói. Cứ nói hát ông Phật tốt lắm. Bỗng thấy một tốp sư ngoại-đạo kéo tới, mà kẻ tục cũng đông. Vào rạp, thấy rạp hát sạch sẽ rộng rãi, kiểu đẹp lắm. Tới khi hát, tôi thấy hình rọi mà có nghe tiếng hát, ăn theo cử chỉ hình bóng. Tôi thiệt ngạc-nhiên, vì tưởng tới cái văn-minh vật-chất nầy, đã tấn-hóa lắm rồi. Từ mấy năm tu-hành, không hay không biết. Nay thấy thiệt lạ, hình hát bóng, mà có máy nói, thì như hát-bộ. Mỗi lớp thì anh Venugopala cắt nghĩa, mới biết hát sự tích Phật tổ, lúc hành bồ-tát đạo. Hiện sanh Thái-tử, tại Ba-la-nại quốc. Tầm ma-ni-châu bố-thí nhơn-dân vân vân… Cũng là một tấn-tuồng mà Thích-tử nên lưu-ý. Vãn hát, ra về, đêm nay ngủ mê mết.
Khuya thức, đồng hồ đã ba giờ ngoài, một mình ngồi suy nghĩ. Trên vuông đất, ba trăm ngoài triệu nhơn-dân, cái sống chưa phải dễ-dàng như xứ ta. Đường tranh-cạnh cuộc sanh-nhai, vì cái khó-khăn mà tấn-hóa. Nên chi, nước nhà ta khó sánh, bởi cái sự dư ăn dư mặc…
Sáng, anh Venugopala dẫn tôi đi điểm-tâm, trong tiệm café ở trước đường gần nhà hội ngụ. Khi no-nê rồi, trở ra, đi ngang một cái tiệm may, tôi nói với anh bảy. Tôi muốn mua vải-dà, hôm qua tôi thấy mấy ông thầy bận đó. Vô tiệm may đưa ra thứ vải nội-hóa hiệu Găng-đi. Tôi mua sáu thước và mướn may máy liền một cái vô-điều-y. Tám giờ rồi, tôi bèn thay y-phục, mặc dưới chăn trên choàng theo ngoại-đạo. Cất áo tràng vì xứ nầy không dùng. Từ đây, hết lạ mắt người bổn thổ. Chín giờ lại nhà đổi bạc Ismaёl et Cie, đưa chèque, đổi bạc. Ký tên lấy tiền rồi về nhà hội. Đưa 30 rupi(8) cho Tào-kê, mượn mua giấy xe lửa trước.
Chiều ngày 27 Avril, Tào-kê và mấy anh em quen, bốn giờ kêu xe lại, chở đồ đi về Karaikuli. Trước khi đi có dặn ông già tri-thơ của hội 7 giờ tối, đem giùm tôi ra gare xe lửa, đi Bénarès city. Đoạn tôi đưa mấy ảnh ra xe và đưa cho Tào-kê 3 rupi, xin đền ơn hội trong ba ngày tá ngụ. Tào-kê nói, tôi tính rồi, thầy không cần lo sự ấy.
Xe chạy, tôi trở vào nhà-hội sắm sửa đồ hành-lý. Sáu giờ rưỡi bèn theo chưn ông Tri-thơ ra đường đón xe điện lại gare. Thiệt là :
Dường chim chung ngụ, một đêm rừng,
Chớp cảnh lìa nhau, lúc tửng-bưng.
Đổi dạng tùy duyên, trong cảnh huyễn,
Ngoan là nòi giống, lũ người dưng.Bốn đêm trên xe lửa
Trong xứ Ấn-độ, người đạo Bà-la-môn và đạo Hindou y-phục mường-tượng phái Tiểu-thừa bên đạo Phật. Nhưng, cái y không phân điều, tôi bèn cải trang theo đó, y như hình đây. Nhờ đó xông pha với họ một cách dễ-dàng, người bổn-thổ, không lạ mắt như cái áo tràng.
Tới gare, xuống xe, theo sau ông Tri-thơ bước vào gare. Đưa cho ông ta 1 rupi đặng huê-hồng cho ông. Gare lớn mênh mông, đèn khí sáng-rỡ, bộ-hành chật nứt. Chỗ bán giấy cũng nhiều, người mua giấy chen nhau và chờ rục cẳng. Trong gare mà chẳng khác một cái chợ. Nào nhà nghỉ, nhà hàng, nhà tắm, nhà tiêu cho khách hạng nhứt, nhì, ba. Còn chỗ khách bình dân rộng lớn, sân đợi có băng ngồi, hai bên buôn bán đủ vật. Rất tiện cho hành khách, quạt máy gắn cùng, vì xứ nầy nóng lắm. Ngó vào chỗ xe lửa đậu, mỗi xe có trên vài chục toán wagon, mà có đến vài chục đường rầy, xe nằm chờ giờ chạy. Xe nào cũng đầy hành khách, chạy khắp nơi, không biết họ đi đâu dữ vậy. Tôi theo anh tri-thơ, lại cửa trình giấy vào cửa cổng lên xe. Thấy một anh trai đang trình giấy, trong giấy đề Calcutta, tôi chiếp trong bụng, vì trên xe ba ngày mới tới thành Calcutta. Phải theo chưn anh trai nầy, tiện cho ta vì không biết đi dọc đường có đổi xe khúc nào không. Vào cửa rồi, tôi thấy anh trai ấy lên wagon khoảng giữa, để bụng ; tôi còn nhờ anh tri-thơ đi theo đây. Ảnh dẫn tôi lên xe, chỉ chỗ ngồi rồi ảnh chào tôi mà ra về. Tôi bèn mang gói, rảo kiếm anh trai khi nãy, té ra bộ hành đông quá, và mặt trai nào cũng hệt nhau, kiếm không biết ai. Bỗng tới một cái băng rộng, bên kia có một người, đang sửa-soạn chỗ ngồi, thấy cái giấy xe của ảnh để trên cái trấp da của anh. Lẹ mắt xem qua thì giấy Calcutta, mừng lòng bèn để hành-lý choán chỗ gần anh ta. Để mắt xem người hành-khách, phần đông người nước da như Annam, như người nông-phu rẫy bái bị nắng sậm da vậy. Không phải đen như xả-tri, lại trên đầu có để một rẻo tóc, nơi giữa xoáy bằng ngón tay út vậy. Tiếng nói ít đánh lưỡi như xả-tri, nghe dịu và suông giọng. (Sau mới biết là dân Hindou ở Bắc Ấn-độ.)
8 giờ, xe xúp-lê lìa Madras. Ngồi gần cửa sổ, dòm ra ngoài hai bên phố-phường, nhà cửa, đèn đuốc rạng ngời. Lần lần, vẻ lịch kém bớt, đèn đuốc lờ-mờ, thì biết xe đi khỏi thành-thị. Trên xe đông đảo ngồi dập-dựa ngủ mòm. Sáng ra, lúc tới gare thì tôi lấy bình đồng (của Tào-kê cho tôi, vì tục xứ nầy, đi đường phải có), xuống xe lại fontaine hứng nước. Đem lên xe rửa mặt, và cho anh trai gần mình mượn rửa mặt, ấy là sự làm quen trong lúc đi đường. Anh ta cũng vui lòng tiếp lấy và tỏ ý cám ơn. Từ đây làm quen với nhau, anh ta hỏi tôi đi đâu, tôi bèn đưa giấy xe cho anh ta xem. Nhờ đó mới biết, xe nầy tới gare Calcutta thì đổi qua xe khác. Ở dưới tàu học đặng ba chữ Tamil, nay đã vô dụng vì người Hindou nói khác. Nên chi, ba ngày trên xe lửa, tôi hỏi thăm anh nhỏ nầy mà học tiếng Hanh-đu. Dòm cử chỉ của họ, tập theo thói-tục của họ, không cử chỉ nào, tôi không lưu-ý và tập theo. Ấy là phận sự người du-lịch, cần nhất là “Nhập giang tùy khúc, nhập gia tùy tục”. Còn sự ăn uống thì cũng dễ, mỗi gare đều có kẻ buôn bán. Nghe họ kêu đồ mua, tôi cũng để ý từ tiếng nói, nghe đặng đâu, lật sổ viết vào rồi học cho nhớ. Ba ngày trên xe, tôi học bộn, khi tới Calcutta thì nói đặng chút ít.
Từ Madras đi tới Calcutta trải qua nhiều cái thành thị cũng lớn, nhơn-dân chỗ nào cũng nhiều. Tôi lấy làm lạ là mỗi gare nào cũng thấy hành-khách đen-nghẹt. Không biết họ đi đâu quá vậy, ngày đêm cũng vậy. Tôi đi đâu cũng vậy, mua sẵn bánh-mì, bỏ vào túi-dết sẵn-sàng, có đến giờ ngọ thì khỏi lo trễ hụt. Ba ngày không tốn một xu đồ chi cả.
8 giờ bữa sớm mơi ngày 30 Avril, xe tới gare Kinh-đô Ấn-độ là Calcutta. Thấy anh trai sửa hành-lý, trắp, rương, mình cũng y theo lo thu xếp. Xe ngừng, kẻ chen người lấn, phút lạc anh trai, tôi cứ theo toán người ra cửa. Kiếm một góc chỗ bình-dân hành-khách, để gói xuống ngồi đó chơi. Để mắt xem chung-quanh trong gare, rộng lớn hơn gare Madras. Cách sắp đặt trong gare y một kiểu. Hành khách ra, hành khách vô nượp-nượp. Tôi quảy gói đi lại hỏi, một người lính gác cửa cổng : Chừng nào có xe đi Bénarès, anh ta bảo đưa giấy coi. Đoạn nói : 3 giờ chiều. Tôi cám ơn, chào rồi mang gói đi rảo trong gare ; ban ngày thấy rõ hơn khi tại gare Madras. Còn sớm, đi xem lối phố-phường, chung-quanh xóm gare, không dám đi xa, sợ lạc đường. Sánh với Madras thì còn đẹp hơn bội phần trăm, không nói đặng cái chỗ nguy-nga lầu-các, phố xá láng nầy. Nếu có ngày giờ thì vào lối trong nữa, ắt càng thêm lịch lãm. Thôi, đó để đó, còn ngày sau, lúc ta trở về cũng không muộn. Trở lại gare đã 11 giờ ngoài, vào kiếm chỗ ngồi lấy bánh mì ra ăn ngọ. Ăn rồi, đi lại chỗ bán hình xem và mua vài tấm để làm kỷ-niệm.
Ba đêm trên xe, ngồi lụn đêm ngày, mỏi mê quá lẽ. Kiếm chỗ trải mền nằm nghỉ, cũng như kẻ hành khách kia vậy. Không ngại-ngùng chi cả, màn trời, chiếu đất cửa nhà thầy tu. Ngủ ngon một giấc, thức dậy thì gần 3 giờ, may không hụt xe lửa. Thiên hạ đã trình giấy vào cổng rồi. Xếp mền, mang gói thẳng lại máy nước rửa mặt. Đoạn uống một bụng rồi đi lại trình giấy, lên xe thì bộ hành đã chật nứt. Gặp đặng một cái wagon còn dư chỗ ngồi. Ngồi an-ổn, phút có một anh trai trạc 17, 18 tuổi xách valise lại ngồi gần tôi. Tôi hỏi ảnh đi đâu, nói đi Delhi. Tôi nghe không hiểu, sợ trật xe lửa, bèn móc giấy ra hỏi anh ta. Đi Bénarès, xe nầy phải chăng. Phải, tôi có nói, tôi không biết, mới đi lần đầu. Anh ta nói, anh ta biết.
3 giờ rưỡi xe chạy, ngồi dòm ra xem cảnh-vật Kinh-đô Ấn-độ. Chiều tối, có tốp bộ-hành ở băng gần, xuống xe, tôi bèn choán đó, trải mền nằm nghỉ. Anh trai nhỏ, nhờ tôi qua băng kia, nên đặng rộng cũng trải mền ra nằm như tôi. Anh ta hỏi, ông ở đâu lại ? Tôi nói ở Annam lại. Anh ta không hiểu, mà mấy người ngồi chung quanh cũng không hiểu. Cùng nhau chuyện vãn tới khuya mới ngủ.
Khi tôi thức-giấc, nghe xe ngừng, bộ-hành lao-xao kẻ xuống người lên. Tôi hỏi anh nhỏ, gare nào ? Ảnh trực nhớ tôi đi Bénarès, ảnh liền hối tôi đi xuống. Quảy gói lật-đật xuống, vì xe xúp-lê chạy. Bọn coli chạy lại hỏi rân, tôi nói đi Bénarès, có một anh coli, giựt gói tôi mà ôm và đem lại xe đi Bénarès. Trả tiền coli 1 cắc, thì xe cũng xúp-lê chạy. Tôi nghĩ hết hồn. Nếu chẳng thức giấc, ắt xe kéo đi tít mù, không biết đâu mà rờ. Có ngờ đâu sự đổi xe, mà không có người cắt giấy đặng hỏi, nếu chẳng nhờ chú Hindou nhỏ, ắt rối cho tôi rồi. Chuyến nầy sợ không dám ngủ, xe-ngừng gare nào cũng hỏi thăm. Phút tới một cái gare nhỏ, tôi thấy chữ Bénarès Kashi, bèn lấy gói đi xuống, trong gara thâu giấy. Tôi nói trong bụng rằng : giấy mình đi Bénarès city, còn gara nầy tên Bénarès Kashi, đó là trật rồi. Nhưng cũng là Bénarès thì cũng không mất dấu. Bọn đánh xe thấy bóng bộ-hành, bèn chạy a vào gare hỏi lia, đi đâu thầy. Tôi nói Bénarès city. Họ biểu xe đi, anh nầy biểu đưa gói, anh kia kéo áo lăng-xăng, chín mười người. Tôi còn lưỡng-lự, vì giờ khuya có đi cũng không ích. Đồng hồ gare gần 3 giờ. Té ra, từ ga Moghal Sarai chỗ đổi xe khi nãy, là 11 giờ ngoài, lại gare nầy có ít giờ xe lửa. Còn bọn xe bảo đi, thì định Bénarès Kashi nầy với Bénarès city là một chỗ mà chia quận chia thành chi đây. Bỗng có một anh trai, chăn áo trắng-phau, xem cũng bảnh-bao tướng-tá. Vẹt bọn đánh xe ra, rồi hỏi : Thầy đi đâu ? Tôi đi Bénarès city. Anh ta bảo tôi theo anh ta. Nói tiếng Hindou : Ao, ao Bà ba di. Tôi điếc con ráy, không hiểu nói gì. Cẳng bước ra gare mà trí bất định đi cùng không. Trước gare có nhà trống, thấy có hành khách nằm liệt-địa, thì trong bụng đã nhất định ở lại gare chờ sáng sẽ đi. Bèn đi lại một cái quán nhỏ trước đó, mua một xu thuốc lá và hộp quẹt. Đoạn móc ra một cắc bạc, đưa ra hỏi anh đánh xe : “Một cắc đi không. Tôi có một cắc mà thôi.” Mấy ảnh nghe và thấy cắc bạc bèn bổ ngửa hết. Anh trai kia cũng nhả, tính bề gặm không nổi, và họ thấy bộ đồ thầy tu họ cũng đã thèm. Trở vào chỗ nhà trống, trải mền nơi một góc không gần ai cả, nghỉ mệt và nói thầm rằng : Xứ nào cũng vậy, bọn coli và đánh xe, phần nhiều là tay vô-lương. Nếu họ biết mình là khách tha phương, thì họ thường thừa nước đục. Đây rồi, họ kéo đi lu bù, làm bộ hỏi thăm đầu nầy đầu kia, kéo cho xa, cho nhiều giờ mà tính tiền cho cố. Nghỉ đặng vài giờ, 5 giờ thì tên coli gare kêu dậy cho anh ta quét-tước. Sáng rồi, lại máy nước rửa mặt, đặng sắm sửa hành-lý đặng vào thành.
Nhập thành Ba-la-nại (Bénarès)
Mang gói ra đi, phú mặc cơ-duyên, bần-tăng chỉ vững lòng niệm Phật đi tới. Cách gare ước bốn trăm năm trăm thước gặp một cái vòng thành có hai cái cửa lớn, nhưng không khép. Tôi không biết đi vào cửa nào, niệm Phật rồi cứ thuận phía mà đi. Ngó tới phía trước, mặt chót lầu đài, chùa tháp lu-bù mừng quá. Đoạn thấy bên phía đường bên tay trái có một cái xe bò chở hàng-bông, bèn định chắc xe ấy đi bán tại chợ. Theo sau xe bò đi tới, không chút ngại ngùng, để mắt xem hai bên nhà cửa phố xá còn thưa thớt, lớp cũ lớp mới nhỏ hẹp, thì định còn xa thành phố. Bỗng đi ngang qua một cái chùa, thấy tháp cao và nhà thiền rộng rãi, sạch sẽ mà chưa hiểu chùa đạo nào. Sau mới rõ là chùa đạo Hindou.
Xe bò sang đường nầy nẻo nọ, phút đụng một cái vòng thành nữa, xe đi vào cửa, tôi bèn dòm tới trước, thấy cảnh vườn bông, lại có băng ngồi để theo lối lề đường, biết chỗ nầy là chỗ thắng cảnh chi đây. Chính giữa có một cái nhà tròn, có dựng một hình, trông xa-xa đã lộ dạng thành-thị. Càng đi tới càng đẹp-đẽ phố xá, nhà cửa, đường qua nẻo lại càng nhiều. Giờ mơi còn sớm, có phố mở cửa, có phố còn ngủ. Trên đường chưa có kẻ đi, lâu-lâu gặp một hai người. Chừng xe bò trẽ qua một con đường nhỏ hẹp, tôi nói trong bụng rằng : mình đi theo đường xứ lớn tốt hơn. Đoạn đi thẳng không theo xe bò nữa, lần lần đi tới, người đi đường gặp lần lần đông. Đi ngang một cái ngã tư, không biết ngã nào phải quấy, cứ đi thẳng là hay.
Bỗng thấy một người mặc âu-phục, bên kia đi qua, tôi bèn cầm thơ sẵn trên tay. Khi người trai nầy lầm lũi đi ngang tới, tôi bèn nói : “Xin ông làm ơn chỉ giùm cái nhà nầy.” Và nói và chỉ cái thơ của Ông Ramassamy, phó-hội-trưởng xả-tri ở Saїgon, ra trước mắt người. Ông ta thấy thơ không niêm, móc ra coi, nhưng chữ Tamil, ông ta bí-lối. Ông ta thấy y phục của tôi, cũng đủ biết là người tu-hành. Bèn đưa thơ lại cho tôi, rồi bảo tôi đi theo. Ông đi thẳng con đường trước mắt, tôi thấy trên một tấm bảng đề hai chữ Bénarès city, mừng vì không hẹn mà gặp. Đến một cái đường hẻm, thấy có một tấm bảng vẽ một cái bàn tay chỉ hai chữ “Bikku frère”. Tôi mừng quá, đây là chỗ của chư Bí-sô thích-tử, vậy thì tiện cho mình quá. Tới một cái cửa còn đóng, thầy âu-phục bèn gõ cửa. Cửa mở, thấy thầy bí-sô, y-vàng đứng trước mắt, tôi xá, còn thầy âu-phục cũng chào rồi chỉ tôi trăm lia. Thầy bí-sô mời vào trong, thầy bạch-y kiếu đi ra. Tôi theo thầy thích-tử vào trong, xem không phải chùa, mà chỗ ở hẹp hòi quá. Thầy mời tôi ngồi tại ghế nơi nhà cầu. Giây lâu có một vị Đại-sa-môn bước tới. Tôi bèn thi lễ. Thầy hỏi tôi ở đâu đến, tôi nói ở Annam lại. Thầy xem thơ cũng không hiểu, rồi lắc đầu bỏ đi vào liêu. Tôi thấy tình cảnh lợt-lạt ấy, thì biết mấy thầy đây không thể giúp và khi nãy nghe thầy bạch-y nói thầy không biết chỗ chỉ nơi bao thơ. Tôi ngồi một mình giây lâu, bèn tính sửa soạn y phục lại hẳn-hòi, rồi bước lại liêu gõ cửa, đi vào xá rối kiếu ra đi. Ra tới đường lớn, phút gặp một người Hindou vạm-vỡ, tôi thi lễ, trao thơ xin chỉ giùm. Người coi không hiểu, anh ta nói : “Gần đây có mấy thầy Birmanie, đi lại đó hỏi thăm” tôi nói có đi rồi. Anh ta cũng không nghe, bảo tôi đi với ảnh trở lại mấy thầy Birmanie (nhờ anh nầy, mới biết mấy sư đó là Bí-sô Birmanie (Miến-điện), vào trăm lia. Anh nầy coi bộ nóng-nảy, không biết mấy sư nói sao mà ảnh nói lại cách cự-nự lớn tiếng. Rồi bảo tôi đi theo anh ta, anh ta đem tôi đến một cái căn phố lớn, không phải nhà buôn, thấy có trải đệm lu bù. Tôi định là trường tư vì anh trai nầy dẫn thẳng lại một ông đầu bạc, râu bạc, ngồi tại bàn viết. Thấy có năm, ba người đứng chung-quanh. Anh ta thi lễ và trao cái thơ, đoạn trăm với ông ta. Ông xem thơ và hỏi tôi, ở đâu lại ? Tôi nói Annam, Saїgon. Ông bèn lấy tự-vị kiếm hai chữ ấy. Kiếm đặng rồi đọc cho mấy người kia nghe, ai nấy ngó tôi, có vẻ cảm tình. Đoạn ông viết một miếng giấy, trao cho anh trai nầy. Anh nầy dẫn tôi đi đến một tiệm bán hàng vải lớn, trao miếng giấy ấy, rồi chuyện-vãn một hơi, chào ra đi, bảo tôi ở lại. Người trong tiệm mời tôi ngồi, lại sửa-soạn ăn lót-lòng. Mời tôi ăn, tôi không dùng và nói đã dùng rồi. Một anh trai trong tiệm ăn rồi, liền mặc áo, ra mời tôi đi. Theo chưn người, sang đường nầy, tới nẻo nọ, anh cầm thơ đi hỏi cùng. Phút gặp một người mặc âu-phục, anh ta kêu chào, rồi đưa thơ. Ông nầy đọc bon-bon, tôi định chắc là người xứ Madras. Ông ta xem rồi, chỉ đường cho anh trai đi. Vòng quanh phường-phố, phút tới chỗ bến xe ngựa, có cái đường hẻm, đầu đường hẻm ấy có cái nhà lầu. Anh ta đến đó, thấy tấm bảng đồng khắc chữ lớn “Nagara Chatram”, tôi thấy rất mừng. Đoạn bước lên tam cấp, thì có một gã trai, mang bảng đồng nơi cánh tay, chào rồi anh trai đi cùng tôi, trăm lia. Dẫn vào, lên lầu ra mắt chủ nhà. Ông xem thơ rồi, chào mừng mời ngồi nơi đệm. Hai đàng chủ khách chuyện-vãn, rồi anh trai kiếu về. Ông chủ vui cười và hỏi tôi mới tới sao ? Tôi nói mới tới. Đoạn đích thân ông mời tôi đi xuống lầu, chỉ phòng bảo tôi tự ý muốn ở phòng nào cũng đặng. Đoạn ông bảo coli trong nhà quét phòng trong có cái giường mặc dây luột (thằng-sàng). Tôi để đồ hành lý rồi nói cám ơn ông chủ. Ông chào tôi rồi trở lên lầu, thì tôi mới lo sắp đặt hành lý, đặng lo ăn ngọ, vì lúc lên tới lầu ra mắt ông chủ, thấy đồng hồ đã 11 giờ rưỡi. Mình vừa sửa soạn an-ổn, thì có người bưng cơm và cà-ri dưng, lại có một thố lạc (sữa chua). Cám ơn ông chủ có lòng hậu đãi, ngồi dưới nền xi-măng (tục của họ vậy), bốc cơm ăn. Ăn rồi, khép cửa liêu nghỉ một chập. Khi thức dậy, bèn đem bạc lên lầu gởi cho ông chủ. Ông đếm 250 rupi, ông cho một cuốn sổ nhận gởi số tiền và nói : Chừng nào ông cần dùng bạc thì đem cuốn sổ nầy lại. Đoạn bây giờ tôi mới để mắt xem qua chỗ ở và biết cũng là nhà hội, nhưng thi thế hội nầy giàu hơn hội ở Madras. Có một cảnh chùa tư ở gần bên hông nhà hội. Ông chủ còn nhỏ trạc ba mươi ngoài tuổi, vui-vẻ. Dưới tay ông có nhiều người phụ-tá biên chép và nhiều kẻ tôi tớ. Tuy tôi nói nhà hội cho vay, nhưng tôi e không phải, vì ông có vợ con ở chung. Tôi định là nhà tư-bản, chớ không phải hội-hàm. Ngó đồng hồ 3 giờ rưỡi, tôi bèn kiếu ông mà xuống liêu. Bây giờ thấy rõ, hai dãy liêu, mỗi bên tám cái, chính giữa có một cái sân tráng xi-măng và một cái máy nước có hồ chứa nước. Ấy là nơi tắm giặt, chớ không phải sân hóng mát. Có hai ông sư Hindou ở hai cái liêu, còn bao nhiêu trống. Có một người Madras làm từ chùa, cũng ở liêu trước liêu của tôi. Từ đây tôi an ổn nương ngụ trong chùa Hindou nầy. Làm quen mấy ông sư kia, ai nấy cũng vui-vẻ.
Hai tuần lễ tại chùa Ngoại-đạo
Phép làm người tu-hành trong đạo Phật, sở-dĩ là tùy-thuận, nhẫn-nhục, là cái bài học cần yếu của nhà Thích-tử. Nên chi, nhờ đó mà lướt qua và thắng đặng, mọi điều khó-khăn, chướng-ngại trên con đường của mình. Ngày nay, 31 Avril, đã để cẳng vào cái thành, mà ngàn xưa kia, đức Thế-tôn sơ-chuyển pháp-luân (mở đạo đầu tiên), độ năm thầy đều đắc La-hán quả. Tính lại trọn 15 ngày, từ ngày 17 Avril để cẳng xuống tàu, nay mới tới chỗ ước-mơ. Thì có lẽ cái nguyện sẽ đạt thành từ đây. Chiều 5 giờ, thì nghe trống, chuông, kèn inh-ỏi tại chùa, lại thấy mấy sư Hindou đều ra liêu khóa cửa, mà đi lại chùa kế liêu vài chục bước. Tôi cũng sửa chăn, phủ choàng, bước ra khóa cửa theo chưn họ. Bước vào chùa, thấy hai sư kia đứng trước đại-điện, gần một nền vuông ba thước, trên có xây một cái bàn toàn bằng cẩm-thạch. Trên bàn có một con bò nằm (bò bằng đá) chong đầu vô đại-điện. Tôi cũng lại đứng theo hai sư đó, và người trong nhà ba bốn người. Tùy hỉ ở trần hay bận áo cũng đặng, hoặc mang một tấm chăn. Thấy ông từ theo hầu một Ông sư-trưởng, tuổi lối sáu mươi, để râu mép, ở trần, đeo một sợi niệt choàng từ vai tả qua nách hữu. Ông sư đây, cúng tại đại-điện trước, ông từ đứng trao cho ông theo thứ lớp, đèn, hương và đồ từ-khí theo lễ nghi. Mình mới tới từ trưa tới giờ, nên chưa dám tọc-mạch, quan-sát. Cúng giáp vòng mấy bàn rồi, tới cúng cơm cà-ri tại bàn cẩm-thạch, chỗ con bò nằm đó, thì rồi việc. Đoạn ông sư-lễ mới bưng cái mâm thau, trên có tro phân-bò và son, tại đại-điện bước ra, thì hai thầy Hindou lại gần sư-lễ thọ tro và son. Ba ngón tay chấm vào tro, mà quẹt ba phệt lên trán và son thì chấm một điểm, tại khoảng giữa hai đầu chơn mày. Tôi cũng bắt chước y vậy thì coi bộ ai nấy đều vui mà ngó tôi. Trong một giờ là rồi việc, ai nấy đều ra. Thấy sư-lễ đi thẳng ra về, tôi không biết ở đâu. (Mỗi bữa ông lại cúng chứ không ở chùa nầy.)
Đoạn 7 giờ, các sư đi thọ-thực, tôi từ kiếu không ăn và nói : tôi ăn ngọ. Tôi bèn thả thẳng ra trước nhà, đặng xem sơ cái cảnh tối chốn nầy. Không dám đi xa, hay quẹo ngã nào cả. Ra tới bến xe ngựa, rồi đứng nhắm hướng cho nhớ chỗ. Ngó thẳng trước mắt, thấy đèn đuốc sáng rỡ đầu đường, thiên-hạ đông-đảo thấp-thoáng lại qua. Định lại đó, lần đi tới, cách bến xe ngựa chừng ít trăm thước, gặp chỗ chợ hôm, phố-phường sáng rỡ ; ngoài lề đường buôn bán cũng đông. Thấy có mấy ông thầy đạo Hindou, Bà-la-môn lên xuống, người nào cũng đầy bát, những vật cúng dường. Tôi nói thầm rằng : “Mấy thầy chắc đi về chùa, đặng đi độ buổi chiều vì đồ bố-thí đã đầy bình-bát. Tiếc thay, ta chưa dám theo họ, vì mình mới tới, chưa quen thuộc đường xá. Thôi, bữa ban đầu mà thấy bao nhiêu đây là đủ, trở về, kẻo ở chùa không biết ta đi đâu. Mới một con đường mà phong-cảnh thị-tứ của thành Ba-la-nại mà đẹp-đẽ, thạnh-mậu dường ấy, thì cả châu-thành nầy chưa phải thua Madras. Nhưng, nghĩ vì mình là người tu-hành, không phải đến đây, đặng xem phong cảnh nhơn-gian, chỉ quyết xem tình-hình Phật-đạo và ngoại-đạo, chỗ thạnh-suy, trong thời kỳ Tam-thiên nhứt hiện, nó đã gần kề. Trở về chỗ ngụ, vào liêu khép cửa nằm nghỉ. Khuya thức giấc, đi tiểu, thì đi ngang qua cửa vô nhà trù phòng, trên có treo đồng hồ. Thấy đã quá giờ tý, khi vào liêu, đứng lại hồ nước rửa mặt, súc miệng xong-xuôi, vô ngồi thiền.
Từ khi bước cẳng ra đi, không đêm nào mà ý loạn, hình sầu như đêm nay. Ngoài thân, trong tâm, phút tán-loạn, đến đỗi trong một đời của tôi, chưa đặng thấy cái cảnh-trạng tự thân-tâm, nó biến hiện như đêm nay. Tôi ngồi kiết-già vừa rồi, thì nước mắt không khổ-khốc kia liền rơi, phút đổ như gáo lủng nước sa. Chan-hòa một cách lạ-lùng, dường khi khốc,(13) hai thân tỵ-thế(14) thì cũng chưa tày. Hai bàn tay kiết ấn nơi đơn điền, ngửa ra mà hứng tràn trề. Muốn nín-dứt hột lụy, lấy hết trí lực cũng không ngăn cái mạch không thảm, không đau, không tủi kia, mà tự nhiên trào-phúng. Tôi thấy điều hy-hữu ấy, thì cũng điềm-nhiên để tự xem, cái cảnh ngoại làm đi gì. Chừng môi mếu, ngực tủi, tôi rán sức cản đó không đặng. Phút lại nghe trong tôi, dường có ai than thở. Trí ý tôi dường có vẻ khó chịu, bấn-loạn, đảo-điên, cái nhớ mà không biết nhớ chi, cái thương mà không biết thương chi, cái thảm đạm tức-tủi, mà cũng không biết sầu-bức, tức-tủi về cái hoàn cảnh nào. Sự xảy qua ước có 15 phút, lần hồi tôi điều đình đặng cái giọt phiền não vô nhân kia. Tôi bèn quay qua cái buồn-bã không nguồn nọ, tôi lấy cái trí-lực mà vấn thửa cái ý rằng. Nay đã đặng vào tận nơi, cuộc địa mà ngàn xưa Phật-tổ đã để dấu chơn, thì chí Thích-tử không còn chi là chẳng phỉ nguyện ; khác nào con trẻ chơi xa, trở về nhà thấy đặng mẹ, a vào mình mẹ, vui vẻ không cùng. Do cớ sao đổ lụy, âu sầu, làm tuồng hèn yếu như vậy ? Ta nghĩ rất hổ thẹn mà trông thấy cái nết tánh bạc-nhược ấy của ngươi. Tôi nghe dường có tiếng trả lời, trong cái đầu óc kia rằng : “Trong cơn loan-phụng hòa-hài, của tiền sự nghiệp trong tay sẵn-sàng.” Tôi nghe qua dường đã hết hồn xả kiết già chỗi dậy, đi ra hồ rửa mặt, trở vào lấy một điếu thuốc lá hút. Đoạn nghe gõ một giờ, vô liêu ngồi lại, khoanh tay nơi đầu gối mà tưởng rằng : “Bấy lâu ngỡ tắt rồi mãnh-hỏa, nào ngờ đâu không rơm-rạ cũng phát cháy bừng. Hết khoe tài Thích-tử, bấy lâu tưởng thắng đó rồi. Bấy lâu có ý kiêu-căng ngỡ mình đặng thức-vong, ý-diệt ; nay chan-nhản, hở-hang hết sức. Tôi bèn vận trí mà phá tan nội ma. Từ đây tôi mới biết, cái nghiệp thức của tôi còn núp trong, nên chi tôi không ngớt chống chỏi và nguyện không trở về Nam-việt nếu tôi không trọn thắng nó.” Đoạn nằm nghỉ, êm ả như thường.
Năm giờ sáng, trống, chuông, kèn inh ỏi, chùa đã công phu. Tôi đắp choàng lên chùa, thì cũng thấy sự cúng dường y như hồi chiều hôm qua. Tôi thấy các sư lạy, thì tôi cũng lạy bàn chánh mà đứng niệm vái : “Nam-mô Trung thiên giáo chủ, thiên bá ức hóa thân Thích-ca-mưu-ni phật.” Đoạn và lạy và quán Thế-tôn tùy thuận chúng-sanh, hóa thân chưởng chưởng hình ngoại-đạo chư thiên mà độ chúng sanh. Lạy rồi tôi thọ tro và son như mấy người kia. Buổi sớm mơi nầy, cả thảy trong nhà nam-nữ lớn nhỏ đều thọ tro, son. Ấy là đạo Thủ-la-hê-thiên tam-mục đó.
Điểm tâm rồi, đi dạo cảnh, đem sổ nhựt-ký theo đặng biên. Tôi cũng đi con đường hồi hôm. Qua khỏi chỗ bến xe ngựa chừng vài trăm thước, có một cái đường hẻm, hai bên có buôn bán đông đảo, đường thì nhỏ, bề ngang chừng ba thước ; mà thiên hạ chen nhau đi. Mỗi người có bông-hoa, lễ-vật bưng đi, thì tôi định ở trong ấy có chùa. Nhưng tôi cũng đi thẳng, vì đi một con đường cho dễ nhớ. Tới khoảng chợ đêm, mới coi lại : chính giữa là chỗ dựng hình một vị danh hiền trong nước. Chung quanh có bồn-bông, có băng ngồi, xẻ đường, phân nẻo ở trong vùng rào sắt ấy. Đã có người dạo cảnh ở trong đó đông đảo. Còn vòng theo ngoài rào có xây thềm cẩn đá, thiên hạ ngồi quanh đó buôn bán đủ thứ, nhưng thưa hơn ban đêm. Cứ men men đi tới, phút thấy mé sông, tới đầu đường có cái tam cấp xuống bến. Tới đây, người ta đen nghẹt, tăng, tục, nữ, nam, già, trẻ, xuống lên không ngớt. Kẻ buôn, người bán, hai bên lề đường ngồi chật tới đầu đường chỗ tam cấp. Còn ở xa ngỡ là hết, vì thấy sông trước đó, ngờ đâu đi tới bực-thạch tam cấp, thấy dưới mé sông còn rộng và hẳm xuống sâu, thiên hạ trạc-hà. Thấy tấm bản đề “Gange Ghat”. Mừng đặng biết sông Linh (hằng-hà). Xuống tam cấp, chen cùng họ, xem đầu nầy, coi chỗ nọ, nhất là tôi ham quan-sát mấy chỗ của những thầy tu ngoại-đạo ngồi. Họ che cái giại hay cặm cây dù lớn mà ngồi, có đủ đồ, nào hình tượng, lư hương, son, phấn tro. Mỗi cây dù và mỗi cái giại là mỗi ông sư ngoại-đạo ngồi, đặng tiếp bổn-đạo nào đi cầu nước Sông-linh. Trước khi xuống múc nước, hoặc tắm, thì bổn-đạo nào tìm thầy đạo nấy mà xin phép và lễ hình-tượng đạo-giáo-chủ, rồi mới đặng xuống múc nước hoặc tắm. Mỗi đạo khác nhau, chỉ dòm hình trạng ông thầy tùy cái biểu hiệu vẽ nơi trán, tay hoặc có dấu riêng vật dụng ; như tích-trượng, chuỗi đeo cổ cùng hình tượng thờ. Khi múc nước hay tắm rồi thì lên thọ phép của thầy, hoặc phết tro, hoặc điểm son, hoặc cột niệt, đeo bùa, học chú, cầu kinh nguyện. Đoạn cúng ít xu, hột nổ, bánh trái, bông hoa rồi mới về. Kẻ múc nước, thì cũng dâng lễ vật rồi, thầy họa phù trong nước rồi đem đi về, nội nhà dùng, gọi là hạnh-phúc. Tôi đi dài theo đó mà quan-sát, đoạn vào chùa xem họ đi cúng, không chỗ nào là không để mắt. Lối mười giờ, nắng lung, tăng, tục lần lần thưa-thớt tôi mới đi về chỗ ngụ. Mấy sư ở chùa thấy tôi về, hỏi tôi đi đâu ? Tôi nói : Đi sông Hằng. Họ vui cười và nói, chiều đi vui lắm. Bữa nay tôi đi lại trù-phòng ăn ngọ, tôi có nói với ông-từ vì tôi không muốn họ bưng lại liêu mất công. Khi tôi theo chưn hai ông sư đặng đến trù phòng, tôi thấy người ta nam, nữ, già, trẻ ở trong cửa nhà ăn đi ra. Mỗi người ra cửa, đi ngang qua một người, ngồi nơi sàng trước cửa ấy, bỏ một đồng xu thì lấy một miếng trầu. Hai sư và tôi đứng đó, chờ cho họ ra hết mới vô cửa. Một mâm trầu têm đã hết, một đống xu ước có ba bốn trăm. Tôi hỏi ông sư già những người ấy làm cái gì đông vậy ? Ông rằng : họ đi ăn cơm của ông chủ bố thí. Vô tới nhà ăn, thì tôi thấy phía trước, chỗ hai sư và tôi ngồi ăn đây, là một khoảng rộng lớn trọn luôn bốn căn, tráng xi-măng. Thấy bỏ lá chầm ăn cơm lai láng, thì biết những người khi nãy đi vào cửa trước thọ thí-thực, rồi ra cửa sau mua trầu. Tôi để ý lắm, sau sẽ hỏi lại. Ăn ngọ rồi trở về liêu, tôi hỏi ông sư-già. Sao ông-chủ cho người ta ăn cơm mà không cho trầu lại bán. Ông nói : cái trầu đó là có ý coi đặng mấy xu, cho biết có mấy người ăn cơm. Tôi nghe qua liền hiểu ý, vào liêu nghỉ trưa và nói trong bụng rằng : Người chủ nầy bố thí như thế thì hậu thế còn giàu to nữa, rồi bố thí nữa. Không biết ngày nào hết giàu hết bố thí… phút ngủ quên. Chiều lúc chùa công phu thì tôi vào chùa giây lát rồi trở ra đi thẳng xuống mé sông. Quả thiệt, người ta đã là đông rồi. Một đám con buôn lo bày hàng ra, kẻ bán đồ ăn, người bán vải, hàng cùng đồ vật-dụng không thiếu. Chiều có ý đông hơn sớm mơi. Có hát chập, có thầy bói, có bóng, thầy pháp. Tôi lại xem một ông thầy pháp đang cúng hà-bá cho một người bịnh. Có bông hình, có tàu, có hũ đựng gạo bày bố trên mé. Thầy hò hét cúng quảy rồi đem hình, tàu, hũ, bông (cùng nhiều cái tôi không biết đặt tên là chi) mà thả xuống sông. Tôi thả rểu cùng bến cho tới 8 giờ tôi mới về nghỉ.Từ đây tôi hay đi các bến, gặp nhiều sự lạ của chư sư ngoại-đạo, họ lo tu tập lối ép xác. Bấy lâu thấy trong kinh nói chớ không thấy chán-chường, nay đặng tợ mắt thì tôi cũng lấy làm đau lòng mà thấy họ hành hài cái thân của họ. Họ làm vậy ngỡ là đặng hạnh-phúc giải-thoát. Mà họ không ngờ là họ phá cái sở-tạo, mà họ dung-túng cái năng-tạo.
Một bữa mơi kia, tôi gặp một vị Du-già-sư kéo một bó xương rồng thứ gai-lưỡi-ông, đem lại bến Das-sasumedh (hình trước đó),(17) sắp như tấm ván, rồi nằm ngửa trên gai. Trần truồng, chỉ một rẻo vải đậy chỗ kín, chịu cái nắng lúc tháng tư nầy ở chốn Tây-thiên. Kẻ qua, người lại cho xu thì ném trên bụng, trên ngực. Từ mơi tới trưa, hết người ta rồi mới dậy. Tôi lại thấy những thầy Phá-kích đi guốc thì đóng đinh ló trên mặt guốc một hai phân tây. Ôi thôi, biết bao điều lạ thường. Tôi lại thấy đặng trong ngày khác tại bến Manikanika, những sư ngoại-đạo trồng chuối ngược, đứng một cẳng. Mà cách trồng chuối ngược là khó chịu nhất, nhưng họ cũng rán, đặng lấy tiền bố thí. Tôi hay để ý, là họ hay làm các cách ép xác nơi các bến, vì nơi ấy đông người vãng lai. Họ, nay ở bến nầy, mai đi bến kia, chớ không ở một bến. Họ hay làm nghịch với thời tiết ; như lúc mùa nắng nực, họ lại rán ép mình mà đởm cự với cái nắng cái nực. Còn tháng lập đông, thì họ lại xuống sông mà ngồi, chỉ ló cái đầu lên thôi. Có kẻ ngồi tới cả tuần, cả tháng, có kẻ lại trần truồng, nằm ngủ ngoài sân, ngoài đồng trong lúc ban đêm mà cự với sự lạnh. Trời Tây-thiên, lúc mùa nắng như lửa đốt. Đi trên đường lối 50 thước thì phồng cẳng, mà họ trần truồng đứng ngoài nắng. Còn có kẻ lại nhúm lửa giữa trời nắng mà nằm, hoặc ngồi gần đó. Sự tu tập của ngoại-đạo nói không cùng. Trong kinh nói kê giới là đứng một cẳng, còn bây giờ nó bày đặt trồng chuối ngược, ngồi dưới nước, chôn mình dưới cát thì không biết giới chi. Như cẩu giới thì có kẻ tu hành ngoại-đạo kia, không chịu thọ thí thực của ai cả. Chỉ đi theo lối chợ búa lượm đồ bỏ, rớt mà ăn. Có kẻ thấy mấy ổng thì lấy đồ ăn đương bán mà quăng xuống đất, họ lượm họ ăn. Bằng cho trên tay không lấy. Thấy vậy rất đau lòng giùm cho ngoại-đạo thủ giới nhiều cách lạ lùng và ép bức thân thể quá lẽ.
[Hình dán tại đây đã hư.]
Một buổi mơi kia, tôi đến bến Assi (hình trên đây), tôi gặp đám thiêu xác. Tử thi để nằm trên hai cây đòn ép bằng tre, trước sân chùa, có một ông sư tụng kinh một chập. Đoạn bốn người lại khiêng tử thi đem xuống sông-linh. Thầy tụng kinh làm lễ tẩy trần, tiêu tội, nhúng thây ấy ba lần dưới nước. Xong rồi khiêng lên để trên đống củi, đã chất sẵn nơi sân bến. Họ sắp củi gộc ở dưới, củi đòn ở trên, lớp ngang lớp dọc cao chừng một thước tây. Củi nhỏ hơn hết là bằng bắp cẳng, chớ không có củi nhỏ, hoặc chà, hoặc bổi. Thầy tụng kinh làm lễ thiêu, thì chủ tang bày đồ cúng trước đó. Nào cơm, bánh, nị, dầu, nước sông-linh, thầy cúng rồi thì dầu, nị thì họ chế trên củi gộc. Kế đó bà con thân tộc ai cũng có cũng ít nhiều dầu, nị đều chế trên củi. Thầy cầm đuốc châm vào đèn cháy đều rồi, thì đút cây đuốc trên lớp củi gộc. Tôi sợ sẽ cháy thây thì khét, nên đi ra xa đứng xem. Nị, dầu bắt lửa cháy, thì trong năm phút đã cháy đều. Ban đầu tôi nói trong trí tôi : củi mà cháy đặng cũng nửa giờ. Không ngờ cháy mau quá, lửa phủ cháy vải bó thây, lần lần cháy tới thịt. Tôi không nghe hôi, khét chi hết, mà cũng không thấy tử thi cong tay, uynh chưn chi cả. Tôi bèn thả rểu chỗ khác đặng xem, bởi nhiều bến và nhiều chùa lắm. Ở theo mé sông Hằng, không xóm nào là không có bến, nên mỗi xóm, mỗi bến. Mỗi bến năm bảy cái chùa lớn, nhỏ. Bởi nhơn-dân tín-ngưỡng sông-linh đó lắm, sống thì đặng nước linh ấy làm cho mát mẻ thân tâm, kham chịu phiền não. Chết lại nhờ nước linh ấy tẩy sạch trần duyên, tiêu trôi nghiệp cảm. Vậy mới kêu là sông-Linh, vậy nên, chư sư ngoại-đạo, mới nhờ đó mà nuôi thân, như bầy con nhờ vú mẹ. Còn nhà chùa cũng nhờ đó mà đặng nền cao, cột lớn. Chùa nào cũng có huê lợi hằng ngày, lớp lời trong những món lễ vật bán cho đàn-na đem vào chùa dưng cúng, lớp đồng tiền dưng cúng. Chùa nào, ở trước cửa vào chùa, cũng có nhà trữ bán đủ vật, hương, đăng, hoa, quả. Còn kẻ ngoài đến bán, cũng đem lại đó mà giao cho chùa bán. Còn ai buôn bán món khác nơi bến, thì cũng có cúng chút ít số lời cho chùa. Vậy nên nhà chùa ngoại-đạo xứ nầy giàu lắm.
Đây là một cái bến chụp nhỏ,
xem trọn nhiều nóc tháp chùa.Cho đến những ghe tàu để du thủy, để lập đàn cúng tế thủy phủ, thần long, thì nhà chùa cũng có huê lợi ở trong. Ngày nào cũng nượp-nượp ngày nấy. Không lựa rằm ngươn chi cả, lòng người không nguội lạnh chỗ tín-ngưỡng. Số dân Ấn-độ ba trăm ngoài triệu người, chia nhau thờ đủ. Đạo trời thì từ cõi trời Kiên-thủ-thiên lên tới Phi-phi-tưởng-thiên, không cõi nào là không có. Còn tạp đạo cõi trần là khác. Nào Đạo thần : sơn-thần, thọ thần, hỏa thần, thủy thần. Đạo quỉ : La-sát, quỉ xà, ngưu ma, yêu tượng, quỉ điểu, chằng tinh v.v… đều có người tín ngưỡng, tùy hỉ trình độ. Kể sao cho hết, sơ lược chút ít. Trải ba năm quan-sát, một mặt, một sự thuần nghề nghiên-cứu, thì sự chi thuộc về đạo Phật và ngoại-đạo, tôi không bỏ qua. Thế thì, ba năm đăng đẳng, biết bao chỗ mắt thấy với tai nghe thì chẳng phải ít. Huống chi trên một khoản giấy cỏn con mà viết thuật sao cho hết. Đất Thiên-trước là ổ ngoại-đạo, là nguồn cội ngoại-đạo. Hoàn cầu nầy, các thứ đạo cũng do đó mà đem ra. Ngàn xưa Phật tổ hiện sanh nơi đó, đem chánh pháp mà phục tà-pháp, mà còn chưa hết, đến nay cũng còn tràn đồng. Thế thường chẳng lạ, lúa ít, cỏ nhiều, vật hữu ích thì kém, vật vô dụng lại thặng số. Lúa thì có mùa, cỏ lại đặng cái tư-niên.
Đây là cảnh chùa Ngoại-đạo cận mé sông-linh.
Thấy cái thạnh hành của ngoại-đạo nơi chốn Tây càn mà chán ngán cho đồng tiền của bổn đạo, vì lòng tín ngưỡng tuôn ra mà lập cảnh hưng tà trục chánh, giúp ma đuổi Phật, trợ ám, phế-minh. Đã trải qua một tuần lễ rồi, kiếm không ra chùa Phật-đạo, lòng áo-não tràn-trề. Dưới sông, trên bờ, ngoài xóm, trong thành-thị, không một nơi đâu mà có thấp thoáng cái tháp tự cùng tràng-phan phướn cái của nhà Phật. Lòng thích-tử trong bộ đồ ngoại-đạo nầy, có ngậm-ngùi cho chăng. Toại kệ rằng :
Trong vùng ngoại-đạo cõi Tây-thiên,
Thích-tử vào ra, luống ngậm phiền.
Nguồn cội nỡ quên, vùi Phật Tánh,
Xuống lên ba cõi, nghiệp không yên.Tại Bénarès nầy toàn là giống dân Hindou, gặp đời mạt pháp nhưng lòng dân thuần-hậu. Chỉ có đạo Hồi-hồi, nơi xứ Arabe đem qua, hay sanh sự với các chi đạo kia. Chớ các đạo trong Trung-thiên Ấn-độ, thì không kích bác nhau. Đạo nào nấy giữ, êm đềm lo làm phước thiện mà kiếm quả nhơn-thiên. Chỉ một mình đạo Hồi-hồi ưa gây nghiệp Tu-la tranh-đấu, nghịch với cả thảy đạo.
Như chỗ tôi nương-ngụ, người chủ nhà bố thí cơm cho dân nghèo, mỗi ngày ăn ba bốn trăm người, mà tôi ở nửa tháng tại đó cũng thấy vậy hoài. Tôi hỏi ông từ, cho ăn vậy bao lâu ? Ông ta nói mỗi năm ba tháng, còn ngày Tết lại cho quần áo nữa.
Thấy cái nhà của ổng mà có mười sáu cái liêu, để rước thầy du phương thì biết, cái lòng ham phước-thiện của người cõi Tây-phương là thế nào. Còn sự ham bố-thí cúng dường cho nhà chùa, hoặc làm chùa hoặc in kinh, hoặc nuôi chư sư ngoại-đạo thì nói không nổi.
Đây là cảnh chùa toàn bằng đá núi chạm trổ.
Như cảnh chùa trên đây thì cái kỹ nghệ của dân Hindou rất mỹ-lệ. Tôi có xem Đế-thiên, Đế-thích xứ Nam-vang cũng không sánh kịp. Đồ sộ một cảnh chùa như thế thì cũng của tiền của đàn-na, tín-thí. Hỏi lại xứ ta có cảnh tự nào như thế chăng ? Thì biết lòng người xứ Ấn-độ, đối với Đạo là thế nào. Tôi nghĩ như thế, nên nói trong trí rằng : Tà-đạo, giáo-pháp chưa minh chánh mà lòng người còn đối như thế. Hà huống là chánh-đạo thì lòng dân ắt phải kính ngưỡng.
Đây cũng là cảnh chùa ở trên mé sông-linh,
chẳng phải lầu-các thế-tục đâu.
Tôi thấy cảnh ngoại-đạo như thế thì tôi chắc ý rằng sẽ thấy cảnh chánh đạo, tuy vân(2) tôi kiếm trong vùng nầy, không có chùa Phật. Như cảnh chùa trên đây, đừng thấy đồ sộ từng cấp mà ngỡ là phố lầu, đó là nhà chùa đạo Hindou, toàn cả một dãy đó.
Một buổi chiều kia, sau khi công phu chiều, tôi thấy mỗi ngày tại nhà ông-chủ, hễ tối lối 6 giờ rưỡi, thì người nhà khiêng sữa bò sống, khiêng thùng, cầm đuốc bằng đồng, đi cúng dường ở đâu tôi không biết mà kéo cả tốp đi. Tôi có ý tọc mạch, rán học mấy câu như sau đây đặng nhập với họ mà đi cho biết.
Trước khi đi thì đứng trước cửa chùa, một hàng dài. Có một người cầm đuốc, cán đồng chạm khéo lắm, hô như vầy : Vissounate cavasté doudhe giatahê. Đoạn mấy người đứng sắp dài theo đó, bèn nói rập với nhau như vầy : Vissounate fouilla cavasté doudhe giatahê. Rồi đó người cầm đuốc và ai nấy đồng nói : Civa, civa, Sampo, sampo, Mahađêu. Như vậy ba lần thì khiêng đồ đi theo ông cầm đuốc. Đi dọc đường cũng nói ba tiếng sau đó.
Té ra đi tới cái đường hẻm đông đảo, mà tôi đã ngó thấy, khi tôi đi xuống sông-linh lần thứ nhất đó. Họ quẹo vào, đi đến một cảnh chùa rất lớn mà cúng dường. Nơi giữa đại-điện có một cái hồ nước, chính giữa hồ có một cục đá. Tôi xem kỹ, hồ xây hình như cái mặt dưới của một cối đá xay bột vậy. Còn chính giữa có cục đá lồi lên cao đó, như cái ngõng cối vậy. Họ kêu là Vissounate. Đoạn người nhà mở thùng rương ra, lấy cái nón bằng cái ô, toàn bằng vàng, trao cho ông thầy ngồi kề miệng hồ. Ông lấy, bèn đội trên cái ngõng đá, rồi lấy bông hoa đá xỏ vào dây, như dây chuyền, tốt đẹp lắm, máng vào ngõng đá. Ông thầy sửa soạn một hơi, thì thấy cái ngõng đá ấy thành ra một cái hình người. Hia vàng, áo bạc, mão vàng, hai tay cầm bông sen. Xong xuôi, ông thầy mới đọc kinh cúng. Ông chủ bèn dưng đồ cúng trong chén vàng, dĩa vàng, ly vàng, kế đổ hết một đấu sữa xuống hồ nước ấy. Cái đấu nầy bằng bạc, chứa hai thùng thiếc nước mới đầy. Chung quanh chánh điện có phòng, có giường ngủ, trải gấm, gối thêu cước vàng chỉ bạc. Cúng rồi thì thâu đồ, bỏ lại rương như cũ. Ông chủ bảo tôi đi xem chùa, hình tượng nhiều quá, thiên hạ đến cúng chật nứt. Phần nhiều là hình dưới đây, điện nào cũng có, chùa nào cũng thờ. Thiên hạ kính ngưỡng lung hơn.
Giống hình Phật Mẫu Chuẩn Đề.
Khi cúng rồi, mấy anh em bèn dẫn tôi đi trở về chỗ ngụ. Họ khiêng thùng rương, đấu và các vật khác đem về. Tôi hỏi ông sư già rằng : Những đồ cúng ấy không phải cúng luôn cho chùa sao ? Ông nói : Ai sắm nấy dùng trong lễ cúng. Còn hàng bình-dân họ mua đồ bằng giấy (đồ mã bông bằng giấy), ly, chén, bằng đất, họ dùng trong lễ cúng. Về đến nhà ngụ là 11 giờ rưỡi khuya.
Đây là cảnh chùa Ngoại-đạo.
Một bữa kia tôi đi dạo cùng thành thị, xem cảnh vật ngoài đời cho biết, vì cả tuần nay, tôi mắc theo các cảnh chùa Ngoại-đạo đặng xem tình hình của họ. Rảo xem phường-phố, dinh-thự, lầu-đài thì không thấy nóc nhà nào cất ngói cả. Phố xá, nhà-cửa, lầu-các dinh-dãy, đều cất nóc bằng. Tôi bèn nghĩ suy nói trong bụng.
Phải lắm, nếu cất nhà có nóc, ngói như xứ của mình thì chịu sao nổi sự nóng-nực trong lúc tháng ba, tháng tư âm-lịch nầy. Nếu không làm nóc bằng, đúc xi-măng sạn đôi ba tấc, thì sự nóng mặt trời nó xuyên qua như chơi. Như tôi ở tại liêu nhà ngụ đây, ở dưới tầng nền, trên một cái lầu nữa, mà sự nóng nực còn bằng ba, bốn lần nóng hơn xứ mình. Mỗi ngày tắm ba lần, trưa, chiều và khuya. Ngày uống nước ba bốn bình gù lệt (mỗi bình hai litres nước). Thành thị Ba-la-nại tốt đẹp hơn Madras nhiều lắm. Phần đông số là nhà chùa của ngoại-đạo, làm cho cái thành Ba-la-nại đặng nguy nga và sạch sẽ hơn Madras. Các nơi bán đồ ăn, thì tôi thấy tiệm nào cũng bán cà-ri hàng bông, nhiều thứ bánh mứt. Tôi để ý xem, mà không thấy nơi nào, bán đồ mạng-vật. Tôi lấy làm lạ, mà nói trong bụng rằng : Không lẽ nào toàn nhơn-dân ăn đồ hàng bông. Còn người dân Ăng-lê ở đây và quân lính, cùng người ngoại quốc đến làm ăn trong xứ thì cũng vậy hay sao ? Không lý nào. Tôi để ý đó lắm, vì muốn rõ biết. Nhưng ngày nào cũng đi mà ngày nào cũng không gặp. Tôi muốn hỏi thăm ông sư già, song tôi lấy làm ngại vì mình là một vị Thích-tử. Lại e nỗi ông sư là một vị nhà sư ngoại-đạo, thức lòng người về món ăn mạng-vật, sợ người không vui lòng. Nên chi tôi bỏ qua, để ngày sau rồi sẽ hay, vì mình còn ở lâu.
Một buổi mơi, tôi đến bến Kédar nầy, tôi ngồi nơi bực thạch để xem sông-linh, thấy số cát ở dưới sông, bãi nầy, cồn kia toàn là cát tụ nhóm. Trên bãi, cồn đều trọi trọi, không cây, không nhà và mênh mông. Tôi nghĩ rằng : Phật nói đến sự đông, sự nhiều thì hay lấy số cát sông Hằng nầy mà thí dụ, thiệt nói không cùng. Tôi bèn hỏi một người Hindou ngồi bên tôi rằng : Sông nầy, có nhiều cái cồn, bãi sao không cất nhà ở trển ? Anh ta nói, “Tháng nắng thì thấy cát, còn lúc mùa mưa thấy nước như biển, sóng to làm lở nhiều bờ đê, bực thạch, phải rúng sập tới chùa, miễu, nhà cửa, dinh thự, lầu-các trên mé. Hiện lúc nầy nhiều chỗ bị sập mấy năm trước hay năm rồi, họ đương tu bổ lại. Ông không thấy sao ?”
Đây là một cảnh bị hư sập,
đang bồi bổ xây đúc theo mé sông đó.(1)
Lúc đang ngồi suy nghĩ cái lòng mộ đạo của dân-tộc Ấn-độ, dám đem tiền của mà cúng cấp cho nhà chùa đặng kinh dinh đồ sộ như xứ nầy, thiệt trong xứ ta chưa từng thấy. Bỗng có một nhà sư đạo Du-già lại ngồi kề bên tôi. Ông không nói chi cả, cứ ngó tôi, nhưng tôi cũng cứ một việc ngồi ngó ra sông. Chập lâu, ông nín lặng, tôi nghĩ thầm rằng : theo trong kinh sách của Thông-thiên-học, nói bọn nhà tu Phá-kích, Du-già trong xứ nầy, tu phù phép nhiều lắm và hiển-hích lắm. Tôi đang nghĩ tới đó thì trong lòng có hơi nghi sợ, bèn ngồi quán A-tự, chập lâu quá mà chưa lộ chữ ấy. Tôi bèn quán chữ Án, cũng không lộ. Tôi bèn nghĩ rằng : Lạ quá, ở xứ mình, khi gấp gãy mà mình quán còn lộ, mà chánh trong lúc đi đường từ Nam qua tới Tây-phương đây, cũng đặng như sở nguyện. Sao nay không thấy đặng, không lộ là nghĩa gì ? Tôi bèn lét mắt dòm nhà sư Du-già, tôi thấy ông đang cầm một cục bằng pha-lê trắng, trong ấy có hình Phật mẫu Chuẩn-đề “Gayatri”. Ông đang mê mẩn quán xem, tôi bèn chỗi dậy, bỏ đi lại chỗ khác mà ngồi. Tôi thầm niệm danh hiệu phật tổ Thích-ca, xin ủng hộ… Đoạn tôi quán tưởng hình dung, bây giờ toại ý nguyện. Tôi bèn lấy quán tướng mầu ấy, tôi nhìn ngay lên mặt nhựt. Lấy mặt nhựt làm điểm hào-quang nơi mi-gian của Phật tổ. Chập lâu có đến trên mười phút, tôi mới lấy mắt dòm cả người nơi mé sông, thì sắc diện ai nấy cũng đặng màu kim-sắc. Tôi toại nguyện bình đẳng quán.
Từ khi bần-tăng lìa Nam-việt xuống tàu sang Trung-thiên-trước-quốc, quyết chí quan-sát Phật-đạo nơi xứ ấy, vì là nơi ngàn xưa Phật giáng sanh.
Khi qua tới Xá-vệ quốc (Calcutta) là ngày 29 Avril 1935, thì bơ-vơ phải tạm ngụ nơi chùa đạo Hindou hết 15 ngày ; qua 14 Mai thì nghe nói có chùa Phật cách xa thành Xá-vệ tám cây số ngàn. Bần tăng bèn nói với ông chủ chùa, xin cho người dẫn đi viếng chùa Phật thì ông vui lòng cho một ông thầy Hindou dẫn tôi đi. Ra chợ mướn xe ngựa đi từ 8 giờ sớm mai tới 9 giờ rưỡi mới đến tại chùa. Vào chùa xin lễ Phật, thẳng vào chánh điện thấy tượng Như-lai, phút chốc động lòng, sa nước mắt, vì từ 17 Avril tới nay không đặng lễ bái Thánh-tượng. Đảnh lễ rồi, bước ra gặp một vị Sa-di đi dưng bát cúng ngọ, cúng rồi ra, bèn hỏi bần-tăng thì mới biết bần-tăng là Annam Bí-sô. Thấy bố cáo của chùa để trên bàn, tôi xin một tờ rồi từ giã ra về Xá-vệ. Xem lại mới biết chùa của hội Maha-Bodhi, ở Ceylon(1) qua đó mà chấn hưng Phật-đạo thì bần tăng mới lưu-ý.
Mười tháng tại làng Lộc-giả-viên (Sarnath)
Qua ngày sau bần-tăng bèn từ giã chùa Hindou, quảy gói đi bộ tầm tăng già mà vào, phút gặp hai vị Sa-di Xiêm đạo hiệu là Mêta và Karnna, thì ra mắt nhau, nhờ huynh Mêta biết tiếng Tây chút ít nên chuyện vãn mới hay làng ấy là Lộc-giả-viên. Bần-tăng bèn tỏ ý muốn nhập hội, thì Mêta nói rằng phải đóng 10 đồng rupee mỗi tháng. Bần tăng cậy Mêta đem ra mắt Giáo-chủ sư-tăng-già, bần-tăng đảnh-lễ rồi tỏ ý muốn vào hội.
Mêta thông-ngôn lại bằng tiếng Anglais. Thầy nhận lời, bần tăng dâng lên 10 đồng xin nhập hội.
Từ đây, bần tăng an thân, ở tại hội lo học chữ Anglais và Hindou, vừa biết nói đủ lẽ phổ-thông cùng người bổn-hội.
Ngày 2 Novembre 1935.
Tôi xin hội cho đi lên Phật-đà-gia (tức là cội Bồ-đề, đức Thích-ca tọa thiền nơi đó) đặng lễ bái, cúng dường. Hộïi cho phép.
Ngày 15 Décembre 1935.
Một người Bikku Ceylon chết tại nhà thương. Có thỉnh bần-đạo đưa xác bữa trưa 16 Décembre. Đến tại nơi thiêu xác, có sở hỏa-thiêu trên mé sông Gange. Cách thiêu gọn gàng và trong hai giờ tử thi cháy ra tro cả.
Ngày 18 Décembre 1935.
Lối 7 giờ rưỡi tối, đưa hai ông bạn đạo Bí-sô ra xe lửa đi về Ceylon. Bận-biệu, mến tình ứa lụy, hun tay rờ cẳng tỏ tình yêu. Cùng nhau chung chạ mười ngày tại Bénarès mà sự mến nhau bằng ở thế mười năm. Ba ông đi dự lễ Xá-lợi, kỷ niệm tại Sarnath ngày 10 Novembre, rủi một ông về tới Bénarès thọ bịnh, tịch nơi ấy. Xem hai ông bạn rất đau lòng, vì đi ba về hai.
Tháp nầy ở Lộc-giả-viên,
kỷ niệm chỗ Như-lai gặp Đức Di-lặc tại đây.(1)
Ngày 21 Décembre 1935.
Tám giờ sớm mai, bần-tăng đến Phật-đà-gia (Bodhi Gaya), chiều chụp hình dưới cội Bồ-đề.
Bần-tăng lên ở Phật-đà-gia đặng một tháng rưỡi.
Phật-đà-gia (Bodhgaya),
tại cây Bồ-đề khi Phật thành đạo.(1)Ngày 4 Janvier 1936 – mùng 10 tháng chạp năm Ất-Hợi.
Bần-tăng đi viếng động Dunghasiri là nơi Bồ-tát động, trước khi thành Phật còn là một vị Bồ-tát, thì kiếp ấy Phật tu tại đây, trên núi, dưới bưng, sơn thủy xinh đẹp. Có thỉnh hai cục đá cẩm thạch làm kỷ-niệm.
Tháp Phật-tổ, Phật-đà-gia.(2)
Tượng Như-lai thờ trong cái tháp Phật-đà-gia nầy.(1)
Ngày 15 Janvier 1936 – 21 tháng chạp năm Ất-Hợi.
Bữa 15 Janvier 1936, phút thấy ba bốn vị lama sắm sửa hành-lý, bần-tăng bèn nói : Nay mấy huynh về xứ nào ? Có huynh Lama tên Lô-săng trả lời : “Thưa, chưa về xứ, bây giờ đi qua xứ Népal đặng cúng dường Phật-tháp, tháng sau chúng tôi trở lại Phật-đà-gia, chừng ấy chúng tôi mới về xứ.” Nghe qua, bần-tăng bèn đi kiếm huynh Dhammajoti (là thầy bí-sô của hội phái lên chấp sự nơi Phật-đà-gia) đặng xin thầy làm ơn gởi bần-tăng đi theo mấy thầy lama đi Népal, vì bần-tăng muốn qua đó lễ bái Thánh-tháp. Vị lòng người của hội, nên mấy thầy lama chịu cho bần-tăng nhập bọn.
Ngày 28 Janvier 1936 – mùng 5 tháng giêng năm Bính-Tý.
Bần-tăng bàn tính đi Népal. Đồng-hành là năm vị :
1 Một Bikku Annam ;
2 Một Phước-kiến – Phạm-ngộ tì khưu ;
3 Losang Lama ;
4 Losang Kompo ;
5 Kolchoch Tâmpa.
(ba vị lama sư.)Ngày 29 Janvier 1936 – mùng 6 tháng giêng năm Bính-Tý.
Hôm nay, mùng 6 tháng giêng Annam, bần-tăng đi viếng nước Niếp-ba-lê tại Hi-mã-lạp-sơn (Phạn ngữ Népal Himalaya). Tàu gọi là Tuyết-lãnh. Bốn giờ sáng thức dậy lên xe kiến thẳng ra bến xe lửa Gaya cùng Đạo-hữu Lama Losang. Cụ bị một gói hành trang vật dụng. Có đạo hữu Dhammajoti đồng đi đưa ra tới gare, người tiễn hộ 4 rupee lộ-phí. Trễ, hụt xe 5 giờ, phải đợi tới 11 giờ rưỡi sáng có chuyến xe đi Raxaul (gare kế ranh Népal). Đạo hữu Lama Losang lo mua giấy xe lửa giá 2 rupee 14 annas mỗi người. Lên xe, tới ga Patna-junction đổi xe (3 giờ chiều). Sang qua xe hơi của sở hỏa-xa, chở đi ra bến tàu Dighaghat. Tại cửa bến có hai bảng đề Ferry. Xuống sà-lúp(1) (của hỏa-xa hội) năm giờ chiều tàu chạy trên sông Gange. Trót một giờ tới bến Paleza Patna Steamer. Xe lửa chực sẵn, lên xe đi tới gare Muzoffarpur chín giờ tối, xuống xe ngủ tại gare đợi tới 3 giờ sáng ngày 30.
Népal – Ca-bì-la quốc tự
Bần tăng và Losang lama.(1)Ngày 30 Janvier 1936 – mùng 7 tháng giêng âm-lịch.
3 giờ sáng ngày 30 có xe ; tới giờ thức dậy, lên xe đi tới gare Sagauli là 6 giờ mơi. Đổi xe, xuống điểm tâm quấy-quá, lối 7 giờ mơi lên xe chạy đến gare Raxaul (gare giáp ranh Népal, gare về Ăng-lê, chợ về phần địa Népal). Chín giờ mơi, xuống xe ra cửa gare trình và trả giấy xe. Quảy gói lội bộ ba cây số ngàn tới trạm Dhamasala Raxaul đỗ ngụ, ăn trưa rồi, ngủ một đêm.
Ngày 31 Janvier 1936 – mùng 8-1 âm-lịch.
Sáng ăn bột xú, uống trà xong, 5 giờ quảy gói lội bộ chừng ba cây số ngàn tới gare Birganj. Ải địa đầu nước Niếp-ba-lê. Có quan lại sở Thông-hành tại gare, xin passeport nhập cảng. Ba sư Lama dễ xin, nói tên biên rồi, tới bần đạo và vị Phước-kiến bị hạch hỏi, tiểu thơ lại không dám cho, phải đợi ông Radgia đến sẽ tâu. Đợi một chập, Ngài trấn ải nguyên nhung đến hạch hỏi, bần đạo trao thơ Mahabodhi hội và khai ở xứ Ceylon qua ở tại Sarnath Bénarès Bồ-đề hội tu hành. Ngài nghi là người Nhựt-bổn, nên tra hỏi gạn-gùng từ lời, dùng-dằng không chịu cho đi. Bần-đạo bủn-rủn, đạo-hữu Phước-kiến cũng vậy, đứng sững niệm Phật. Chập lâu, bần-đạo bước lại gần thi lễ và trăm tiếng Ăng-lê với ngài, vì ngài có học, năn nỉ xin cho đi viếng Thánh-địa lễ bái, cúng dường ba ngày sẽ trở về Ba-la-nại. Ngài biết tiếng Ăng-lê giỏi, bần dùng giây lát, rốt lại thuận tình vì ngài ngó bộ pháp-phục bèn động lòng cung kính. Ngài hiệp-chưởng(1) xá rồi nói : Tôi cho thầy đi, bèn nói với thơ lại biên tên họ, cho thông hành. Mừng hạnh phúc, lấy giấy thông hành rồi mới mua giấy xe lửa đặng. Mỗi người mua giấy xe đều phải trình giấy thông-hành bất kỳ ngoại-quốc hay nội ban Ấn-độ. Đạo-hữu Losang lo góp tiền mua giấy xe lửa đi Amlekhganj, giá 11 annas mỗi vị. Rủi, giấy xe mua rồi mà thông hành ký tên đóng dấu không kịp, xe lửa đã xúp-lê chạy, nên đạo-hữu Losang phải ở lại lấy thông hành, chỉ có bốn người đi trước. Không dè sự trễ ấy tại không có lo huê-hồng.
Xe trải qua truông(2) và cách bốn, năm gare mới tới gare Amlekhganj là gare chót, hết đường hỏa xa, là 11 giờ rưỡi sáng, ăn ngủ tại gare một đêm đặng đợi xe mai, bạn Losang đến hiệp nhau đi.
Ngày 1er Février 1936 – mùng 9-1 âm-lịch.
Sáng điểm tâm, bốn anh em lo nấu cơm, nấu trà chờ đạo-hữu tới. Đúng 11 giờ rưỡi, xe tới. Đón bạn, anh em mừng nhau, bày cơm nước, ăn ngọ xong, đồng lên xe hơi camion đi Bambiti Dramsola. Xe nầy chở gạo mỗi bộ hành giá 1 rupee. Xe chạy theo triền núi, trải qua biết bao đèo ải, núi tứ giăng. Ban đầu núi đá hòn, đá khối, xem phong cảnh nào sơn nào thủy mỹ-lệ, có cây tòng đầy núi, có thác nước, có dây thép treo để chở lương phạn qua mấy cái ải sâu. Qua ba bốn cái trạm police nhỏ, tra xét, trình thông hành. Rồi tới cái hang quan ải một cây số ngàn, tới đây xe đậu góp tiền xe và trình thông hành rồi mới thổi kèn mở cửa hang cho xe qua. Xe chạy đến trạm Bambiti 5 giờ chiều. Bambiti Dramsola là nơi cùng đường xe hơi (biệt-lộ xa). Xuống xe vào Dramsola, nấu trà uống, ngủ.
Ngày 2 Février 1936 – mùng 10-1 âm-lịch.
4 giờ sáng, quảy hành lý đi, lên đèo xuống ải, trống bụng qua non, miệng phà ra khói, lạnh tê tái tay chưn, mũi thở ra tiếng, trống ngực ầm-ì, mệt ngất. Ngó quanh Hi-mã-lạp bao giăng, chập chùng cao thấp, tòng reo, nước khải, gió đưa sương, mặt trời đứng bóng, tạm nghỉ ăn bột xú đỡ lòng, rồi cứ việc đi hoài, phút tới ải thứ tư là Chisubani (sở douane) là 4 giờ chiều. Ải nầy có quan Thương chánh và sở mật thám nên khó lắm. Quan sở Thương chánh tra xét hành lý, móc túi, lục lưng, xong cho lại trình Quốc Vương thông hành. Ải quan tra hạch gắt gao, lính bồng súng châm lưỡi lê lườm lườm đợi lịnh. Xuôi xếp, thâu thông hành xong rồi cho đi. Đi một đỗi hai ngàn thước, có hồ nước, nghỉ nấu cơm ăn quấy quá, rồi quảy gói đi nữa. Bảy giờ tối tới trạm Chitilăng, cùng nhau đỗ ngụ, nấu trà uống, ngủ mê man, quên mỏi mệt.
Ngày 3 Février 1936 – 11-1 âm-lịch.
4 giờ sáng, quảy gói đi, từ đây bớt cực, đường xuống dốc phần nhiều, nước non mãn nhãn, tòng bá reo đờn, chim ca rước khách. 11 giờ tới ngọ, ghé quán điểm tâm, quảy gói đi tới trạm Patry có sở police đóng, hỏi tên họ, biên rồi cho đi. Trên núi dòm đã thấy kinh đô Népal, thấy tháp chùa. Đi riết 3 giờ chiều mới tới Simbu-tháp. Tháp đồng Sư-tử phật tháp, lớn cao, trên đảnh núi (đá hòn). Vào đó, tẩy uế, lễ Phật, nhiễu tháp, lo nấu ăn, xong rồi ngủ, mỏi mê gân cốt, vùi vẫn ngủ-ì.
Sư-tử tháp.(1)
Ngày 4 Février 1936 – ngày 12-1 âm-lịch.
Từ hôm mùng 6 tháng Giêng Annam, bần-tăng khởi đi viếng nước Népali tại Hi-mã-lạp-sơn (Phạn ngữ : Népal Himalaya). Vừa đi xe lửa, xe hơi, đi bộ (vì không có đường xe) trọn là sáu ngày đường, từ lên núi Hi-mã thẳng tới xứ Népal. Đường đi gay go lắm, núi nầy cao hơn các núi, trèo non, lên đèo, xuống ải, đầu non tuyết đóng như vôi, giải dọc giải ngang không biết mấy trăm mà kể. Tuyết sa ngập cẳng, lạnh thấu ruột non. Cực khổ, đói cơm khát nước không sợ, chỉ có qua 6 trạm ải, quan binh tra xét gắt gao, nhứt là ải địa đầu và ải thứ tư.
Bữa nay nhập thành rồi, thong thả, sớm mơi thức dậy 5 giờ, rửa ráy lễ Phật, nhiễu Sư-tử tháp (Phạn ngữ : Simbu-Nath). Ấy là tiền kiếp Phật chuyển thân Sư-tử tại đồng nội nầy. Tháp cao lớn lắm : 13 từng, chót bằng đồng đỏ. Cách tháp nầy, chừng 10 cây số, đi bộ một buổi tới tháp Bouddha-Nath, cái tháp nầy cũng to lớn, chót đồng, không chùa. Nhiều Lama đến cúng, hỏi thăm đại-đức thì kiếp xưa Phật sanh làm thái-tử tại thành nầy, xưa là Kinh-đô. Bần tăng lễ Phật xong, từ giã đi qua Radjagrir tự, có bọn Lama sư đã ngồi bao trước chùa tụng kinh, vào bửu-điện lễ Phật xong ra nhiễu chư Lama tăng niệm Phật. Rồi việc, có một vị Népali Bikku đến chào mời vào tợ ngồi xong, có bốn ni-cô ra đảnh lễ và cư sĩ nữ-nam dưng vật thực và cầu bần đạo ở lại ít ngày. Thương ôi ! Bất như chúng nguyện, bần tăng từ chối vì ít ngày giờ rồi từ giã qua viếng chùa kinh-đô Buddha-mơti. Lúc đi ra chùa kinh-đô, thì có trải sang thành phố, xem cảnh vật cũng lớn lao không thua gì Bénarès. Bần đạo lễ Phật xem cảnh xong từ giã qua Cổ tháp (toàn bằng đá) lễ bái rồi từ giã trở lại Bouddha-Nath tháp (tháp đồng). Còn tháp to thứ ba là tháp Nam-mô-phật-đà (Phạn ngữ : Nam-mô Bouddha) cao lớn 13 từng, chót cũng bằng đồng. Hỏi ra là rừng Trúc-lâm, chỗ núi đó, kiếp trước Phật hiến thân cho cọp cái ăn cho có sữa nuôi con. Bần tăng có tụng kinh Kim-quang-minh nên biết tích nầy, lúc ấy, Phật làm thái tử thứ ba danh là Bồ-đề-tát-đỏa, vì ít ngày giờ bần tăng không đi viếng được (đi bộ hai ngày mới tới). Toàn xứ Népal có ba tháp lớn và tốt đẹp.
Trong khi đi lễ Tháp, bần-tăng thấy hàng trăm, hàng ngàn tăng, tục đến lễ bái, mà phần đông toàn là người xứ Tây-tạng và Bửu-tạng, còn bao nhiêu là người Népali.
Tại Bouddha-Nath tháp, huynh Losang mướn nhà ngụ ở lại ba ngày. Mỗi vị đóng 4 annas. Sắp đặt ăn uống xong là ba, bốn giờ chiều.
Chiều lại, Lama Losang bảo bần tăng sắm lễ vật đặng ra mắt đức Thượng-tọa-quản-tháp. Nghe lời, bần tăng đến nơi dâng lễ vật và đảnh lễ ngài, nhưng ngài Thượng-tọa thấy bần-tăng đầu bạc và có đắp y Phật nên ngài đỡ tay không cho bần-tăng đảnh lễ. Ngài mời bần-tăng ngồi. Ngài nói tiếng Hindou cũng giỏi mà Ăng-lê cũng khá, ngài hỏi thăm bần-tăng là người xứ nào ? Bần tăng vừa trả lời xong, kế huynh Losang bước lại làm lễ Thượng-tọa đặng xin phép nhập điện-trung mà lễ Phật và mời bần đạo đi theo. Vào đến nơi, bần tăng không thấy Phật tượng, chỉ thấy một hàng bửu-bình bằng pha-lê đủ màu sắp trên đó, vị Thượng-tọa thắp nhang đèn lên cho huynh-đệ lễ-bái, rồi ngài dẫn huynh-đệ đi thẳng xuống giảng đường. Vui miệng, bần tăng bèn đứng dậy chấp tay hỏi bằng tiếng Hindou rằng : Bạch ngài, khi nãy huynh Losang nói với tôi rằng : lên lễ Phật, mà sao vào điện ấy không thấy cốt Phật, lại chỉ có một hàng bửu-bình (giống cái lục bình chưng bông của xứ mình, nhưng có nắp) để trên bàn đại điện mà thôi ? (Đây là bần-tăng có lòng nghi là tháp của chư vị tu hành xứ ấy, vì tục của xứ nầy : chết thì thiêu, rồi lấy tro bỏ vào bình mà ký trong tháp, hoặc có người giàu sang có cúng tiền cũng đem ký trong tháp, theo như Cao-miên và Xiêm.)
Ngài nghe bần tăng nói, bèn trả lời rằng : Đó là bình Xá-lợi của Phật Thích-ca, thầy mà lễ đặng món ấy cũng như chơn Phật thân, thì có cần chi tượng cốt giả. Nghe qua, bần tăng chưng hửng. Chập lâu bèn thưa : Nghe rằng xưa kia Xá-lợi đã phân từ bửu-bình, chia mỗi tháp một bình, mà đây sao lại nhiều bình ? Ngài rằng : Phải, nhưng duyên cớ ấy có lẽ ông cũng hiểu, vì ông là Thích-tử, lựa hỏi tôi làm chi ? Bần-tăng chấp tay bạch rằng : Ở Annam qua tới xứ nầy là thiên sơn vạn hải, thì có đâu đặng rõ biết duyên cớ ấy, xin ngài hoan-hỉ. Đoạn ngài dẫn tích : xưa thì Xá-lợi Phật tổ ở tại tháp Niết-bàn (Cu-thi-na-quốc), lúc binh Ăng-lê náo loạn thì Tổ-sư bèn dời qua nước Niếp-ba-lê, thờ tại Sư-tử Phật tháp. Từ khi ngoại-đạo thạnh hành thì Phật đạo đã qua thời kỳ mạt pháp. Ông qua tới Trung-thiên-trước, ông có thấy những tháp-tự tiêu tan hư-sập chăng ? – Thưa, có thấy. – À, là vậy đó, vì vậy mà chư tiền Tổ-sư mới thâu bình trong các tháp bị phá hoại mà đem về xứ nầy, ký vào Bồ-tát tháp đây. Vì xứ nầy ở trên Hi-mã-lạp-sơn nên ngoại-đạo đi không tới, và nhờ người ngoại đạo không ưa dùng đồ cổ tích của Phật, nên mới còn đó cho chư tiền Tổ-sư di về đây nhiều bửu-bình như thế. Lại một lần nữa, Ấn-độ bị giặc Ăng-lê thì chư tiền Tổ cũng sợ trước, vì rằng Ăng-lê là đạo Thiên-chúa, nên lo di qua đây là lần thứ hai. Bần-tăng giữ Tháp nầy là truyền tử lưu tôn, đến nay là sáu đời trong dòng họ. Chuyện vãn xong, bần tăng xin kiếu về chỗ ngụ, trầm tư mặc tưởng rằng : Từ ngày xuất gia, tụng niệm chư kinh thì chỉ nghe hai chữ Xá-lợi, chớ chưa từng thấy. Ngày nay có hạnh đặng lễ bái, nhưng mắt chưa đặng thấy… Cả đêm thổn thức.
Ngày 5 Février 1936 – 13-1 âm-lịch.
Sáng ra bần-tăng kêu huynh Losang mà nói rằng : “Tôi muốn vào lễ Xá-lợi một lần nữa.” Losang le lưỡi rằng : Chỗ ấy khó vào, chỉ cho vào một lần mà thôi, nếu muốn đi nữa thì phải sắm lễ khác. – Đặng, bần-tăng liền đưa tiền 5 rupee cho huynh Losang đi ra tiệm sắm lễ, vì huynh nầy thạo. Tám giờ, tùng theo Losang, bần tăng đi thẳng vào Thượng-tọa, phô bày lễ-vật và trần-tỏ như trên. Hạnh phúc thay, ngài hoan-hỉ đem lễ-vật lên tháp. Bần tăng vào lễ rồi thì bạch với ngài rằng : Xa xuôi(1) đi đến, xin ngài hoan-hỉ cho xem Xá-lợi, đặng chăng ? – Ngài không trả lời liền, tuồng suy nghĩ chập lâu, rồi nói : Vì cái công-đức xa xuôi ấy mà buộc tôi phải tẩy-tịnh hai tay rồi sẽ dở nắp bình cho thầy xem. Nói rồi, ngài lại lư hương xòe hai bàn tay, hơ trên khói và tụng thần chú rồi đi thẳng lại bàn rê bình xuống. Huynh Losang cầm cây đèn bạch lạp lại rọi (vì trong tháp tối tăm). Ngài dở nắp bình, bần tăng lấy kiếng đeo lên, dòm tận vào miệng bình, thấy hình như hột cải, nhưng tiếc vì thấy không đặng rõ lắm, bởi vì cái bình thì sâu mà bằng pha-lê màu lục, nên thấy không rõ màu Xá-lợi thế nào, bị màu pha-lê chói vào nên xem hột Xá-lợi cũng màu lục. Ngài đậy nắp bình, bần tăng lễ bái rồi kiếu về luôn.
Bần-tăng về cả ngày buồn-bã, bữa ngọ biếng ăn. Cái tham tâm đã dậy động và nghĩ rằng : Mình đi, mình thấy, mình đặng lễ bái, mà ngặt một điều là : thương thầy Bổn-sư, tuổi đã cao mà công cũng cao trong nền đạo hạnh, nhưng không đặng thấy và lễ bái. Trọn ngày đêm van-vái vọng tưởng đức Như-lai, xin thương Nam-Việt chư Thích-tử và chúng sanh xui sao cho đệ-tử cầu đặng chút phần Xá-lợi đem về nước Nam (đó là cái tham tâm nó lộ là vậy : đã lễ bái được rồi muốn thấy, thấy rồi lại muốn cho có đặng đem về xứ mà chia phước với chư tăng và bá tánh).
Chiều, bần đạo rảo bước, nhiễu tháp, viếng phố phường quốc độ. Lúc đi vào phố mua một xâu chuỗi trường Kim Cang, phút gặp một vị xưng rằng Heat-Lama, chủ tự hai cảnh tháp lớn. Bần đạo mượn mua hình tháp và đổi giùm bạc Népali. Người mời lên lầu phòng hầu chuyện. Mới biết hai tháp đầu (Sư-tử tháp và Bouddha-Nath tháp) có Xá-lợi Phật tổ, bần đạo lễ bái cúng dường rồi trần tỏ phương xa đến cầu Xá-lợi. Bần đạo nói tiếng Ấn-độ với ông chủ-tự, vì từ thành Calcutta đổ lên miền Bắc nước Ấn-độ là dân Hindou, đại đức chủ-tự hoan-hỉ cho thỉnh chút-ít viên bạch Xá-lợi và nói rằng : ai nuốt một viên Xá-lợi chết không sa Địa-ngục. Kẻ giàu có đàn-na hằng đến thỉnh. Trời gần tối, bần đạo kiếu về chỗ ngụ, và thuật lại việc ấy cho chúng đạo hữu nghe. Rồi cùng nhau đi ra mắt vị chủ-tự ấy. Bần đạo, Losang và Phước-kiến ba người đồng đi, hai vị Lama kia ở lại giữ đồ.
Ngày 6 Février 1936 – ngày 14-1 âm-lịch.
Sáng lại, bần tăng đi một mình thơ thẩn vào phường. Thấy những món mà huynh Losang mua sắm lễ vật khi qua, bèn nghĩ rằng : Mình nên sắm bằng hai bằng ba hôm qua, rồi vào một mình ra mắt Thượng-tọa.
Nghĩ vậy, rồi bần tăng liền móc tiền ra mua đủ lễ-vật chất vào giỏ xách (của tiệm có treo bán sẵn). Tiền tính 15 rupee. Trả xong, bần tăng đem lễ-vật vào thăm Thượng-tọa. Cũng y như hôm qua. Thượng-tọa mời ngồi, đàm đạo, uống nước xong ngài bèn mời bần-tăng đi đem lễ-vật lên tháp cúng dường. Bần-tăng rằng : Bạch ngài, đã hai bữa cúng dường rồi, thì nay cái lễ nầy là lễ tôi ra mắt ngài và xin ngài thương tình thâu dụng thì tôi có phước lắm, chớ không phải lễ cúng dường, vì không có nhang đèn. Ngài xem lại, y như vậy, bèn nói : Đường xá xa xuôi, thầy đã tốn công và của mà đến đây cúng dường cũng là nhiều rồi, còn mua chi nữa cho tốn hao quá lẽ. Bần-tăng rằng : Theo phép con nhà Thích-tử thì phải vậy, ngài là bực Thượng-tọa đại-thừa, mà tôi đây cũng hành đại thừa đạo. Ngài nói : Sao lại thấy đắp y theo xứ Sinnalese (là Colombo) và Burma (là Birmanie) làm cho tôi tưởng thầy là phái tiểu-thừa. Đoạn bần-tăng thuật việc đi tới xứ người phải tùy phong tục, ấy là luật hành Bồ-tát đạo, phải chìu chúng sanh thân, ngữ, ý. Ngài nghe qua thì có vẻ cung kính hơn hai ngày trước và lúc mới vào nãy giờ. Đoạn bần-tăng xin ngài nhậm lễ ra mắt, ngài ái ngại quá lẽ, bị nài-nỉ đôi ba phen, ngài đành phải kêu đạo nhỏ thâu lễ ấy. Đoạn ngài hỏi thăm cách hành đạo nơi Nam-Việt thế nào, thì bần-tăng nói sơ lược cái pháp yếu. Ngài có vẻ vui mừng và phục lắm. Đoạn ngài nói : Đức bổn sư của thầy có lẽ cũng già lắm, vì thầy đã bạc đầu. – Thưa phải. Thầy tôi nay đã già, xuất gia từ lúc nhỏ, tụng niệm Pháp-hoa kinh. Ngài nghe qua khen tặng, nhưng bần đạo không tỏ vẻ vui và nói rằng : Tuy tu lâu mà không trọn, vì lý có mà sự không, nên tôi buồn quá. Bần tăng bèn nói : Vậy ngài không rõ sao ? Vì thầy của tôi hiểu lý kinh mà tu đó là lý, mà không đặng thấy Xá-lợi mà đảnh lễ cúng dường cầu phước cho chúng sanh đó là sự. Nói rồi bần-tăng bèn sụp xuống đảnh lễ ngài. Ngài lật đật cũng tuột xuống mà đỡ lấy đầu của tôi và nói : Nếu thầy làm như vầy thì tôi không vui, vì công-đức tu-hành của thầy rất dày, lễ vậy tôi mất hết phước. Tôi bèn chấp tay xin ngài hoan-hỉ cho thỉnh chút ít đem về, trước cho thầy tôi và chư Thích-tử đặng lễ bái và trông thấy, sau là chúng sanh nơi ấy cũng đồng chia đặng phước lành. Ngài là Thích-tử đại-thừa thì tự ngài đã biết việc ấy. – Ngài ngẩn ngơ đôi lát, bèn nói : “Sự ấy khó vưng, vì ngài cũng rõ Xá-lợi là vật báu nhà Phật đạo, sáu đời hằng giữ chỗ nầy, chưa có ai có đặng hồng phúc ấy. Nếu Quốc Vương rõ đặng thì cũng quở tôi, tuy ngài là đạo Hindou.”
Bần-tăng nghe qua bèn rưng nước mắt, sững sờ chập lâu, đảnh lễ ngài nữa, ngài cũng đỡ lên và nói : Ngày nay tôi rối tâm quá, không biết tính sao. Bần-tăng lễ nữa, ngài đỡ nữa và nói : Thôi thôi, vì đạo đức của thầy, vì công đức khổ hạnh của thầy và vì chúng sanh, dầu tôi có bị khổ sau khi dâng cho thầy chút đỉnh Xá-lợi, thì tôi cũng cam tâm.
Ôi ! nghe qua đường bịnh hấp hối mà gặp thuốc hồi-dương, nên lễ nữa, ngài đỡ nữa rồi nắm tay kéo thẳng vào Đại-điện, lầy chìa khóa mở cửa tháp, vào vọng bái, quì lạy, rồi đứng dậy nói rằng : Nhơn duyên bao nhiêu thì đặng bấy nhiêu, tôi không biết. Nói rồi bưng bửu-bình xuống, bảo bần-tăng lấy một cái khăn vải vàng của Bổn-đạo cúng trên điện, để trên đầu, trải ra, ngài trút cả bình trên khăn, thì nghe như có chút ít rớt vào khăn. Dở bình lên, bần tăng bèn túm khăn, rồi lễ bái đi ra. Ngài căn dặn : Cẩn thận, rồi ngài đưa ra cửa. Bần đạo kiếu luôn về chỗ ngụ đặng dùng bữa ngọ, lòng mừng khấp khởi.
Chiều lại, bần đạo nhớ đến vị Heat-Lama, hôm qua chỉ có Losang Lama và Phước-kiến dưng lễ vật ra mắt, bần đạo không biết nên không sắm trước. Bữa nay mới đi mua chút ít bánh trái đựng vào hộp alumium(1) dưng luôn cho ngài, vì người đối đãi rất tử tế hơn mọi người và nói : Tôi hằng ưa và kính mến chư vị Bikku.
Cả thảy người Tibetain đều tùng phục, vì người cho thông hành xuất ngoại, nếu không có cũng khó bề ra khỏi ải.
Ngày 7 Février 1936 – ngày 15-1 âm-lịch.
Sáng ra, bần đạo hối huynh Losang đi về Phật-đà-gia. Bần đạo và hai vị trước đó (Losang Lama và Phước-kiến) đồng đến từ kiếu Tự-chủ. Hôm qua, 6 tháng 2 đã lấy giấy thông hành. Bữa nay bần đạo còn xin ghi passe-port riêng của mình. Tội nghiệp, người cũng vui lòng y thử. Có xe hơi camion, song giá mắc quá, Losang đạo hữu không chịu đi. Ba anh em về, còn hai vị lama kia ở lại và về Tây-tạng ngõ khác. Từ biệt nhau xong, vị Losang Kompo đưa đi tới giáp ranh kinh đô rồi trở lại.
Thẳng đến Kinh đô thì nhà vị Lama chủ, tên Darma-sạp, ra mắt tiểu chủ cho phòng ngủ. Sắp đặt hành lý, rồi kéo nhau ra mắt Đại chủ. Ông đã 120 tuổi mà còn sõi như người 70, 80, ngồi trong giường, bần đạo đến chào (cụng đầu), rồi xin ngài ghi Thông-hành. Chuyện vãn một chập, thì thấy người bưng một mâm lễ vật, bánh mứt và nếp dẹp, trà để trước mặt bần đạo, trên tợ nhỏ, rót trà Tây-tạng mời, gọi lễ tiếp cúng Tì Khưu, vì ngài là Hội-viên thay mặt hội Đại-bồ-đề trong nước Népal, ngài hằng xem kinh, nên biết trọng người tu hành. Rồi bảo người nhà bưng sang qua phòng, để trên tợ chỗ bần-đạo nghỉ, chỉ một bần-đạo có tợ mà thôi. Ba anh em ăn uống xong, lo nấu cơm rồi đi ngủ.
Ngày 8 Février 1936 – ngày 16-1 âm-lịch.
Sáng 5 giờ thức dậy, điểm tâm cơm đã nấu hôm qua, rồi quảy gói đi từ giã và cám ơn chủ gia nhỏ, còn ngài già cả, sớm quá chưa thức.
7 giờ, quảy gói đi tới ải kinh đô hoàn môn Dram-sola Patry là 11 giờ trưa. Trình giấy passeport de retour(1) ở poste police rồi đi tới nữa tới trạm Dramsola Tichilang 4 giờ chiều, còn sớm đi một đỗi nữa phải trời mưa tuyết, nên rán gấp bước tìm quán đỗ ngụ 6 giờ. Gặp quán, ngủ nhờ, lo nấu ăn rồi ngủ.
Ngày 9 Février 1936 – ngày 17-1 âm-lịch.Sáng 4 giờ thức dậy, quảy gói đi riết tới ải Chisu-bani (Douane), trình thông hành. Quan ải thâu thông hành retour, rồi cho thông hành Quốc-gia. Sang qua phòng việc xuất-cảng đóng 3 anna thuế (đã vậy, cũng còn tra hạch ; nước nào, tu ở đâu lăng xăng).
Xuôi xếp, đi riết tới 10 giờ đã đến trạm Dramsola Bambiti (biệt lộ ải). Đi hay, không bằng may đò, phước gặp xe hơi, giá cả tính xong, lo mua vật thực chút ít ăn uống, rồi lên xe hơi đi cũng 1 rupee mỗi vị. Xe hơi chạy đến gara Amlekhganj 12 giờ rưỡi. Xuống xe, mua vật thực ăn thêm chút ít, nghỉ chờ chuyến xe lửa 8 giờ chiều.
Đây nhắc lúc hôm qua ngủ tại quán, khuya lối một, hai giờ mưa tuyết lớn quá, sáng đi thì tuyết xuống lấp đường, ngó đảnh như tô vôi, lạnh tê tái thấu ruột non. Từ mẹ đẻ tới nay, 48 tuổi mới biết tuyết.
Ngày 10 Février 1936 – ngày 18-1 âm-lịch.
5 giờ sáng, xe lửa về tới gare Muzaffarpug, đổi xe đi thẳng tới gare bến xe lửa Paleza. 8 giờ sáng ăn điểm tâm ở bến tàu Patna Steamer. 10 giờ tàu chạy qua bến Dighat-Ghat. Về đến đây, bao nhiêu sự mỏi mê mấy ngày đường sương tuyết đều đổ trút xuống sông Gange, trong mình nghe nhẹ nhàng khỏe khoắn.
Tàu Sampan chạy tới bến 11 giờ 15. Lên xe hơi lại gare Patna Junction.
12 giờ tới gare Sumpur thì đạo hữu Phước-kiến từ giã xuống xe đi Grawpur đặng đi viếng Kusinagar.
Còn lại đạo hữu Losang và bần-đạo đi thẳng về Gaya, lối 3 giờ chiều, mừng húm, mướn xe Tâm-tâm đi vào thành phố, xơi cơm tiệm vì đói quá, trải qua hai ngày ăn bánh bột nướng theo quán dọc đường, rồi lên xe về thẳng Phật-đà-gia đã 5 giờ chiều, giá xe 10 anna.
Thuở nay từng nghe kinh nói Xá-lợi, chớ nào thấy hình trạng. Nay đặng lễ bái và thấy đặng, thỉnh đặng mới biết thật rất hữu hạnh. Khi thỉnh cầu Xá-lợi thì xem chẳng đặng rõ, bởi trong hang tháp, bây giờ về Phật-đà-gia, đem Xá-lợi để vào hộp tử tế, mới thấy rõ ràng hào quang ngời chói, màu hồng bạch tốt tươi, dầu cho ngọc dồi cũng không tày. Vật vô giá quí thay ! Đó là nhơn duyên đặng Xá-lợi đã tường thuật trên. Vì khi biệt Nam-Việt là chỉ ý muốn khảo cứu Phật đạo Tây-thiên, chớ không có cái hạnh nguyện nào về sự cầu Xá-lợi hay là trông mong đi tham cứu Phật đạo ở Tây-thiên. Đó là sự tình cờ, bất cầu tự-chí, hạnh-phúc toàn cõi nước Việt-nam, nên mới đặng như vậy.
Ngày 11 Février 1936 – ngày 19-1 âm-lịch.
Đã quá mười trăng, dung thân nơi Tăng già, tại Lộc-giả-viên thuộc thành Ba-la-nại. Tăng già nầy có trên vài chục tăng chúng, gốc của Đại-Bồ-đề hội (Maha-Bodhi Société) lập chùa hiệu “Mỹ-la-càn-dà-cu-chi” (Mulaghandakutti Vihara). Đã đặng tường lãm sở hành chi đạo nội, ngoại, hữu, vô của nhà Tăng-sư tại đây ; đó đã phỉ nguyện rồi một việc.
Bần đạo nhờ hội cho giấy đi nhiễu và lễ bái, cúng dường các nơi Phật cổ-tích trải ba tháng có dư, đi cùng mấy chỗ Thánh-địa như là : Ca-bì-la-quốc, viếng vườn “Long-bỉ-nhi” (Phạn ngữ Lumbini) là nơi Phật mẫu May-da hạ sanh Phật tổ. Chỗ nầy cách thành Ba-la-nại Lộc-giả-viên không biết mấy dặm, đi xe lửa Grand express (Đại-tốc-hỏa-xa) hai ngày tới nơi, rồi đi bộ một ngày, vì không có đường xe hơi, xe ngựa, mới tới nơi. Nền xưa tích cũ, trụ đá đời vua A-sô-ca còn đứng vững. Chánh phủ Ăng-lê sùng-tu lại rất tử-tế vì ngoại-quốc chư-tăng và trần-tục hằng du-lịch. Cách Ca-bì-la-quốc đi nửa ngày xe lửa tới Tăng-già Da-kỳ-thọ Cấp-cô-độc-viên (Phạn ngữ Sarawasti). Tại đây có cây Bồ-đề của Tổ-sư A-nan-đà, cũng còn sung túc nhành lá và nền cũ tích xưa vẫn còn, có lính canh gác. Cách Cấp-cô-độc-viên cũng nửa ngày xe hỏa, tới Cu-chi-na-thành Mã-lại-quốc là nơi Phật Đại-niết-bàn (Phạn ngữ Maha-Nirvana), chỗ nầy có tháp lớn lắm, có chùa trên nổng(1) rừng Song-thọ, có lên cốt Phật nằm trở đầu về hướng Bắc. Cách chùa chừng ba bốn ngàn thước là nơi thiêu Xá-lợi. Bần tăng có thỉnh chút ít tro nơi ấy đặng làm vật kỷ-niệm. Chư tăng-sư các nước đồng đi đây, đều có thỉnh tro ấy cả. Chỗ nầy xinh đẹp, phong cảnh hơn hai chỗ trước và Chánh-phủ chỉnh tu lung hơn, canh gác cách nghiêm hơn bội phần. Cách đây ba ngày xe hỏa là Bồ-đề-thọ, Phật-đà-gia tháp (Phạn ngữ Bodh-Gaya) hay là Bouddha Gaya, cách thành Đà-gia sáu ngàn thước (Gaya Ville). Chỗ nầy nền xưa tích cũ lớn hơn hết và còn tốt đẹp, ít hư-hao. Chánh-phủ giao cho Đại-bồ-đề hội bồi bổ quản xuất. Bần-đạo ở đây gần ba tháng lễ bái cúng dường và công quả chút ít, hằng ngày tụng Pháp-hoa kinh dưới cội Bồ-đề, dưới cội Bồ-đề có thạch-tọa của Phật tổ xưa tọa đạo tràng, nhành lá sung nẫm lắm. Cách đây đi xe hoặc đi tiểu-hỏa-xa nửa ngày thì tới Na-lan-dà Đạt-ma-gia, nền xưa tích cũ rộng lớn, xưa đức Tổ-sư Huyền Trang học đạo và thỉnh kinh tại đây, chư La-hán Tổ-sư xưa ba kỳ đại hội tại đây mà diễn dịch tam-tạng : kinh, luật, luận. Cách đây năm sáu ngàn thước là Già-da-dị thành, kinh đô vua Bình-bí-sa-vương (Phạn ngữ Radjagriha-Bimbisara). Non Linh-thứu bao quanh kinh-đô, có động Kỳ-xà-khốt-sơn rộng lớn (Phạn ngữ Griddhsa Khutta). Tàu gọi Linh-thứu-lảnh. Núi thấp như núi điện Tây-ninh, cách thành lối năm cây số, trèo lên non Kỳ-xà thì có đường xưa Phật nhập thành bị Đề-bà-đạt-đa xeo đá hại Phật. Đá lở khối to lấp đường, bây giờ cũng còn y nguyên mấy khối lớn nhỏ nằm đó, bần đạo bắt động tâm thương Phật phút sa nước mắt. Chỗ kinh thành nầy phong cảnh rất đẹp, có khe nước nóng, có mội(1) nước lạnh, có hòn hỏa-diệm ; chỗ nầy nền xưa tích cũ vẫn tiêu-điều, chỉ còn nhà tịnh-thất Phật-tổ mà thôi. Chánh phủ Ăng-lê chăm nom sửa soạn tại Đạt-ma-gia Na-lan-đà lung lắm, sạch sẽ ; vô cửa phải mua giấy nhập môn, mỗi người hai cắc, khi đi viếng thì có lính theo sau lưng, nghiêm nhặt hơn hết ; vì chỗ nầy nhiều món cổ-tích của Phật-đạo. Gần Nalanda có nhà Cổ-viện, đến đó trình giấy mua tại Nalanda thì mới mở cửa cho vào xem. Ôi ! nhiều món cổ-tích, y, bát, hình tượng Phật và chư Bồ-tát, Thinh-văn. Hình đức Di Lạc đẹp đẽ lắm, trang-nghiêm y-phục, chớ không phải như của Tàu lên cốt mập to, bụng lớn vậy. Hình cốt đức Văn Thù giống như cốt đức Di Lạc. Tại Thiên-trước chỉ có mấy chỗ đó là Thánh-địa mà thôi. Bần tăng đã nhiễu khắp và lễ bái, cúng dường.
Cách Bồ-đề-thọ chừng sáu, bảy ngàn thước là rừng U-du-e, chỗ Phật-tổ lục niên khổ hạnh (Phạn ngữ Ourouel). Và cách Bồ-đề-thọ hai, ba ngàn thước là vườn của cô Su-gia-ta (Sugata) là người con gái dưng sữa cho Phật tại cội Ta-la-thọ. Cách cội Ta-la vài trăm bước là Bồ-đề-thọ, cây Ta-la-thọ không còn.
Ngày 11 Février 1936 – ngày 19-1 âm-lịch.
Nay là ngày bần đạo gởi thơ xin phép để bước đi lên miền Tây-tạng, theo chưn tăng-sư lama Tây-tạng, xuống Phật-đà-gia cúng dường. Trọn mùa lạnh bốn tháng, họ ở tại hội Đại-bồ-đề, nên dễ làm quen với các ổng. Theo đoàn hiệp chúng tăng lama mà đi thì dễ, sẽ vô chướng ngại.
Vinalananda Essistint Secretary – Maha Bodhi Society
4A College Square
Calcutta
Master and Secretary,
Yesterday I returned from Nepal selfly. Though the journey was interesting somewhat difficult. Now I am intending to visit Tibet with Tibetain lama who is going there.
I hope you will kindly permit me to go there. I am doing well. Hope this will find you in sound health.
Yours obediently, yours sincerely.(1)Chụp hình dưới cội Bồ Đề.(2)
Ngày 12 Février 1936 – ngày 20-1 âm-lịch.
Bữa nay lấy hình và kiến. Đạo hữu Dhammajoti kỉnh ảnh làm kỷ niệm.
Ngày 13 Février 1936 – ngày 21-1 âm-lịch.Hình chụp với đạo hữu Dhammajoti.
Ngày 15 Février 1936 – ngày 23-1 âm-lịch.
Đầu non tuyết đóng đá thoa vôi.
Hạnh gặp chơn tu nhập định ngồi.
Trên mặt gương lành bày mấy nét.
Trước đơn bần đạo vẻ thương ôi ! (Lễ ba hồi)
Thiên nhiên đoạt lý luân hồi quả.
Tục lụy trưng duyên đoạn nghiệp nhồi.
Hi-mã mách đường tầm Xá-lợi.
Bái từ Đại-đức nguyện như lời.Ngày 16 Février 1936 – ngày 24-1 âm-lịch.
Học tiếng Tây-tạng.
Ngày 17 Février 1936 – ngày 25-1 âm-lịch.
Học tiếng Tây-tạng.
Ngày 18 Février 1936 – ngày 26-1 âm-lịch.
Học tiếng Tây-tạng.
Ngày 19 Février 1936 – ngày 27-1 âm-lịch.
Học tiếng Tây-tạng.
Ngày 20 Février 1936 – ngày 28-1 âm-lịch.
Học tiếng Tây-tạng.
Ngày 21 Février 1936 – ngày 29-1 âm-lịch.
Học tiếng Tây-tạng.[Hình dán tại đây đã hư.]
Ảnh nầy là ảnh ngàn xưa Phật Niết-bàn tại Cu-si-nại-thành. Từ Sarnath lên tới chỗ nầy cũng bằng Thủ-dầu-một lên Budop. Cũng đi xe lửa bằng đường đi xuống Bodhgaya. Chư tu-hành tại Ấn-độ thường khi mới vào tu thì hay ở tụ tập nơi Bénarès đặng ăn học, nghe thuyết pháp, đến khi đoạt đặng mùi mẽ cái Chơn-như rồi thì đi đến Bodhgaya mà Thiền-định, đến chừng lớn tuổi đồng đi đến Kusinara nầy mà lo tu tập đến tịch diệt. Ấy là kiểu tam thừa, ý tứ lắm :
Bénarès tiểu thừa. Bodhgaya trung thừa. Kusinara đại thừa.
Ký tên : Tạo.
Ngày 22 Février 1936 – ngày 30-1 âm-lịch.
Học tiếng Tây-tạng.Ngày 23 Février 1936 – ngày mùng 1-2 âm-lịch.
Học tiếng Tây-tạng.
[Hình dán tại đây đã hư.]
Ngày 24 Février 1936 – mùng 2-2 âm-lịch.
Học tiếng Tây-tạng.
[Hình dán tại đây đã hư.]
Ngày 25 Février 1936 – mùng 3-2 âm-lịch.
Tụng Pháp-hoa, Phẩm An-lạc-hành ngũ nguyện – 14 phẩm.
Trời nổi cuồng phong, xuy khứ chư trần cấu. Lá Bồ-đề rụng, chư tu-hành cập cư-sĩ lượm. Bần-đạo trong lúc tụng, lá nào rớt trên kinh và quanh chỗ ngồi thì lượm
Lá Bồ Đề.(1)Ngày 26 Février 1936 – mùng 4-2 âm-lịch.
Ngày nay bần đạo được thơ của Đại-bồ-đề hội vui lòng cho bần đạo đi Tây-tạng.
Copie bức thơ :
Recu letter Post. Card of many Master Rev. Sasanasiri Thero (Maha-Bodhi-Society – Sarnath (Benares))
Sarnath 24-2-1936
My dear Rev. Tao.
Many thanks for your kind letter. I am very glad to hear that you are in sound health.
If you intend to go the Tibet, you have my permission.
We are in sound health. I wish you success and every happi-ness.(1)
Ngày 27 Février 1936 – mùng 5-2 Bính-tý.
Ngày đầu khởi đi Tây-tạng (Tibet). Trước khi tạm biệt Phật-đà-gia, bần đạo lễ Phật, nhiễu Bồ-đề-thọ, kinh hành quanh tháp, đoạn lo cúng ngọ, dưng bát rồi, thì một giờ lên xe ngựa, tháp tùng một vị Lama-tăng, pháp danh Gava Sâmden,(2) cùng ba đệ tử của huỷnh :
1 Chamba Choundouss lama
2 Isê(3) lama
3 Isess Chamba
Đi ra Gaya thành. Đạo hữu : Dhammajoti, Karma và cư-sĩ Shananda đưa ra xe kiến.
Đến nơi, 3 giờ chiều. Lên Đại-tốc-hỏa-xa (Grand express) đi Calcutta. Giá xe ngựa 4A.2P – xe lửa 4R.7A.2P
[Hình dán tại đây đã hư.]
Ngày 28 Février 1936 – mùng 6-2 Bính-tý.
5 giờ sáng tới kinh-đô Ấn-độ là thành Calcutta. Xuống bến đò sở hỏa xa, đi qua thành phố, lên xe ngựa đi cùng lama đến nhà quen của huỷnh ngụ đó, tại đường Black-bursn Lane, Phear Lane ở theo đường Bow-Nazar, có đường xe điện đi Sealdah ; ngày nay lãnh chèque 193 rupee, đi dọc xuống tay mặt gặp đường Live nhà banque.
Xong, lại viếng chùa của hội Đại-bồ-đề, hiệu chùa là Sri-Dharmarajika Vihara.
Xin hườn(1) số tiền 13 đồng cho hội và gởi 10 đồng cho Dhammajoti.
Ông Chánh-từ-hàng viết một cái thơ gởi gấm bần-đạo cho ông quận Laden La(2) ở Darjeeling.Sardar Bahadur General S.W. Laden La.
“N” Building
Darjeeling
Dear Mr. Laden La,
I hope you have reached Darjeeling safety and that you are in the best of health.
The bearer Rev. Tao who comes from Annam stayed in our temple at Sarnath for several months. He is desirous of visiting Tibet. I understand that he has made arrangements to accompany a party of pilgrims. I facilitate his going to Tibet by helping him to obtain necessary permission. I shall also appreciate much if you will intro-duce him to one or two of your friends there. He is a very devout Buddhist monk and during his stay with us, every body become fond of him. So you can easily recommend him to your friends.
Your sincerely.(1)Mua film 5R.10A
Ngày 29 Février 1936 – mùng 7-2 âm-lịch.
[Hình dán tại đây đã hư.]
Ngày 1er Mars 1936 – mùng 8-2 âm-lịch.
Ba bữa rày ở tại nhà ông Liu-Ming, 88 đường Phears tục kêu Chuna-gali. Ông là người Quảng-đông, có vợ Tây-tạng, có năm người con : hai trai ba gái. Ban đầu còn bỡ ngỡ, ngày thứ ba nội nhà đều vui vẻ yêu kính, chuyện vãn. Khi thì tiếng Hindou, khi Anglais, khi Quảng-đông. Ông, ý ít kính mến Lama-tăng. Bữa nay 1er Mars, đạo hữu lama Samdhen đi Burma cùng lama đạo hữu Guêshiêss, huỷnh đi thỉnh cốt Như-lai đặng đem về Tibet. Bần đạo ở lại một mình tại nhà Liu-Ming đại nhơn. Bày coi tay và khuyên nhủ ông tu cư-sĩ. Ông bèn vui lòng chịu. Bà chủ mừng quá. Từ đây nội nhà đều yêu kính bần-đạo gia bội. Bảo ông mỗi năm đi Phật-đà-gia một kỳ, cúng dường cầu phúc cho hậu-lai.
Chờ lama Choundouss đi Bodh-gaya trở lại sẽ hiệp đi Darjeeling. Còn Samdhen sẽ về và đi Darjeeling sau.Ngày 4 Mars 1936 – 11-2 âm-lịch.
Ngày nay huynh lama Chamba Choundouss ở Gaya về lối 10 giờ mơi.
Huynh nói mai 8 giờ tối sẽ đi Ghum Darjeeling.Ngày 5 Mars 1936 – 12-2 âm-lịch.
Từ giã gia quyến ông Liu-Ming đi Darjeeling.
Mua souliers(1) 2R.8A.
7 giờ rưỡi tối đi xe kiến ra gare. Thầy Lawrence đưa ra gare Calcutta Nord. Mua giấy đi Siliguri 5R.14A.3P.Ngày 6 Mars 1936 – 13-2 âm-lịch.
Sáng bữa nay 6 giờ, đại-tốc-hỏa-xa đến gare Sili-guri, sang xe lửa nhỏ mua giấy đi đến thành Ghum (Ghoom) 1R.6A. Có một thầy xét hành lý. Thấy trong đồ ngủ có một cái thùng xăng không, tưởng có đồ lung đòi cân, tôi mở ra xem thiệt thùng không mới chịu thôi. Huynh Chamba Choundouss lama có cái rương phải đóng 1R.4A.Xe lửa nhỏ 7 giờ rưỡi chạy. Cách ba gare thì xe khởi sự bò lên núi Hymalaya. Tới gare Chunbhanti (élévation 2.208m). Tới gare Tindharia (2.822m). Tới gare Mahanadi (4.101m). Tới gare Kursiong (4.864m) là 11 giờ trưa.
[Hình dán tại đây đã hư.]
Gare nầy lớn, có phố xá, có công sở chánh phủ, đủ cuộc, có nhà Tham-biện ở trên đảnh núi. Từ đây dọc đường nhà cửa lầu đài đông đảo. Cuộc vĩ đại của Chánh phủ Anglais thấy càng thêm kính phục. Tới gare Tung (5.656 hắc), phố xá đẹp đẽ, có nhà giây thép. Tới gare Sonada (6.552 hắc), phố xá chút ít. Một giờ chiều tới gare Ghum (7.407 hắc). Hắc là thứ thước họa đồ, Anglais dùng thước 1 hắc nầy mà đo núi, kể ra 2 hắc là 1 thước Ăng-lê. Từ thành Siliguri tới chưn núi lên tới thành Ghoom trải qua 15 ga, mỗi gare đều có dựng bản ghi bề cao mỗi gare nơi thành lớn. Tuy trên núi mà thành thị không kém sút đất bằng, thiệt Chánh phủ Ăng-lê khéo tạo thành non thị cho khách ăn chơi đục nực lúc mùa hạ nơi Ấn-độ. Mỗi thành có đủ thức dụng cho khách du.
Tới Ghoom, xuống xe vào phố ngụ của chư huynh lama, ăn cơm và nghỉ.[Hình dán tại đây đã hư.]
Ngày 7 Mars 1936 – mùng 14-2 âm-lịch.
Sáng, dạo phố xem thì phần đông dân Tây-tạng xuống ở, buôn bán lập sự nghiệp ở Ghum nầy. Thành phố cũng đẹp đẽ, có chùa Lama lớn đẹp, đang sửa soạn cúng rằm, hát chập, lễ Phật, xem chùa.
Từ thành Ghoom nầy thì đã thấy lạnh rồi, mùa tuyết hằng ngày giá trong trắng núi. Lối tháng nầy ở Calcutta đã khởi nực mà tại đây còn giá tuyết lấp non, thiệt cái lạnh không thể nói. Huynh Lama nói : Lúc nầy tuyết đóng còn cao quá, thế đi bất tiện nên tạm nghỉ tại Ghoom và thành Darjeeling một tháng.
Ngày 8 Mars 1936 – 15-2 âm-lịch.
Tại Ghoom lúc 7 giờ sáng trời mưa. 8 giờ rưỡi hết mưa. 11 giờ các quan Ăng-lê tề tựu tại chùa Ghum-pa có Laden-La chủ sự tiếp rước, dự cuộïc cúng rằm và hát rằm. Bần-đạo chụp ảnh nội cuôäc. 12 giờ khởi hát rằm, mang mặt nạ múa. 1 giờ rưỡi rồi cuộc. Bần-đạo trao thơ của Chánh-từ-hàng cho Laden-La. Xem thơ rồi, bảo chừng Samdhen về Ghoom thì bảo đi cùng bần đạo qua Darjeeling. Cúng hội 5 rupee.
Hình tại thành Ghoom.(1)Ngày 9 Mars 1936 – 16-2 âm-lịch.
Ngày nay lễ của đạo Hindou. Cúng kiến ca hát, đoàn nầy lũ kia cầm cờ đi chật đường, kèn trống ca hát, tục cũng lạ, lấy son vãi người nầy người kia mặt mày đầu cổ đỏ lòm cũng để vậy, gọi là tốt. Lại có kẻ dùng ống thụt, thụt nước màu kẻ khác, quần áo bị màu đủ thứ.
Chiều đi dạo phố cùng đạo-hữu Losang, phút gặp một cô Lamani Garnyen Tharchen, mời vào tiệm cúng dường trà sữa và xin cúng dường một bữa ăn ngày mai cũng tại tiệm nầy.[Hình dán tại đây đã hư.]
Ngày 10 Mars 1936 – 17-2 âm-lịch.
Đi ăn cơm của cô Lamani Garnyen Tharchen cúng dường ở Bhudhism Min.
Giông gió cả ngày, lạnh thấu xương.
Khởi sự bữa nay mỗi sớm mơi mua 2 sous sữa bò tươi.
Có quen với hai vợ chồng người buôn bán tại Ghoom, vợ chồng còn nhỏ, tác lối 25 tuổi. Trong mùa đông rồi, hai ông bà có đi cúng dường tại Phật-đà-gia, ở tạm tại nhà công sở của Hội Đại-bồ-đề, trên hai tuần lễ, nên biết bần-đạo. Bần-đạo lại tiệm mua 2 cắc khoai lang tây và cà-tomate. Hai ông bà vừa bán vừa cho thêm.Ngày 11 Mars 1936 – 18-2 âm-lịch.
Ăn bánh mì.
Ngày nay cũng còn giông gió, ví bằng không có giông gió ấy thì Ghum nầy lạnh cũng như giữa mùa đông ở Phật-đà-gia, thì cũng dễ chịu.
Mượn huynh Losang đi mua giùm một cái quần, vì cái chăn mỏng mà thêm bị gió lạnh lòn vào, lạnh quá, mền cự không lại. Mua đặng một cái quần nỉ 2 rupee và huynh Issê lama, biểu người Tibetain đem áo lại, có huynh Losang xem và mua giùm 6R.Ngày 12 Mars 1936 – 19-2 âm-lịch.
Không đi đâu. Học tiếng Tây-tạng.Ngày 13 Mars 1936 – 20-2 âm-lịch.
Ngày nay mượn huynh Champa Choundouss, sẵn dịp đi Darjeeling thì rửa hình giùm, giá rửa 4 anna, in ra 8 tấm hình là 8 anna, cộng là 12 anna.
Lại quán quen, thì thấy có một mình chú quán ngồi, hỏi có me không ? Thưa không. – Thấy thứ như cỏ khô, lấy nhai thử mới rõ cải xập xại phơi khô, bèn mua 2 xu. Chú lấy giấy gói trao tay và trả 2 xu lại, nói chút đỉnh, xin hộ thầy. Hoan-hỉ ! Chú là con người nghiệp chủ.
Cha của chú tên M. G. Ishen
Chú tên Isering Wangdi.
P. O. Ghoom
Darjeeling.
Hồi sáng, huynh Champa Choundouss cho hay rằng : Mốt, ngày 16 tháng 3 sẽ có Đại đức Baha Lama Dromo Gheshay(1) ở chùa Kursiong trở về chùa Ghoom (hai cảnh chùa của ngài cả). Chư vị lama sư đều đi xa 2 km tiếp rước. Vậy thầy thay mặt chư Bí-sô M. B. S. (Maha-Bodhi-Société) đi đón rước ngài.Ngày 14 Mars 1936 – 21-2 âm-lịch.
Sáng đi dạo trên con đường trên đảnh, theo con đường đi xuống chợ. Trên cao dòm xuống thấy cảnh thành thị rất lịch và phía trên đảnh cũng có nhà cửa, lầu đài. Đường nầy là đường xe hơi đi Darjeeling.
Chiều 2 giờ đi dạo cũng trên con đường trên đảnh song đi ngả trên. Tới chỗ hàng rào sắt, xem ra là Đất-thánh Thiên-chúa. Đi tới dọc theo đường, lúc xem đảnh khác, lúc coi lầu đài nhà cửa theo đường và trên đảnh cao nguy nga. Đi tới nhà thương, trại lính, nhà quan binh, nhà dây thép lớn, sân banh, nhà thờ. Trở về, thấy đờn bà Tây-tạng kéo xuống cản đường, hò lý vui cười : đầy tâm thương đồng loại, cực khổ không hay. Về tới phố 4 giờ 50.Ngày 15 Mars 1936 – 22-2 âm-lịch.
Đi chợ mua hai bắp cải và xì yểu 14 anna. Đặt 2 anna bánh bao chay ở market (chợ).Ngày 16 Mars 1936 – 23-2 âm-lịch.
Sớm mơi nầy, bần-đạo mời hai vị lama : Issê lama và Isess Champa, đồng ở một phố, đi ăn bánh bao, uống trà còn huynh Losang mắc có khách lo nướng bánh đãi khách.
Ăn rồi về lo để film vào máy chụp ảnh, đoạn lo sửa soạn đi rước Đại-đức Baha-Lama Dromo-Gheshay.Ngày 17 Mars 1936 – 24-2 âm-lịch.
Bữa nay thức sớm, trà nước xong, huynh Isess lo nấu hai nồi cơm, đặng cúng dường chư tăng tại Chùa.
9 giờ cơm xong, bần đạo xuất 1R mua beurre Tây-tạng, nho khô, đường cát đặng trộn vào cơm và nị Tây-tạng với sữa tươi đặng nấu trà thục kiểu Tây-tạng. Xong xuôi, một người một sợi vải lược anh lạc bỏ túi, bốn anh em : ba Tây-tạng cư-sĩ với bần-đạo đồng bưng thẳng lên chùa. Huynh Choundouss nói xong mới dưng cơm cho Hòa-thượng và chư Tăng. Vải lược dưng Hòa-thượng, ngài choàng cổ mỗi người, chụp hình mặc Tây-tạng phục.Ngày 18 Mars 1936 – 25-2 âm-lịch.
Bữa nay không làm gì. Sớm mơi trà nước xong xuôi, rảnh viết thơ cho ông Giáo-sư ở Sarnath, song chưa đặng sạch tiếng Ăng-lê nên còn xem lại. Kế có huynh Tsering Wandi lại xin cho xem hình chụp ngày hát rằm tại chùa.
[Hình dán tại đây đã hư.]
Coi rồi huỷnh cũng đưa xem hình của huỷnh chụp tại Bodh-gaya.
[Hình dán tại đây đã hư.]
Chiều 3 giờ, lại phòng huynh Losang, huỷnh nói mai 19 tháng 3 tôi đi Kalimpur. Bần-đạo nài huynh đồ Nepal 5R.Ngày 19 Mars 1936 – 26-2 âm-lịch.
Vô sự.
Sở phí tổng cộng :
Xe ngựa ra Gaya 0R.04A.2P
Xe lửa Gaya Calcutta 4 .07 .2
Trả cho hội M. B. S 13.
Trả Dhammajoti 10.
Mua film và sở phí xe 6.
Xài tại Phears Lane 1.
Souliers et jarretière 3.
Xe kiến, mua giấy đi Siliguri,
coolie 7.Ngày 20 Mars 1936 – 27-2-â.l.
Vô sự.
Giấy xe đi Ghoom 2.
Dưng cho hội Darjeeling 5.
Sở phí tại Ghoom 14 ngày 4.
Quần áo Tây-tạng 8.
Rửa hình 1.
Hùn cúng dường phạn thực
chư Lama 1.
Nài đồ Nepal của Losăng 5.
Tổng cộng ngày 27-2-Bính Tý : 71.RupeeNgày 21 Mars 1936 – 28-2 âm-lịch.
Ngày nay huynh Samdhen về tới Ghoom 10 giờ mơi có thỉnh đặng bốn cốt Phật-tổ : 150R, 25R, 23R, 28R.Ngày 22 Mars 1936 – 29-2 âm-lịch.
Ngày nay huynh Samdhen đi Darjeeling trở về, phát tiền cho thiện nam tín nữ : theo phép Lama đi xa về thì bổn đạo tới dưng trà bánh lễ mừng thì Lama đáp lễ lại vì không thể đãi dọc đường. Huỷnh mua hộ cho bần-đạo hai bông cải.
1 giờ lại nhà huynh Tsering viếng, ông già huỷnh đãi trà English, sữa và bánh mì nướng. Nhưng từ chối việc ăn, hoan-hỉ uống trà. Rồi chụp hình huynh Tsering. Kiếu về.
3 giờ trời mưa tuyết.Ngày 23 Mars 1936 – mùng 1-3 Bính Tý (thiếu).
Tục mùng 1, người Tibetain đi chùa, già trẻ bận đồ sạch sẽ, dắt vợ cõng con, đem lễ vật đến chùa.
Thấy quán có bán me, mua 1 xu, nấu canh chua với bắp cải. Lâu ngày không dùng nó.
Sa mù, mưa tuyết tối ngày rỉ rả.
Losăng đi Kalimpur về, lại thăm huynh Samdhen.[Hình dán tại đây đã hư.]
Ngày 24 Mars 1936 – mùng 2-3 âm-lịch.
Ngày nay mua 2 anna khoai củ hành, 2A bột cà-ri, 1A đường đỏ.
Viết thơ cho Sư-cả Sarnath.
4 giờ có Hồi tới tính toán dùng trà tới 7 giờ, dùng nước cơm rượu như trước, 11 giờ rã hội.Ngày 25 Mars 1936 – mùng 3-3 âm-lịch.
Sớm mơi nầy, Hồi chùa mua thịt đem dưng cho Baha-Lama và chư tăng : một đùi trừu dưng Sư-cả, thịt sườn dưng chư tăng.
9 giờ kéo nhau lên chùa. Qua 1 giờ hội nữa, một thùng hèm cơm rượu nữa. Hồi nầy lo quyên tiền cất nhà thiền Dramsola. Bần-đạo dưng cúng 5R.
Huynh Samdhen nhức đầu và sình ruột. Bần-đạo gầy lửa cho huỷnh hơ lạnh.Ngày 26 Mars 1936 – mùng 4-3-â.l.
Sớm mơi thức dậy, huynh Samdhen còn nghỉ. Thấy huỷnh đau, thương thân nhau và cũng sợ trễ nải ngày giờ. Lúc huỷnh thức hỏi bớt không ? – Bớt. – Mừng, bưng hỏa lò lên cho huỷnh hơ lạnh. Có người đến hộ huỷnh hai ổ bánh mì, huỷnh bèn chia cho bần-đạo một ổ. Hoan-hỉ.
Huỷnh nói đợi lúc tuyết rã, đi mới tiện, lúc nầy tuyết tới gối. Bần-đạo nói : Huynh biết, huynh điều đình.
Tối họ còn hội và uống nước hèm.Ngày 27 Mars 1936 – mùng 5-3-â.l.
Hai vị Lama tụng kinh với Samdhen cả ngày. Huynh Choundouss làm bánh bao, bần-đạo cũng làm bốn cái nhưng chay.Ngày 28 Mars 1936 – mùng 6-3-â.l.
Không chi lạ. Hai người đánh lúc lắc đổ hột trước đơn bần-đạo. Ngày nay từ chối trà Tây-tạng, dùng nước lạnh.
Chiều sa mù cách 20 thước không thấy nhau.
8 giờ mưa lớn.Ngày 29 Mars 1936 – mùng 7-3-â.l. Dimanche.
Sớm mới tụng kinh rồi cúng nước. Điểm tâm bánh mì nước lã rồi, đi lại thăm Losang. Chuyện vãn tình đời tốt xấu. Bần đạo khuyên đừng nói sự người. Khi đang nói chuyện bỗng có Lama đi quyên tiền làm chùa có Choundouss dắt. Bần đạo thấy Losang cúng hai cắc, thì cũng cúng hai cắc.
Mưa… !Ngày 30 Mars 1936 – mùng 8-3-â.l. Lundi.
Nấu cà-ri với cà dái dê.
Như thường không chi lạ.
Mưa ! …
Học tiếng Tây-tạng.
1 trăng ga là 2 annas Englis.
Karnga = 2 annas 1 Kargna
Giôgăng = 4 annas 1 GiôgăngNgày 31 Mars 1936 – mùng 9-3-â.l. Mardi.
Bữa nay mua hai bắp cải bông 6 xu, một bó rau húng 1 xu. Gạo 1R.
Học tiếng Tây-tạng.Ngày 1er Avril 1936 – mùng 10-3-â.l.
Vô sự. Mượn huynh Tsering Wandi chụp bán-ảnh và luôn dịp huỷnh đi Darjeeling gởi rửa film.
Huynh Samdhen hộ hai khoanh bánh mì.
Rượu xăng là cơm rượu nếp hồng. Tây-tạng gọi Trô.
Học tiếng Tây-tạng.[Hình dán tại đây đã hư.]
Ngày 2 Avril 1936 – mùng 11-3-â.l.
Sớm mơi chiên cơm nguội ăn lót lòng. Mua vài cắc bánh hộ huynh Samdhen vì y hộ cho bần-đạo hoài. Bánh và hàng bông 5 cắc (anna). Gởi huynh Tsering mua 2 annas nhang và gởi tiền rửa hình. 1R.2 xu.
10 giờ mưa tới tối – mưa tuyết.Ngày 3 Avril 1936 – 12-3-â.l.
Huynh Choundouss lấy một tấm hình.
Huynh Tinzine Zapha lấy một tấm hình.
Bần đạo lấy tấm film chụp với huynh Samdhen tại Bodh-gaya.
Bữa nay gởi thơ cho đạo hữu Dhammajoti.[Hình dán tại đây đã hư.]
Ngày 4 Avril 1936 – 13-3-â.l.
Sớm mơi sa mù, chiều mưa tuyết lớn lắm. Bữa nay mua hai cắc bánh mì, hộ Samdhen phân nửa. Một bắp cải 5 xu, hai chiêm đường, ba chiêm khoai.Ngày 5 Avril 1936 – 14-3-â.l.
Bữa nay tụng kinh mơi rước vía. Samdhen hộ bánh mì. Xong việc. Mua bắp cải khoai lang, dầu, cà-tomate 3 cắc. Nấu cà-ri chay hộ nội bọn năm người.
Mấy ngày nay rảnh, chiều bần đạo học thêm tiếng Tây-tạng.Ngày 6 Avril 1936 – 15-3-â.l.
Tụng kinh. Điểm tâm cơm chiên. Đoạn lại viếng Losang, nài 8 rupee-relic (reste). Trả cục đá lại cho huỷnh và trả 3 rupee lại.
Mua hai bắp cải bông 4 xu, 1 xu cà-ri bột và và 2 xu cà-tomate, nấu ăn ngọ, rồi dessert(1) 2 xu cốm nổ.Ngày 7 Avril 1936 – 16-3-â.l.
Đi Darjeeling và gởi ba cartes postales cho anh mười. Lại quận Laden La, ngài mắc đi làm việc tới 3 giờ mới về nhà. Ba huynh đệ : Samdhen, Choundouss và bần-đạo chờ từ 9 giờ mơi cho tới 6 giờ chiều mới ra mắt ngài đặng. Thầy ký vào nhắc ngài thì ngài cho mời bần-đạo vào, ngài hỏi chừng nào đi Tibet ? ¬– Tôi không hiểu, chừng nào Samdhen lama đi thì tôi đi với huỷnh. Ngài hỏi có Samdhen đi đây không ? – Có. – Kêu người vô. – Samdhen vô bureau(2) thì ngài ký gởi tôi.
Mua carte postale 1R.
- một hộp fromage 1R.
- cò, bao thơ, giấy 1R.
Xe hơi 1R.
Sở phí và đóng giày 1R.Ngày 8 Avril 1936 – 17-3-â.l. Mercredi.
Sớm mơi mua hai ổ bánh mì 2 anna. Huynh Sam-dhen một ổ, bần-đạo một ổ, ăn lót lòng với nước xì yểu. Trưa mua một bắp cải 6 xu, 1 xu cà tomate. Nấu chay ăn ngọ.Ngày 9 Avril 1936 – 18-3-â.l. Jeudi – Thursday.
Mua hai boysa sữa, nấu cơm nguội với sữa ăn lót lòng, hai pacs cà tomate và me, một pic dầu. Nấu canh chua với cải bắp. Ăn ngọ.
Chiều 7 giờ có hội Nam-nữ tựu lại phố cúng dường tùy hỉ cho huynh Samdhen vì gần tạm biệt về Tây-tạng. Họ cũng uống nước cơm rượu như mọi lần. Ca hát cùng nhau.Ngày 10 Avril 1936 – 19-3-â.l. Vendredi – Friday.
Bữa nay thức dậy cũng lo điểm tâm cơm chiên. Rồi 8 giờ rưỡi nấu cải xập xại với với bắp cải để ăn ngọ.
Đoạn thấy huynh Samdhen đem vô một đôi hia Tây-tạng bảo tôi mang thử và nói hia nầy (clâm) tốt song phải sửa lại tấm da bàn. Chừng qua Kalimpur sẽ may lại. Kế một lát 9 giờ huỷnh bảo lo ăn cơm rồi xe hơi lại đi, bữa nay tốt ngày. Tôi không hiểu đi đâu, song cũng cứ việc nghe lời. Huynh Choundouss một chập cũng bảo vậy và nói đi xa hai cây số, đem chén theo uống trà. Ngỡ đi rước ai.Ngày 11 Avril 1936 – 20-3-â.l. Samedi – Saturday.
Sớm mơi dùng cơm nguội với nước trà điểm tâm. 8 giờ rưỡi lo đi lên chùa đảnh lễ tạm biệt đức Baha Lama và chư đại chúng. Ngài có hộ bần đạo 4 rupee và một gói thuốc với một vị Guru bằng mộc hương. Sự đối đãi rất mật thiết, nghĩ càng kính cảm đức của ngài.
Lấy năm cái y bao cốt Phật vào thùng cho êm, vì đệ(1) về tới Tây-tạng.Ngày 12 Avril 1936 – 21-3-â.l. Dimanche – Sunday.
Bữa nay vô sự. Huynh Isess cho một cái mão lama cũ, bần đạo tháo chỉ và xin vải may lại, trở trái làm mặt. Từ sớm mơi tới chiều đã rồi. Tối tụng kinh cầu chúc, nguyện cho chư thần và âm linh nơi thành Ghoom vì trên một tháng ngụ tại đây, nhờ chư thần ủng hộ Phật pháp và thính kinh, bần-đạo đặng an ổn thân tâm.Ngày 13 Avril 1936 – 22-3-â.l. Lundi – Monday.
10 giờ mơi đi Kalimpong, có chư Tibetain cư-sĩ đến dưng anh lạc, chúc bình an tất đường. Đi tới 6 miles (dặm) có quán xuống xe hơi, vì xe hơi hết đường. Đem hành lý xuống, trả tiền xe hơi, vào quán 12 giờ, đồng dùng trà sữa, rồi mướn coolie vác đồ hành lý đi bộ, lên đèo xuống ải, trải qua mấy gộp,(1) phần xuống ải thì nhiều, đi 30 cây số ngàn tới 4 giờ tới Traisitra mới có đường xe hơi, vào tiệm dùng trà rồi mướn xe hơi đi, 7 giờ tới Kalimpong. Vào nhà người Tây-tạng sửa đồng hồ, để đồ hành lý, và dùng trà với bánh bao ngọt. Đoạn 8 giờ rưỡi lại phố quen nghỉ, ba huynh đệ : Samdhen, Isess và tôi.Ngày 14 Avril 1936 – 23-3-â.l. Mardi – Tuesday.
Khuya thức dậy nghe gân cốt mỏi mê, đồng hồ gõ ba tiếng. Thiền một chập, tư duy về cái xác phàm đối với xác kim tiên, ngán thay cái xác tứ đại đi nửa buổi ít chục cây số đau lên đau xuống, kim thân nháy mắt triệu dặm và vẫn thường tồn.
6 giờ hai huynh thức, Isess nấu nước, cùng nhau rửa mặt súc miệng rồi, dùng trà sữa và bánh mì, đợi tới 10 giờ mà Issê và Choundouss chưa thấy về. Bốn giờ rưỡi chiều về tới. Cô bổn-đạo Iang-Iong-Goay. No 4 Jokpa Shop, P. O. Kalimpong sai người hộ mô mô (bánh bao) cho hai huynh.
Viết liễn chữ hán.Ngày 15 Avril 1936 – 24-3-â.l. Mercredi – Wednesday.
Như thường. Sớm dùng cơm chiên. Trưa không ăn ngọ. Tùy theo chư lama vì không đi chợ đặng mà mua đồ nấu riêng, e chúng biết. Nên từ đây phải ăn chung cùng huynh Samdhen, huỷnh làm sao, cứ y vậy cho người ngoài không để ý. Mượn Choundouss mua một kiến màu có bao cản tuyết, một cái chén Tibet, cò thư 2A.2P.
Phần tôi mua đường, muối, đường đỏ, hộp quẹt cộng là 2R.7A. Phục lòng Issê.Ngày 16 Avril 1936 – 25-3-â.l. Jeudi – Thursday.
Sớm mơi mua bánh mì và sữa ăn chung : 4A.2P. Trải gan ruột với họ ít bữa. Điểm tâm rồi, lo nhựt ký ngày hôm qua. Kế cúng ngọ, ăn ngọ, nghỉ một chập, dậy lấy thùng xách nước, lau mình, phơi áo quần. Bữa nay nhiều khách. Có huynh lama quen tại Bodh-gaya cũng có đến và một cư sĩ quen tại Ghoom với một vị lama tại chùa đến vưng lễ tống lộ Samdhen.
Chiều mua 1A. dầu hôi.
Cộng sở phí = 71R. : 20-3-36
24R. 8A
95R. 8ANgày 17 Avril 1936 – 26-3-â.l. Vendredi – Friday.
Bữa nay mua 2A bánh mì thấu sữa và tomate. Có cô tiệm đồng hồ lại thăm. Cô nghe nói tôi đi Tây-tạng cô chắc, hít tỏ lòng thương người già cả. Đoạn cô nói lên Tây-tạng lạnh lắm, thầy phải may áo lạnh ở trong. Đoạn cô về, Samdhen nói phải may áo bằng nỉ đỏ flanelle(1) như áo tôi. Choundouss mua giùm 9A.2P. Huynh cư-sĩ may giùm, tiền may 6A. Sửa soạn mai lên đường.Ngày 18 Avril 1936 – 27-3-â.l. Samedi – Saturday.
Thức sớm, cơm nguội lót lòng. Bảy giờ chủ ngựa lại đem hành lý về trạm. Bần-đạo đưa Samdhen 10 rupee. Tạm biệt Kalimpong, chủ phố ngụ là Mr. Vétéri-naire Bhuton tên Nima Bhutia và lại tạm biệt cô tiệm bánh nước. Có huynh cư-sĩ em cô đưa lại trạm. Đợi sửa soạn ngựa, 8 giờ rưỡi đi, 11 giờ rưỡi tới chợ Arakara, vào uống trà, ăn củ tiếu (thu ba) và bánh bao. Chủ tiệm là bổn-đạo Samdhen, nên không lấy tiền, ăn rồi lên ngựa đi một đỗi, tới đường xuống, dốc lung, nên xuống ngựa đi bộ 12 giờ rưỡi tới trạm Pedong vào nghỉ.Ngày 19 Avril 1936 – 28-3-â.l. Dimanche – Sunday.
Samdhen bảo viết thơ cho Lawrence Esquire 88 Phears Lane Calcutta. Ba huynh đệ đồng chúc cả gia quyến bình an và cho hay hôm qua tạm biệt Kalimpong đi Tây-tạng. Năm giờ sáng ra đi, tạm biệt Pedong. Tám giờ tới chợ Chomth. Mười hai giờ tới trạm Rungling, nghỉ uống trà. Một giờ rưỡi đi. Bốn giờ rưỡi tới Linh-dam, nghỉ đêm.Ngày 20 Avril 1936 – 29-3-â.l. Lundi – Monday.
Sáng 5 giờ thượng lộ. Tám giờ tới Phadamcham. Mười hai giờ tới Zelum. Nghỉ uống trà ăn bánh. Tới Lundum. Bốn giờ tới Nadăng nghỉ một đêm. Chỗ nầy là ải chót địa phận Englis 60 cây số từ Kalimpong tới đó, nhiều lính nghi nan cho bần-đạo, xầm xì gọi Burma, coi bộ huynh Samdhen lo lắng lắm.
Đưa cho Choundouss 1 rupee, tiền trà bánh.
Tuyết có chỗ cao 0m,50 có chỗ tới 1m.Ngày 21 Avril 1936 – mùng 1-3 nhuần â.l. Mardi – Tuesday.
3 giờ thức, uống trà. 5 giờ đi bộ một đỗi, huynh Samdhen nói thôi hết lo, lánh đặng bọn lính Englis rồi. Đi riết tới 9 giờ tới Kobu, uống trà ăn bánh neo, chỗ nầy còn địa phận Englis. Một giờ tới trạm Ricanh-căng về địa phận Tibet, ải địa đầu nước Tây-tạng.
Mưa tuyết như cát. Trải qua núi tuyết lạnh lắm, đoạn xuống dốc núi mới tới trạm.Ngày 22 Avril 1936 – 2-3-â.l. Mercredi – Wednesday.
Sớm mơi 6 giờ chủ trạm Ricanhcăng đãi Samdhen và bần-đạo hai ly trà sữa ngọt và bột lúa mì rang. Đoạn 7 giờ rưỡi tạm biệt chủ trạm lên ngựa đi chừng hai cây số tới trạm Chima xuống ngựa và đem đồ hành lý vô nhà bổn đạo của Samdhen (vợ chồng già). Có một người lính tuần thành đến thăm, đoạn cơm nước, có hai người đờn bà lại dưng rượu và coi quẻ của Samdhen. Ngụ đây bốn bữa cho người ngựa khỏe xác. Đưa Samdhen 10 rupee đặng sở phí.Ngày 23 Avril 1936 – mùng 3-3-â.l. Jeudi – Thursday.
Ngày nay không chi lạ, huynh Samdhen lo việc bổn đạo của huỷnh. Còn bần-đạo lo học một hai tiếng Tây-tạng. Nay 9 giờ rưỡi tổng khậu(1) dưng cơm cho bần đạo, huynh Samdhen nói bọn tôi ăn bột sadou còn thầy ăn cơm. Cơm rồi lo phơi y phục.
Samdhen đặng thơ bảo Issê cụ bị ẩm thực đi đón thùng Phật tượng, huỷnh đi hồi sớm mơi sớm.Ngày 24 Avril 1936 – mùng 4-3-â.l. Vendredi – Friday.
Không chi lạ, bột nếp rang lót lòng, trà Tây-tạng qua buổi. Bắt chước xúc bột đổ vào miệng, bột khô khó nuốt, sặc một cái bột bay đầy tợ, mấy huỷnh cười ngất. Ăn rồi, giặt áo, nước lạnh như đá, hai tay tê tái như chết. Ăn ngọ 10 giờ. Bổn đạo tới cũng đảnh lễ Samdhen y như tục xứ ta. Samdhen sai huynh Choundouss đi may áo hột khóm chiều tối mới về. Bần đạo ở nhà lo phận sự.Ngày 25 Avril 1936 – mùng 5-3-â.l. Samedi – Saturday.
Không chi lạ, sớm điểm tâm bột nếp. Mười giờ cũng bột nếp. Hai giờ cũng bột nếp.
Ngày nay hết gạo, dùng bột. Chiều có một cô đem gạo Bhutan lại bán. Xứ nầy núi non nên lúa gạo kém lắm. Huynh Samdhen là người nhẹ trí, sợ bần đạo dùng bột sadou không đặng nên cứ hỏi : Lama chiếp sadou ach xa hay ? Thấy vậy cũng cảm tình. Hai ông bà chủ gia, đã quen rồi cứ mời hơ lửa, lấy ghế mời ngồi gần bếp, còn bà thì hôm qua nay, cứ nói tiếng Hindou với tôi và một, hai tiếng ăng-lê.Ngày 26 Avril 1936 – mùng 6-3-â.l. Dimanche – Sunday.
Bữa nay thức dậy, như thường. Chín giờ ăn bột, dạo xem xóm với Choundouss. Mười một giờ tên coolie đã gởi thùng Phật tượng tới. Có bổn đạo đem tống lễ, vì ngày mai lên đường. Huynh Choundouss và Issê ăn bột rồi 12 giờ quảy gói đi trước. Thu xếp hành lý, ba huynh đệ sẽ đi sau. Mướn ngựa chở đồ. Từ Chima đi Pharigiung. Ngựa cỡi giá là 1 rupee 8 annas.Ngày 27 Avril 1936 – mùng 7-3-â.l. Lundi – Monday.
Tạm biệt xóm Chima. Mười một giờ rưỡi vô chợ Xá-xinh-ma (của Ăng-lê, trả tiền đất), chợ phố kiểu Englis, có sân banh. Hai giờ rưỡi tới Galinhka (village) có viếng chùa nhỏ của Dromo Geshay Baha lama hồi 6 giờ rưỡi, có cúng 1 rupee. Có gặp Lama mập Tong-gá-goompa (unhiba). Huynh đệ đồng nghỉ tại Sangha chùa. Tỉnh Yalong.Ngày 28 Avril 1936 – mùng 8-3-â.l. Mardi – Tuesday.
Bốn giờ sáng huynh Issê và huynh Thinhless độ thùng coolie Phật cốt đi trước.
6 giờ ăn bột nhồi uống trà.
7 giờ tạm biệt Galinhkha.
12 giờ tới xóm Đôđặk (đôtặk). Gặp hai huynh Issê và Thinhless tại quán. Xuống ngựa tạm ngồi trước sân, ăn nổ (Pharigiung) ăn sadou uống trà.
1 giờ lên ngựa đi. Hai huỷnh mang nặng sẽ đi sau.
5 giờ rưỡi tới làng Pharigiung, ghé nhà quen nghỉ. Chỗ nầy nước độc xấu hơn các nơi.
7 giờ hai huynh đã tới. Mã tử trở về Chima.Ngày 29 Avril 1936 – mùng 9-3-â.l. Mercredi – Wednesday.
Bốn giờ đã thức ngồi thiền một hơi. Lạnh quá nằm nghỉ lại. Năm giờ bà chủ thức nấu nước, bần đạo ngồi gần lò viết việc đã trải qua hôm qua.
Ăn ngọ bột sadou. Samdhen và các huynh đi viếng bổn-đạo và ra mắt người lớn trong làng Pharigiung nầy. Đợi mướn đặng ngựa sẽ đi. Mượn đổi 10 rupee tiền Tây-tạng. 1$ tây-tạng 30 anas de 4 pèns = là 120 sous.
Đi viếng chợ, phố xá, đường xá dơ hết bực, có nhà người Ăng-lê ở xa chợ. Đi ngang qua nhà hàng, huynh Choundouss bảo vô, tôi biết sự dơ của họ, bèn từ chối, kiếu. Để mắt xem cảnh vật dường có vẻ thương tâm, núi bao tuyết giá, ít thế sanh-nhai, nhơn dân có mòi đồ khổ, ngày chí tối áo không thay, quần không đổi, nam nữ đồng một thể, quần áo dày dục tợ bố tời đất khác, nai nịch kỵ hàn cả tháng cả năm, không hay tắm giặt. Sự dơ dáy thân hình nói không cùng, nhưng tâm tánh không nước nào sánh lại. Chỗ hiền từ, lòng kính Phật, mến tăng, cả nước đều vậy.