Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (11)


Xem mục lục

TỨ PHẦN LUẬT 四分律
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. 

Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng

Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng 

 

PHẦN HAI
 THUYẾT MINH GIÁO PHÁP TỲ-KHEO-NI 

 

 CHƯƠNG I
BA-LA-DI
[1]

A - THÔNG GIỚI
I. BẤT TỊNH HẠNH[2]

[714a7] Một thời, đức Phật ở tại giảng đường Lâu các, [3] bên sông Di hầu, Tỳ-xá-ly. Bấy giờ, đức Thế tôn vì nhơn duyên này [4] tập hợp các Tăng tỳ-kheo, nói:

«Từ nay về sau, Ta vì các tỳ-kheo-ni kiết giới, tập hợp mười cú nghĩa: 1. Nhiếp thủ đối với Tăng; 2. Khiến cho Tăng hoan hỷ; 3. Khiến cho Tăng an lạc; 4. Khiến cho người chưa tín thì có tín; 5. Người đã có tín khiến tăng trưởng; 6. Để điều phục người chưa được điều phục; 7. Người có tàm quý được an lạc; 8. Đoạn hữu lậu hiện tại; 9. Đoạn hữu lậu đời vị lai; 10. Chánh pháp được cửu trụ.[5] »

Muốn nói giới nên nói như sau:[6]

Tỳ-kheo-ni nào, hành pháp dâm dục, phạm bất tịnh hạnh, cho đến cùng với loài súc sanh, Tỳ-kheo-ni ấy là kẻ ba-la-di, không được sống chung.

Tỳ-kheo-ni: có tỳ-kheo-ni danh tự, tỳ-kheo-ni tương tự, tỳ-kheo-ni tự xưng, tỳ-kheo-ni thiện lai,[7] tỳ-kheo-ni khất cầu, tỳ-kheo-ni mặc áo cắt rọc, tỳ-kheo-ni phá kiết sử, tỳ-kheo-ni thọ đại giới bạch tứ yết-ma như pháp thành tựu đúng cách. Tỳ-kheo-ni nói ở đây là tỳ-kheo-ni thọ đại giới, bạch tứ yết-ma như pháp, thành tựu như pháp, sống trong pháp tỳ-kheo-ni. Đó gọi là nghĩa tỳ-kheo-ni.

Hành pháp dâm dục, phạm bất tịnh hạnh, cho đến cùng với loài súc sanh: đó là chỉ chỗ có thể hành dâm.

Ba-la-di: ví như người bị chặt đầu, không thể sống trở lại được. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy, phạm ba-la-di rồi, không thành tỳ-kheo-ni được nữa, nên gọi là ba-la-di.

Thế nào gọi là không được sống chung? Không được sống chung với hai việc: cùng một yết-ma, cùng một thuyết giới. Tỳ-kheo-ni kia không được cùng sinh hoạt trong hai việc này. Cho nên gọi là không được sống chung.

Có ba đối tượng hành dâm thành ba-la-di. Loài người, phi nhơn và súc sanh. Cùng hành dâm với ba đối tượng nầy thì phạm ba-la-di.

Lại nữa, hành dâm với ba đối tượng nam phạm ba-la-di: nam loài ngườì, nam phi nhơn, súc sanh đực. Hành dâm với ba đối tượng này thì phạm ba-la-di.

Hành dâm với ba đối tượng có hai hình,[8] phạm ba-la-di: loài người có hai hình, loài phi nhơn có hai hình, súc sanh hai hình. Đối với ba đối tượng hai hình này cùng hành dâm, phạm ba-la-di.

Hành dâm với ba đối tượng huỳnh môn,[9] phạm ba-la-di: nhơn huỳnh môn, phi nhơn huỳnh môn, súc sanh huỳnh môn. Đối với ba đối tượng này hành dâm phạm ba-la-di.

Tỳ-kheo-ni với tâm dâm dục, nắm nam căn của người để vào ba chỗ đại, tiểu tiện, và miệng, vào thì phạm, không vào thì không phạm. Có ngăn cách với có ngăn cách; có ngăn cách với không ngăn cách; không ngăn cách với có ngăn cách; không ngăn cách với không ngăn cách; thảy đều phạm ba-la-di. Đối với phi nhơn nam, súc sanh đực, nhị hình nam, huỳnh môn cũng như vậy.

Tỳ-kheo-ni với tâm dâm dục, nắm nam căn của nam tử đang ngủ, của người chết mà thân chưa hư hoại hay hư hoại một ít, mà để vào ba chỗ, vào thì phạm; không vào thì không phạm. Có ngăn cách với có ngăn cách; có ngăn cách với không ngăn cách; không ngăn cách với có ngăn cách; không ngăn cách với không ngăn cách; đều ba-la-di. Phi nhơn nam, súc sanh đực, nhị hình nhơn nam, huỳnh môn cũng như vậy.

Tỳ-kheo-ni nào bị giặc bắt đem đến chỗ người nam, giặc cầm nam căn để vào ba chỗ. Khi mới vào, (tỳ-kheo-ni) cảm thấy thọ lạc; vào rồi thấy thọ lạc; khi lấy ra thấy thọ lạc, phạm ba-la-di. Khi mới vào, (tỳ-kheo-ni) thấy thọ lạc; vào rồi thấy thọ lạc; khi lấy ra không thấy thọ lạc, phạm ba-la-di. Khi mới vào thấy thọ lạc, vào rồi không thấy thọ lạc, khi lấy ra thấy thọ lạc, phạm ba-la-di. Khi mới vào thấy thọ lạc, vào rồi không thấy thọ lạc, lấy ra không thấy thọ lạc, phạm ba-la-di. Khi mới vào không thấy thọ lạc, vào rồi không thấy thọ lạc, lấy ra thấy thọ lạc, phạm ba-la-di. Khi vào, không thấy thọ lạc; vào rồi thấy thọ lạc, lấy ra không thấy thọ lạc, phạm ba-la-di. Khi mới vào không thấy thọ lạc, vào rồi thấy thọ lạc, lấy ra thấy thọ lạc, phạm ba-la-di. Trường hợp thứ sáu này,[10] có ngăn cách cho đến, không ngăn cách với không ngăn cách, cũng như trên. Phi nhơn nam, súc sanh đực, nhị hình nam, huỳnh môn, có ngăn cách cho đến, không ngăn cách với không ngăn cách, cũng như trên.

Tỳ-kheo-ni bị giặc bắt đem đến chỗ nam tử đang ngủ, người chết thân chưa hư hoại hay hư hoại một ít, dùng nam căn của họ để vào ba chỗ. Khi mới để vào, (tỳ-kheo-ni) cảm thấy thọ lạc; vào rồi, thọ lạc. Cho đến, mới để vào không thọ lạc, vào rồi không thọ lạc, lấy ra thọ lạc, cũng như trên. Có ngăn cách với không ngăn cách, cho đến không ngăn cách với không ngăn cách, cũng như trên. Cho đến huỳnh môn cũng như trên, có ngăn cách với có ngăn cách, cho đến không ngăn cách với không ngăn cách, cũng như trên.

Tỳ-kheo-ni nào bị giặc bắt, hành dâm nơi ba chỗ. Khi mới để vào, (tỳ-kheo-ni) cảm thấy thọ lạc; vào rồi thọ lạc, lấy ra thọ lạc, cho đến khi mới để vào không thọ lạc, vào rồi không thọ lạc, lấy ra thọ lạc, cũng như trên. Có ngăn cách với có ngăn cách, cho đến không ngăn cách với không ngăn cách, cũng như trên.

Tỳ-kheo-ni nào, phương tiện muốn hành bất tịnh, làm thì phạm ba-la-di, không làm phạm thâu-lan-giá.

Tỳ-kheo phương tiện dạy tỳ-kheo-ni phạm dâm, (tỳ-kheo-ni) làm theo, (tỳ-kheo dạy kia) phạm thâu-lan-giá. (Tỳ-kheo-ni) không làm, (tỳ-kheo) phạm đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni[11] dạy tỳ-kheo-ni phạm dâm, (tỳ-kheo-ni) làm theo, (tỳ-kheo-ni dạy kia) phạm thâu-lan-giá. (Tỳ-kheo-ni) không làm, (tỳ-kheo-ni dạy kia) phạm đột-kiết-la. Dạy người khác, trừ tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni; người ấy làm hay không làm, (tỳ-kheo-ni dạy) phạm đột-kiết-la.

Tỳ-kheo, ba-la-di. Thức-xoa-ma-na, sa-di, sa-di-ni, đột-kiết-la diệt tẫn. Đó gọi là phạm.

Sự không phạm: ngủ không hay biết, không thọ lạc, tất cả không có dục tâm; thảy đều không phạm.

Người không phạm: người phạm lần đầu tiên khi chưa kiết giới; người si cuồng, loạn tâm, thống não bức bách.
 

II. BẤT DỮ THỦ

Một thời, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật, thành La-duyệt. Bấy giờ, đức Thế tôn vì nhơn duyên này[12] tập hợp Tăng tỳ-kheo, bảo rằng:

«Từ nay về sau, Ta vì các tỳ-kheo-ni kiết giới, gồm mười cú nghĩa, cho đến câu chánh pháp cửu trụ.»

Muốn nói giới nên nói như vầy:

Tỳ-kheo-ni nào, nơi thôn xóm hay chỗ trống vắng, với tâm trộm cắp, lấy vật không được cho. Tùy theo vật không được cho mà lấy, hoặc bị vua hay đại thần của vua bắt, hoặc giết, hoặc trói, hoặc đuổi ra khỏi nước, rằng ‹Ngươi là giặc, ngươi ngu si, ngươi không biết gì;› tỳ-kheo-ni ấy là kẻ ba-la-di, không được sống chung.[13]
 

III. ĐOẠN NHÂN MẠNG*

Một thời, đức Phật ở tại Tỳ-xá-ly, vì nhơn duyên này[14] tập hợp các Tăng tỳ-kheo, bảo các tỳ-kheo rằng:

Từ nay về sau, Ta vì các tỳ-kheo-ni kiết giới, gồm mười cú nghĩa, cho đến câu chánh pháp cửu trụ.»

Muốn nói giới nên nói như vầy:

Tỳ-kheo-ni nào, cố ý tự tay dứt sinh mạng người, cầm dao đưa người, khen ngợi sự chết, khuyến khích cho chết, nói: ‹Này bạn, sống cuộc sống xấu ác này làm gì, thà chết còn hơn!› Với tâm tư duy như vậy, bằng mọi phương tiện khen ngợi sự chết, khuyến khích cho chết; tỳ-kheo-ni ấy là kẻ ba-la-di, không được sống chung.
 

IV. ĐẠI VỌNG NGỮ

Một thời, đức Phật ở trên nhà lầu các, bên sông Di hầu, Tỳ-xá-ly, dùng nhơn duyên này tập hợp các Tăng tỳ-kheo, bảo các tỳ-kheo rằng:

«Từ nay về sau, Ta vì các tỳ-kheo-ni kiết giới, gồm mười cú nghĩa, cho đến câu chánh pháp cửu trụ.»

Muốn nói giới nên nói như vầy:[15]

Tỳ-kheo-ni nào, thật không [715a1] sở tri mà tự xưng rằng: ‹Tôi chứng đắc pháp thượng nhơn, tôi biết như vậy, tôi thấy như vậy.› Vào lúc khác, tỳ-kheo-ni ấy hoặc bị người cật vấn, hoặc không người cật vấn, muốn tự thanh tịnh nên nói như vầy: ‹Tôi thật không biết, không thấy, mà nói có biết có thấy, nói lời hư dối vọng ngữ.› Trừ tăng thượng mạn. Tỳ-kheo-ni ấy là kẻ ba-la-di, không được sống chung.

Xem mục lục