Thành kính      đảnh lễ đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri             Quyển Thứ                              Mươi Bốn                                  NÓI RÕ PHẦN ÐẦU CỦA                              OAI NGHI                              TÁC PHONG CỦA THƯỢNG TỌA                              THỨ NHẤT.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, bấy giờ Tỉ-kheo Tăng tập hợp để bố tát; trong                              lúc mọi người tập trung đông đủ, thì vị Thượng tọa                              của Tăng là Nan-đà không đến. Khi ấy có đàn việt đem                              phẩm vật đến chờ chư Tăng tập hợp đông đủ để cúng                              dường, liền hỏi các Tỉ-kheo:                                                           - Dạ thưa Tăng đã tập hợp                              đông đủ chưa?                                                           - Tập hợp chưa đông đủ.                                                           - Ai không đến vậy?                                                           - Vị Thượng tọa của Tăng                              không đến.                                                           Ðàn việt liền chê trách:                              "Ta chờ Tăng tập họp đông đủ để cúng dường nhưng                              Thượng tọa lại không đến". Vì đã chờ đợi lâu, nên                              thí chủ đem phẩm vật cúng dường, rồi ra về.                                                           (499b) Ðến lúc chiều tối,                              Thượng tọa mới tới, nên không phát thẻ, không hỏi                              việc các Tỉ-kheo không đến hãy thuyết dục thanh tịnh,                              liền nói tóm tắt 4 việc (4 Ba-la-di) rồi giải tán.                                                           Bấy giờ vị Tỉ-kheo trẻ                              tuổi bèn hỏi chư Tăng:                                                           - Thưa, Thượng tọa đã đến                              chưa?                                                           - Thượng tọa đến rồi lại                              về.                                                           Tỉ-kheo trẻ tuổi liền                              trách móc: "Vì sao Thượng tọa đến cũng không cho ai                              biết, đi cũng chẳng nói ai hay?"                                                           Các Tỉ-kheo bèn đem sự                              việc đó đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Nan-đà                              đến. Khi thầy đến rồi, Phật liền hỏi:                                                           - Ông có việc đó thật                              không?                                                           - Có thật như vậy, bạch                              Thế Tôn!                                                            - Từ nay về sau, vị                              Thượng tọa của chúng Tăng phải biết các việc sau đây:                              Phải biết về phép tắc của Thượng tọa, kỳ này Bố-tát                              vào ngày 14 hay ngày 15, hay trung gian Bố-tát,                              Bố-tát ban ngày hay ban đêm; đồng thời phải biết nơi                              chốn, hoặc tại phòng sưởi, giảng đường hay trong                              rừng. Phải tụng đầy đủ 5 thiên giới bổn, tối thiểu                              là tụng 4 Ba-la-di và các bài kệ, rồi tuyên bố: "Ngoài                              ra các giới khác chư Tăng đã thường nghe". Nếu trong                              thành ấp xóm làng có Tỉ-kheo thì Thượng tọa nên sai                              người loan báo: Kỳ này Tăng Bố-tát vào ngày 14, hoặc                              ngày 15, hoặc trước bữa ăn, sau bữa ăn, vào lúc bóng                              người ngang chừng ấy sẽ Bố-tát tại mỗ xứ. Trước hết                              nên sai người quét tước giới trường, rải đất bằng                              phẳng, rải các loại hoa. Thượng tọa còn phải dự liệu                              xem ai nên chú nguyện, tụng giới, ai phát thẻ. Nếu                              lúc tụng giới Tăng chưa tập họp mà có đàn việt đến                              thì Thượng tọa nên thuyết pháp rồi ủy lạo họ. Nếu                              Thượng tọa không thể làm được, thì nên mời Thượng                              tọa thứ hai, hoặc pháp sư thuyết pháp. Khi đến giờ                              Bố-tát nên hỏi đàn việt muốn ở lại hay đi về. Nếu họ                              nói rằng đi về, thì nên chú nguyện rồi tiễn họ ra đi.                              Nếu họ nói "ở lại" thì nên bảo họ rời khỏi giới                              trường rồi mới Bố-tát. Nếu có khả năng thì nên dùng                              nước thơm nấu nóng rửa thẻ rồi mới phát. Nếu đại                              chúng ngồi trong giới trường thưa thớt thì nên một                              người phát thẻ, rồi một người thâu lại. Khi đưa thẻ                              không được trùm đầu, choàng khăn trên vai, đồng thời                              phải bỏ giày dép, trật vai áo phải mà phát thẻ.                              Người nhận thẻ cũng phải làm như thế. Khi phát thẻ                              phải phát cho người thọ Cụ túc trước rồi mới phát                              cho Sa-di. Khi phát xong phải bạch: Chừng ấy người                              thọ Cụ túc, chừng ấy Sa-di, cộng tất cả được chừng                              ấy người. Vị Thượng tọa của Tăng phải tụng giới; nếu                              không thể tụng, thì vị Thượng tọa thứ hai phải tụng;                              nếu cũng không tụng được thì lần lượt đến người nào                              tụng được, phải tụng. Khi tụng, nếu trời sắp tối,                              mưa gió xảy đến, hoặc có người già bệnh không thể                              ngồi lâu, trú xứ ở xa, hoặc có nạn vua, nạn giặc,                              thì bấy giờ được phép tụng tóm lược. Nếu thời giờ                              còn sớm không có các nạn kể trên thì phải tụng đầy                              đủ, hoặc Thượng tọa tự tụng, hoặc người khác tụng,                              hoặc hòa hợp thuyết pháp, bàn luận, hỏi đáp, chú                              nguyện cả đêm. Phép tắc Bố-tát của Thượng tọa phải                              như thế. Nếu không làm như vậy (499c) thì vượt pháp                              oai nghi.                                                           TÁC PHONG CỦA THƯỢNG TỌA                              THỨ HAI.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, bấy giờ Tỉ-kheo tập họp để Bố-tát, thì Thượng                              tọa thứ nhất đến, nhưng Thượng tọa thứ hai không đến;                              lúc ấy, có đàn việt đem phẩm vật đến định cúng dường,                              bèn hỏi các Tỉ-kheo:                                                           - Dạ thưa chúng Tăng đã                              tập họp đầy đủ chưa?                                                           - Tập hợp chưa đầy đủ.                                                           - Vị nào không đến vậy?                                                           - Thượng tọa thứ hai                              không đến.                                                           Ðàn việt liền trách móc:                              "Ta định cúng dường ít phẩm vật, nhưng Thượng tọa                              thứ hai lại không đến".                                                           Ðợi hồi lâu không thấy                              đến, đàn việt bèn đem phẩm vật cúng dường, rồi ra về.                              Ðến chiều tối, Thượng tọa thứ hai mới tới, Thượng                              tọa thứ nhất bèn chê trách: "Thế Tôn chỉ chế định                              riêng tôi còn Thượng tọa thứ hai không hỏi đến chăng?"                                                           Các Tỉ-kheo bèn đem sự                              việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi                              Tỉ-kheo ấy đến. Khi thầy đến rồi, Phật liền hỏi:                                                           - Ông có việc đó thật                              không?                                                           - Có thật như vậy, bạch                              Thế Tôn!                                                            - Từ nay về sau, khi                              Bố-tát thì Thượng tọa thứ hai cũng phải biết tất cả                              mọi việc như Thượng tọa thứ nhất đã được nói rõ ở                              trên chỉ có tên gọi Thượng tọa thứ hai là khác mà                              thôi. Nếu Thượng tọa thứ nhất của Tăng không thể chu                              toàn, thì Thượng tọa thứ hai phải đảm trách. Nếu                              không làm được như thế thì vượt pháp oai nghi.                                                           TÁC PHONG CỦA TĂNG CHÚNG.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, bấy giờ Tỉ-kheo Tăng tập họp để Bố-tát, thì                              đệ nhất Thượng tọa, đệ nhị Thượng tọa đến, nhưng các                              người khác thì lề mề không tập họp đúng giờ. Ðệ nhất                              và đệ nhị Thượng tọa liền chê trách: "Phải chăng đức                              Thế Tôn chỉ chế định riêng chúng tôi, không chế định                              cho những người khác?"                                                           Các Tỉ-kheo bèn đem việc                              ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi các                              Tỉ-kheo ấy đến. Khi họ tới rồi, Phật liền hỏi:                                                           - Các ông có việc đó thật                              không?                                                           - Có thật như vậy, bạch                              Thế Tôn!                                                            - Từ nay về sau, việc                              Bố-tát tất cả chúng Tăng đều phải biết. Ðó là các                              việc như sau: Hôm nay là ngày mồng một, mồng hai                              trong tháng cho đến ngày 14, ngày 15 Bố-tát đều phải                              biết, hoặc Bố-tát chính thức, Bố-tát trung gian,                              Bố-tát tại nơi nào đều phải biết. Nếu có người hỏi "Hôm                              nay là ngày thứ mấy", thì không được hỏi ngược lại "Hôm                              qua là ngày thứ mấy" mà cần phải biết. Nếu sợ quên                              thì phải làm thẻ xâu lại, treo trước giảng đường,                              hay trước nhà bếp. Người trực nguyệt, tri sự cứ mỗi                              ngày qua đếm một thẻ. Ngày Bố-tát phải tụng đầy đủ 5                              thiên giới; nếu có nạn tai thì tụng 4 Ba-la-di và                              các bài kệ, rồi nói: "Ngoài ra các giới khác như                              Tăng đã thường nghe". Tất cả mọi việc trong phần                              Thượng tọa ở trên đã nói rõ chỉ khác là chữ tất cả                              mà thôi. Nếu đệ nhất, đệ nhị Thượng tọa không biết                              thì tất cả những người khác đều phải biết. Nếu không                              biết như thế thì vượt pháp oai nghi.                                                           CÁCH THỨC CHÚ NGUYỆN.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, bấy giờ có đàn việt đến tinh xá Kỳ Hoàn cúng                              dường trai phạn cho Tỉ-kheo Tăng, thì vị Thượng tọa                              thứ nhất (là Nan-đà) không đến, khiến cho cơm canh                              nguội lạnh, đàn việt bèn hỏi các Tỉ-kheo:                                                           - (500a) Tỉ-kheo Tăng đã                              tập họp chưa?                                                           - Chưa tập họp.                                                           - Ai không đến.                                                           - Thượng tọa đệ nhất                              không đến.                                                           Ðàn việt bèn than phiền:                              "Ta bỏ cả việc nhà đến đây để cúng dường trai phạn                              cho chư Tăng, thế mà Tỉ-kheo không tập trung". Ðến                              giờ Thượng tọa mới tới không tán thán thức ăn, cũng                              không chú nguyện, vội vã ăn xong rồi bỏ đi. Vị trẻ                              tuổi hỏi: - Thượng tọa đến chưa?                                                           - Ðã đến, nhưng ăn rồi bỏ                              đi.                                                           Lúc ấy, vị trẻ tuổi liền                              trách móc: "Thượng tọa đến cũng không cho ai biết,                              đi cũng chẳng nói ai hay".                                                           Các Tỉ-kheo bèn đem sự                              việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi Nan-đà                              đến. Khi thầy tới rồi, Phật liền hỏi:                                                           - Ông có việc đó thật                              không?                                                           - Có thật như vậy, bạch                              Thế Tôn!                                                            - Từ nay về sau, vị                              Thượng tọa của Tăng phải biết các việc sau đây: Hôm                              nay ai cúng dường thức ăn, cúng cho hai bộ chúng hay                              một bộ chúng, hay mời từng phòng riêng, tại thôn xóm                              hay tại tinh xá, đều phải biết. Nếu có người mời                              ngày mai cúng dường cơm cho chúng Tăng, thì vị                              Thượng tọa trong Tăng không nên nhận liền mà phải                              biết người đến mời đó tên họ là gì, người quen hay                              lạ, nhà ở con đường nào. Vì e có kẻ đùa bỡn Tỉ-kheo                              cho nên không được nhận liền. Nếu có người biết rõ                              người đàn ông, đàn bà mời kia là ai thì được nhận                              lời mời. Sau khi nhận lời mời, không được tùy tiện                              đi đến, mà sáng sớm hôm sau nên sai người trực                              nguyệt, hoặc người làm vườn, hoặc Sa-di đến đó xem,                              xem họ có bị quan huyện, nước lửa, trộm cướp, sinh                              đẻ, tử vong mà không chuẩn bị được chăng. Nếu có các                              tai nạn như thế thì Tăng nên tự lo việc ăn uống. Nếu                              không thể lo được thì nên bảo mọi người đi khất thực.                              Khi sứ giả đến hỏi chủ nhân đã chuẩn bị thức ăn xong                              chưa, nếu họ hỏi: "Người nào? Thức ăn gì?", thì biết                              đó là kẻ điên cuồng. Bấy giờ, nếu tăng-già-lam có                              thức ăn thì nên sửa soạn để ăn. Còn nếu như không có                              thì nên tuyên bố rằng Tỉ-kheo Tăng bị kẻ điên cuồng                              lừa gạt, mỗi người nên tự đi khất thực lấy. Trái lại,                              nếu người chủ mời nói: "Thưa tôn giả, con đang sửa                              soạn đây", thì lúc ấy, Thượng tọa phải biết thời giờ.                              Nếu vào mùa Ðông thì mọi người nên tập họp đông đủ                              rồi cùng đi. Nếu vào mùa Xuân, mùa Hạ thì nên kẻ                              trước, người sau mà đi. Nếu đến nhà người đã mời mà                              còn sớm, cơm chưa dọn, muốn đi tới chỗ nào thì phải                              thưa với Tỉ-kheo khác rằng: "Tôi muốn đến nhà mỗ                              giáp, khi cơm dọn xong đừng đợi tôi". Ði rồi, phải                              trở về sớm. Khi vào nhà đàn việt, Thượng tọa phải                              biết ngồi ở bên phải hay bên trái. Nếu đàn việt tổ                              chức ngày lễ Khánh tiết, đặt ghế ngồi ở bên phải thì                              nên ngồi. Nếu họ mở hội cúng thí thực ngạ quỉ, đặt                              ghế ngồi ở bên trái thì cũng nên ngồi. Nếu họ trải                              tọa cụ dài còn mới, có vẻ gấp gáp, thì nên dùng tay                              ra hiệu bảo phải từ từ, rồi ngồi xuống chầm chậm kẻo                              bị hư hỏng. Nếu không có việc gì gấp thì không được                              ngồi xuống liền, vì e ở dưới có khí cụ gì khác, hoặc                              là trẻ con đang ngủ. Cho nên trước hết nên dùng một                              bàn tay sờ vào chỗ ngồi. Không được đem bình bát cấu                              bẩn và bánh trái đặt lên trên đó. Không được dùng                              tay mà chùi. Thượng tọa phải biết ai coi chừng phòng,                              ai bệnh, để bảo (500b) đàn việt đưa thức ăn. Nếu đàn                              việt tiếc của thì nên bảo: "Này lão trượng, theo                              phép thì phải cho, không được không cho". Nếu ngày                              còn sớm thì nên xếp hàng mà nhận lấy vật cúng dường.                              Nếu ngày giờ đã trễ mà họ đưa ai trước thì nhận                              trước rồi bảo họ đi tiếp. Vị Thượng tọa của Tăng                              phải biết thí chủ cúng dường vì mục đích gì mà chú                              nguyện đúng chuyện. Khi đàn việt dọn thức ăn, nếu                              dọn cho Thượng tọa nhiều, thì Thượng tọa nên hỏi: "Tất                              cả chúng Tăng đều được như thế chăng?". Nếu đáp: "Chỉ                              có Thượng tọa được như vậy", thì nên bảo họ cúng                              dường tất cả bình đẳng. Nếu họ nói: "Tất cả đều được                              như vậy", thì nên nhận. Nếu cần ít thì lấy ít, những                              người ngồi dưới thì nên bảo đưa nhiều hơn. Nếu có                              các món ăn ngon như sữa, sữa chua, bánh, thịt, sữa                              đóng váng, thì nên bảo thí chủ dọn bình đẳng cho tất                              cả. Phép tắc của vị Thượng tọa trong chúng Tăng là                              không được nhận xong liền ăn, mà phải đợi dọn đủ tất                              cả, rồi tuyên bố rằng "cúng dường bình đẳng", bấy                              giờ mới được ăn. Cách ăn của Thượng tọa là phải ăn                              từ từ, không được ăn vội vàng cho xong rồi ngồi nhìn,                              khiến những người trẻ phải vội vã ăn không no, nên                              trông chừng nhau mà ăn. Không được ăn xong rồi bỏ                              đứng dậy trước, mà nên đợi họ đưa nước uống, tùy                              thuận chú nguyện xong rồi mới đứng dậy. Nếu thí chủ                              cúng dường cầu phúc cho người chết, thì không nên                              chúc lành bằng câu:                                                           "Lành thay đã vô thường,                                                            mà nên chú nguyện như sau:                                                           "Tất cả mọi chúng sinh                                                           Nếu họ sinh con, thiết lễ                              ăn mừng thì không nên chú nguyện như sau:                                                           "Ðồng tử bỏ nghĩa địa,                                                            mà nên chú nguyện như sau:                                                           "Ðồng tử qui y Phật,                                Nếu thí chủ về nhà mới,                              thiết trai cúng dường, thì không nên chú nguyện rằng:                                                           "Khi nhà bị lửa thiêu,                                                            mà nên chú nguyện như sau:                                                           "Cửa nhà che nắng mưa,                                                            Nếu thương khách sắp khởi                              hành, thiết lễ cúng dường cầu phước, thì không nên                              chú nguyện thế này:                                                           "Tất cả mọi phương diện,                                                            mà nên chú nguyện như sau:                                                           "Mọi nơi đều an ổn,                                Ở phương Ðông có bảy ngôi                              sao thường bảo hộ thế gian, làm cho họ được như                              nguyện, đó là: Ngôi thứ nhất tên Cát-lợi-đế; ngôi                              thứ hai tên Lộ-ha-ni; ngôi thứ ba tên Tăng-đà-na;                              ngôi thứ tư tên Phân-bà-tủy; (501a) ngôi thứ năm tên                              Phất-thi; ngôi thứ sáu tên Bà-la-na; ngôi thứ bảy                              tên A-xá-lợi. Ðó gọi là bảy ngôi sao ở phương Ðông                              thường bảo hộ thế gian. Nay chúng sẽ bảo hộ ông                              khiến cho an ổn, được lợi ích và trở về sớm; tất cả                              tinh tú đều góp phần bảo hộ ông.                                                           Lại nữa, phương Ðông có                              tám Thiên nữ: Người thứ nhất tên Lại-xa-ma-đề; người                              thứ hai tên Thi-sa-ma-đề; người thứ ba tên Danh Xưng;                              người thứ tư tên Da-thâu-đà-la; người thứ năm tên                              Hảo Giác; người thứ sáu tên Bà-la-thấp-ma; người thứ                              bảy tên Bà-la-phù-đà; người thứ tám tên A-tì-ha-la.                              Ðó là tám Thiên nữ ở phương Ðông thường bảo hộ thế                              gian. Lại có Thiên Vương tên Ðề-đầu-lại-tra vua của                              Kiền-thát-bà và tất cả Chư Thiên thường hộ trì các                              ngươi, khiến tất cả đều được an ổn, lợi ích mà trở                              về sớm.                                                           Phương Ðông có Chi-đề tên                              Cung trượng thường tỏa ánh sáng, chư thiên cung kính                              cúng dường. Tất cả các vị Thiên cúng dường ấy sẽ hộ                              trì ngươi khiến được tài lợi, an ổn mà trở về sớm.                                                           Phương Nam có bảy ngôi                              sao thường hộ trì thế gian: Ngôi thứ nhất tên                              Ma-già; ngôi thứ hai và thứ ba cùng tên là                              Phả-cầu-ni; ngôi thứ tư tên Dung-đế; ngôi thứ năm                              tên Chất-đa-la; ngôi thứ sáu tên Tư-bà-đế; ngôi thứ                              bảy tên Tì-xá-khư. Ðó là bảy ngôi sao ở phương Nam                              thường bảo hộ thế gian, nay sẽ bảo hộ ngươi khiến                              được an ổn, lợi ích mà trở về sớm. Ðồng thời tất cả                              tinh tú đều sẽ hộ trì ngươi.                                                           Ở phương Nam có tám thiên                              nữ: Người thứ nhất tên Lại-xa-ma-đế; người thứ hai                              tên Thi-sư-ma-đế; người thứ ba tên Danh Xưng; người                              thứ tư tên Danh Xưng Trì; người thứ năm tên Hảo                              Giác; người thứ sáu Hảo Gia; người thứ bảy tên Hảo                              Lực; người thứ tám tên Phi Ðoạn, thường bảo hộ thế                              gian. Ðồng thời, có Thiên Vương tên Tì-lưu-đồ vua                              của Quỉ Thần Câu-ma-đồ, cùng bảo hộ ngươi được lợi                              ích mà trở về sớm.                                                           Phương Nam có Chi-đề tên                              A-tì-bát-thi thường phóng ra ánh sáng, chư Thiên                              cung kính cúng dường. Tất cả chư Thiên cúng dường                              Chi-đề sẽ hộ trì ngươi được an ổn, lợi ích mà trở về                              sớm.                                                           Ở phương Tây có bảy ngôi                              sao thường bảo hộ thế gian: Ngôi thứ nhất tên Bất                              diệt; ngôi thứ hai tên Thệ-tra; ngôi thứ ba tên                              Mâu-ra; ngôi thứ tư tên Kiên Cường tinh tấn; ngôi                              thứ năm và thứ sáu cùng tên là A-sa-đồ; ngôi thứ bảy                              tên A-tì-xà-ma, bảy ngôi sao này thường bảo hộ thế                              gian, sẽ bảo hộ ngươi được lợi ích mà trở về sớm.                              Ðồng thời tất cả tinh tú cũng đều bảo hộ ngươi.                                                           Ở phương Tây có tám Thiên                              nữ: Người thứ nhất tên A-lam-phù-bà; người thứ hai                              tên Tạp-phát; người thứ ba tên A-lợi-tra; người thứ                              tư tên Hảo-quang; người thứ năm tên Y-ca-đề-xá;                              người thứ sáu tên Na-bà-tư-ca; người thứ bảy tên                              Ký-sắc-ni; người thứ tám tên Sa-đà-la. Ðó gọi là tám                              Thiên nữ. Ðồng thời có Thiên Vương tên                              Tì-lưu-bác-xoa thường hộ trì thế gian. Lại có Long                              Vương tên Bà-lưu-ni và tất cả loài rồng (501b) sẽ hộ                              trì ngươi được lợi ích mà trở về sớm.                                                            Phương Tây có núi tên                              Nhiêu Ích, nhật, nguyệt ở trong đó. Nếu ai có mong                              cầu điều chi thì sẽ được mãn nguyện.                                                           Ở phương Bắc có bảy ngôi                              sao thường bảo hộ thế gian: Ngôi thứ nhất tên                              Ðàn-ni-tra; ngôi thứ hai và thứ ba cùng tên là                              Thế-đà-đế; ngôi thứ tư tên Bất-lỗ-cụ-đà-ni; ngôi thứ                              năm tên Li-bà-đế; ngôi thứ sáu tên A-thấp-ni; ngôi                              thứ bảy tên Bà-la-ni; bảy ngôi sao này thường bảo hộ                              thế gian, sẽ bảo hộ ngươi được lợi ích và trở về                              sớm. Nói chung, tất cả tinh tú đều bảo hộ ngươi.                                                           Phương Bắc có tám Thiên                              nữ: Người thứ nhất tên Ni-la-đề-tì; người thứ hai                              tên Tu-la-đề-tì; người thứ ba tên Câu-tra-tì; người                              thứ tư tên Ba-đầu-ma; người thứ năm tên Ha-ni; người                              thứ sáu tên Ba-lợi; người thứ bảy tên Già-la-ni;                              người thứ tám tên Ca-ma. Ðó gọi là tám Thiên nữ.                              Ðồng thời có Thiên vương tên Bà-lưu-na, thường bảo                              hộ thế gian, sẽ bảo hộ ngươi được lợi ích mà trở về                              sớm.                                                           Phương Bắc có núi tên                              Chỉ-la-tô, quỉ thần ở trong đó. Tất cả các quỉ thần                              sẽ bảo hộ ngươi được lợi ích mà trở về sớm.                                                           Hai mươi tám ngôi sao                              cùng nhật nguyệt, ba mươi hai Thiên nữ và Tứ Ðại                              Thiên Vương thống trị thế gian đều có danh tiếng. Ở                              phương Ðông có Ðê-đầu-la-tra Vương, ở phương Tây có                              Tì-lưu-bác-xoa Vương, ở phương Nam có                              Tỳ-lưu-đồ-vương, ở phương Bắc có Bà-lưu-na Vương,                              tám Sa-môn, tám Bà-la-môn, tám vị Sát-lợi của tám                              nước lớn, tám con gái của Ðế thích sẽ hộ trì ngươi                              khiến được lợi ích mà trở về sớm".                                                           Nếu thí chủ cưới vợ mở                              hội cúng dường, thì không nên chú nguyện thế này:                                                           "Sông khô không có nước,                                                            mà nên chú nguyện như                              sau:                                                           "Tín nữ chăm trì giới,                                                            Nếu người xuất gia cúng                              dường thì không nên chú nguyện thế này:                                                           "Mong cháu con đông đúc                                                           mà nên chú nguyện như                              sau:                                                           "(501c) Cầm bát xin nhà                              nhà,                                Vị Thượng tọa của Tăng                              phải biết các việc như vậy. Nếu không biết như vậy                              thì vượt pháp oai nghi.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, bấy giờ, đàn việt đến cúng dường trai phạn,                              Nan-đà là hàng Thượng tọa đến ngồi trước. Thế nhưng,                              Ưu-ba-nan-đà và các Tỉ-kheo khác không đến đúng giờ.                              Thượng tọa bèn khiển trách: "Ðức Thế Tôn chỉ chế                              định riêng tôi, không chế định cho những người khác                              chăng?'. Cho đến Phật nói: "Từ nay về sau, tất cả                              phải tập trung đầy đủ rồi thọ trai. Thượng tọa phải                              biết các việc như trên đã nói. Ở trong đây chỉ có                              tên gọi Thượng tọa thứ hai và tất cả là khác thôi.                              Cuối cùng nên để dành chỗ ngồi ở kề bên. Nếu thấy                              người dọn cơm đi qua, không được im lặng ngồi nhìn,                              mà người ngồi chỗ ấy nên nói: "Ðể xuống chỗ này".                              Khi được thức ăn, không được ăn liền mà phải chờ dọn                              đủ tất cả rồi mới ăn. Nếu thì giờ đã trễ thì dọn tới                              đâu ăn tới đó không có tội.                                                           Thượng tọa nên chú                              nguyện, nếu không thể chú nguyện được thì vị Thượng                              tọa thứ hai nên chú nguyện. Nếu Thượng tọa thứ hai                              cũng không chú nguyện được thì các vị ngồi dưới ai                              chú nguyện được nên chú nguyện. Như vậy tất cả vấn                              đề ăn uống Thượng tọa cần phải biết. Nếu không biết                              như vậy thì vượt pháp oai nghi.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, lúc ấy Ưu-ba-nan-đà độ người xuất gia cho thọ                              Cụ túc rồi không dạy dỗ để nghinh ngang như trâu                              trời, dê trời, không đủ oai nghi, không biết phép                              phụng sự Hòa thượng, A-xà-lê và các trưởng lão                              Tỉ-kheo, lại không biết phép tắc vào xóm làng, vào                              nơi rừng vắng, nhập chúng, mặc y, cầm bát.                                                           Các Tỉ-kheo bèn đem việc                              ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi                              Ưu-ba-nan-đà đến. Khi thầy tới rồi, Phật liền hỏi:                                                           - Này Tỉ-kheo! Ông có                              việc đó thật không?                                                           - Có thật như vậy, bạch                              Thế Tôn!                                                            - Từ nay về sau, Hòa                              thượng phải dạy đệ tử đồng hành như sau: Khi thọ Cụ                              túc rồi phải dạy đọc hai bộ Luật. Nếu không thể dạy                              đọc hai bộ thì dạy đọc một bộ. Nếu một bộ cũng không                              thể dạy được thì nên dạy đọc kỹ năm thiên giới. Nếu                              cũng không thể dạy được, thì nên dạy đọc bốn thiên,                              ba thiên, hai thiên, ít nhất là dạy đọc bốn việc                              (Ba-la-di). Mỗi ngày dạy ba lần: sáng sớm, buổi trưa                              và buổi chiều. Những vấn đề cần phải dạy là                              A-tì-đàm, Tì-ni. A-tì-đàm tức là chín bộ Kinh, Tì-ni                              tức là giới bổn, hoặc dạy đầy đủ, hoặc tóm lược. Nếu                              không thể dạy được, thì nên dạy họ biết tội nặng                              nhẹ, biết ý nghĩa của Kinh, của Luật, của ấm, giới,                              nhập, của nhân duyên, dạy về oai nghi, nếu trái oai                              nghi thì nên ngăn cản, đồng thời nên dạy giờ nào đọc                              kinh, giờ nào tụng chung, giờ nào ngồi thiền. Ðó gọi                              là dạy. Nếu không đọc kinh, cùng tụng kinh, ngồi                              thiền thì ít nhất cũng nên dạy họ đừng phóng dật.                              Nếu Hòa thượng không thể dạy (502a) đệ tử đồng hành                              như vậy thì vượt pháp oai nghi.                                                           Lại nữa, khi Phật an trú                              tại thành Xá-vệ, lúc ấy, đệ tử đồng hành của                              Ưu-ba-nan-đà ít khi đến chỗ Hòa thượng, do đó                              Ưu-ba-nan-đà than phiền: "Ðức Thế Tôn chỉ chế định                              cho riêng ta mà không chế định cho đệ tử. Ðệ tử có                              đến thì ta mới dạy, còn đệ tử không đến thì ta dạy                              ai đây?"                                                           Các Tỉ-kheo bèn đem việc                              ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi vị                              Tỉ-kheo đệ tử ấy đến. Khi thầy đến rồi, Phật liền                              hỏi:                                                           - Này Tỉ-kheo! Ông có                              việc đó thật không?                                                           - Có thật như vậy, bạch                              Thế Tôn!                                                            - Từ nay về sau, đệ tử                              đồng hành phải phụng sự Hòa thượng như thế này: Buổi                              sáng phải dậy sớm, trước hết bước chân phải vào cửa                              phòng của Hòa thượng. Khi vào xong, cúi đầu, đảnh lễ                              dưới chân, hỏi xem Hòa thượng ngủ có ngon giấc                              không. Rồi nhận Kinh, hỏi han công việc, đem đổ bô                              tiểu tiện, ống nhổ, xong rồi để lại chỗ cũ. Tiếp                              đến, lấy nước rảy trên nền nhà, rồi quét, lau nền                              nhà. Ðoạn, rửa tay sạch, rồi trao nước, bàn chải                              đánh răng, cầm bát đi lấy cháo cho thầy. Khi thầy ăn                              xong, rửa bát, cất lại chỗ cũ. Nếu có nhà nào mời                              thầy thọ trai, thì đến đó lấy thức ăn. Khi thầy muốn                              vào thôn xóm, thì trao y thường mặc vào thôn xóm,                              rồi xếp y thầy mặc trong viện lại, treo vào chỗ cũ.                              Lúc vào thôn xóm, nên đi theo sau thầy. Nếu muốn                              khất thực, nên bạch với Hòa thượng. Hòa thượng nên                              nhắc nhở đệ tử phải làm đúng pháp, đừng có phóng                              dật. Nếu mình về trước, nên trải giường ngồi cho Hòa                              thượng, rồi lấy nước sạch, rải cỏ lá đợi Hòa thượng                              về. Khi Hòa thượng về, nên đưa y mặc trong Thiền                              viện cho Hòa thượng, rồi lấy chiếc y mặc vào thôn                              xóm đập giũ, xếp lại, treo vào chỗ cũ. Nếu trời nóng                              thì nên đưa nước tắm cho thầy. Nếu trời lạnh, thì                              nên đốt lò lửa. Nếu được thức ăn ngon thì nên dâng                              cho Hòa thượng. Hòa thượng xem xong nên hỏi: "Ông                              được thức ăn ngon này ở đâu vậy?". Nếu đáp: "Con                              được tại nhà dâm nữ mỗ giáp, nhà quả phụ, nhà đại                              đồng nữ, nhà người bất năng nam, tại chỗ Tỉ-kheo ni,                              Sa-di ni mang tiếng xấu", thì Hòa thượng nên nói:                              "Ðấy là những nơi không nên đến, chẳng nên lấy thức                              ăn của họ". Nếu nói: "Do thuyết pháp mà được", thì                              Hòa thượng nên nói: "Không được lấy thức ăn của                              người ta bằng việc tà mạng".                                                           Khi Hòa thượng ăn, nên                              đưa nước rửa tay rồi đưa thức ăn. Nếu thời tiết nóng                              thì nên đưa nước lạnh, rồi cầm quạt quạt cho thầy.                              Khi Hòa thượng ăn xong, dọn bát, nhặt cỏ lá, rửa bát                              rồi cất lại chỗ cũ.                                                           Nếu Hòa thượng muốn vào                              rừng ngồi thiền thì nên lấy tọa cụ vác lên vai, mang                              bình nước rửa đi theo Hòa thượng. Ðến nơi rồi, hoặc                              học kinh, hoặc hỏi nghĩa. Khi đã được chỉ dạy, nên                              tìm một chỗ ngồi tu tập. Nếu muốn tụng đọc với người                              khác thì nên bạch với Hòa thượng. Hòa thượng nên                              hỏi: "Ông tụng đọc với ai? Nếu đáp: "Tụng đọc với mỗ                              giáp", thì Hòa thượng nên xem xét, nếu thấy người ấy                              giữ luật lỏng lẻo thì nên nói: "Ðừng đi, không                              (502b) nên giao du với kẻ ấy". Nếu thấy người ấy giữ                              luật nghiêm chỉnh thì nên cho phép cùng tụng đọc                              chung. Khi về nên mang tọa cụ trên vai, cầm bình                              nước theo Hòa thượng trở về.                                                           Khi Hòa thượng muốn lễ                              tháp, nên đưa nước rửa tay, đưa hoa. Khi lễ tháp                              xong, nên trải giường ngồi, đưa nước rửa chân và dầu                              thoa chân. Khi Hòa thượng muốn ngủ thì nên lau chùi                              giường nệm, trải gối, đốt đèn, đem ống nhổ, bô đựng                              nước tiểu vào để dưới giường. Khi Hòa thượng đã yên                              ổn thì mới học kinh, hỏi nghĩa. Khi được chia phòng                              theo thứ tự, nên hỏi trước Hòa thượng, rồi mới nhận.                                                           Nếu hai người cùng nhận                              một phòng thì Hòa thượng nên hỏi: "Ông được ở chung                              phòng với ai?" Nếu đáp: "Cùng ở với mỗ giáp", thì                              Hòa thượng nên xem xét người ấy, nếu thấy giữ giới                              lỏng lẻo, thì nên bảo đừng ở chung mà sinh ra rắc                              rối. Nếu thấy người ấy hiền thiện thì nên bảo cứ ở                              chung. Sau đó, nếu có Thượng tọa nào đến, rồi ra đi,                              thì nên bạch với Hòa thượng.                                                            Ðối với Hòa thượng, đệ tử                              đồng hành phải thực hiện những việc kể trên. Nếu                              không làm thì vượt pháp oai nghi. Nếu Hòa thượng có                              nhiều đệ tử, thì mỗi người tối thiểu cũng phải lau                              giường Hòa thượng một lần. Ðó gọi là phận sự của đệ                              tử.                                                           BỔN PHẬN CỦA ÐỆ TỬ Y CHỈ.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, lúc ấy, Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà nhận đệ tử y chỉ                              mà không dạy bảo, để họ buông lung như trâu hoang,                              dê hoang. Phận sự đệ tử phải làm các việc như ở phần                              Hòa thượng trên đây đã nói rõ, chỉ có tiếng gọi thầy                              y chỉ là khác thôi.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, lúc ấy, Nan-đà, Ưu-ba-nan-đà nhận đệ tử y chỉ                              mà đệ tử không đến, họ bèn than phiền: "Ðức Thế Tôn                              chỉ chế định cho riêng ta mà không chế định cho đệ                              tử. Ðệ tử không đến thì ta biết dạy ai đây?" Như                              trường hợp đệ tử đồng hành ở trên đã nói rõ, ở đây                              chỉ có đệ tử y chỉ là khác mà thôi.                                                           Kệ tóm tắt:                                                           "Việc Bố-tát, ẩm thực,                                                            Khi Phật an trú tại tinh                              xá Kỳ Hoàn ở thành Xá-vệ; lúc ấy, đức Như Lai cứ năm                              hôm đi quan sát phòng của các Tỉ-kheo một lần, thấy                              giường bỏ ngổn ngang trên đất, bị gió thổi xiêu vẹo,                              nắng táp mưa sa, mối mọt gặm nhấm và chim chóc ỉa                              lên trên, tuy biết nhưng Phật vẫn hỏi các Tỉ-kheo:                              "Ðây là giường của ai mà để ngổn ngang trên đất,                              khiến chim chóc ỉa lên trên thế này?". Ðoạn, Phật                              nói với các Tỉ-kheo: "Kể từ hôm nay, vấn đề giường                              nệm cần phải biết như thế này: Không được thấy                              giường chõng bỏ ngổn ngang dưới đất, (502c) bị mối                              mọt ăn, nắng táp mưa sa, gió thổi xiêu vẹo, chim                              chóc ỉa lên trên mà cứ để mặc như thế. Nếu thấy bỏ                              ngổn ngang đây đó thì nên đem chất lại một chỗ. Nếu                              nghiêng thì sửa cho ngay lại. Nếu bị nắng táp, mưa                              gió xiêu vẹo thì phải đem cất vào trong phòng. Nếu                              bị mối mọt ăn thì phải tra chăn lại cho vững. Nếu bị                              chim chóc ỉa trên đó thì phải đập giũ rồi cất vào                              trong phòng. Không được thấy phòng ốc bị dột mà                              không sửa chữa. Nếu phòng được lợp bằng cỏ thì nên                              dùng cỏ giọi (lợp) lại. Nếu được lợp bằng ngói, thì                              nên dùng ngói giọi lại. Nếu được lợp bằng xi-măng                              thì nên dùng xi-măng giọi lại. Nếu được phủ bằng                              đất, thì nên dùng đất phủ lên. Nếu tường vách bị                              hỏng hóc thì nên sửa chữa rồi tô đất lại. Giường nệm                              của chúng Tăng không được để yên như thế mà sử dụng,                              vì chúng chỉ được bọc có một lớp mỏng, cho nên phải                              dùng hai lớp tọa cụ phủ lên trên. Khi ngủ, nên dùng                              vật gì lót ngọa cụ, đừng để nó chạm vào thân mình.                              Nếu tấm nệm dày thì không được gấp lại, khiến hư                              hỏng vật của chúng Tăng. Nệm gối được xếp lại, nếu                              có dơ bẩn thì nên đem giặt. Nếu nó bị rách thì nên                              vá lại cho lành. Cần phải giữ gìn, bảo quản giường                              nệm, ngọa cụ của chúng Tăng như vậy. Nếu không làm                              như vậy thì vượt pháp oai nghi.                                                           VẤN ÐỀ BẢO QUẢN TRÚ XỨ.                                                           Khi Phật an trú tại tinh                              xá Kỳ Hoàn ở thành Xá-vệ, bấy giờ vào tháng cuối mùa                              Xuân mà các Tỉ-kheo không sửa chữa phòng ốc. Ðức Như                              Lai vì năm việc lợi ích nên cứ năm hôm đi tuần hành                              qua phòng các Tỉ-kheo một lần. Năm việc lợi ích đó                              là: 1- Xem các đệ tử Thanh văn có tham luyến các                              việc hữu vi hay không; 2- Xem họ có bàn phiếm chuyện                              đời hay không; 3- Xem họ có ham mê ngủ nghỉ hay                              không; 4- Vì để thăm viếng các Tỉ-kheo bệnh; 5- Ðể                              cho các Tỉ-kheo trẻ tuổi có niềm tin trông thấy oai                              nghi đĩnh đạc của đức Như Lai mà phát tâm hoan hỷ.                              Ðó gọi là vì năm việc mà đi tuần hành các phòng. Khi                              thấy các phòng xá bị hỏng hóc mà không sửa chữa, tuy                              biết nhưng Phật vẫn hỏi các Tỉ-kheo:                                                           - Phòng này của ai bị hư                              hỏng mà không sửa chữa?                                                           - Bạch Thế Tôn! Ðến lúc                              an cư Tỉ-kheo nhận phòng sẽ tự sửa chữa lấy.                                                           - Từ nay về sau, đến lúc                              an cư phải sửa chữa phòng ốc bằng cách: Sắp xếp mùa                              an cư không được thấy phòng ốc bị hư hại không sửa                              chữa mà nói: "Người nào an cư nhận phòng sẽ tự sữa                              chữa lấy". Nếu phòng lợp bằng cỏ thì dùng cỏ để giọi                              lại, cho đến, nếu phòng trét đất thì nên dùng đất để                              sửa chữa, hoặc bức tường bị trống thì nên dùng đất                              tô lại các lỗ chuột đục, lấp kín dưới nền. Các vật                              dụng trong phòng nên cất dồn lại một chỗ. Người nào                              hội đủ năm điều kiện sau đây thì cử làm người chia                              phòng: 1- Không thiên vị; 2- Không giận dữ; 3- Không                              sợ sệt; 4- Không ngu si; 5- Biết ai được phòng, ai                              chưa được. Ðó gọi là năm điều kiện. Người làm yết-ma                              nên nói như sau:                                                           - Xin đại đức Tăng lắng                              nghe, Tỉ-kheo mỗ giáp thành tựu năm pháp, nếu thời                              gian của Tăng đã đến, Tăng nay cử mỗ giáp làm người                              chia phòng. Ðây là lời tác bạch.                                                           (503a) Một lần bạch, một                              lần Yết-ma cho đến "Tăng bằng lòng cho nên im lặng.                              Việc này cứ như thế mà thi hành".                                                           Vị Tỉ-kheo đã được pháp                              Yết-ma rồi phải sửa chữa phòng sưởi, phòng ăn, giảng                              đường, phòng tắm, nhà che giếng, nhà vệ sinh, nhà                              ngõ, chỗ đi kinh hành dưới gốc cây; đồng thời phải                              ghi chép tất cả xem nhiều hay ít. Nếu những trú xứ ở                              A-luyện-nhã cách xa nhau thì nên chia phòng vào ngày                              12, 13 tháng tư. Nếu ai không nhận thì nên đi đến                              nơi khác. Nếu phần lớn đều ở gần nhau thì đợi đến                              ngày 14, 15 chia phòng và đọc biên bản ở giữa chúng                              Tăng như sau: "Xin đại đức Tăng lắng nghe, tinh xá                              mỗ giáp có chừng ấy phòng, chừng ấy giường nệm,                              chừng ấy thức ăn, ăn đến ngày ấy, có chừng ấy y an                              cư".                                                           Thượng tọa nên bảo người                              chia phòng tổ chức một bữa cúng dường. Khi chia                              phòng nên chia từ Thượng tọa cho đến Tỉ-kheo chưa có                              tuổi hạ, nhưng không được chia phòng cho Sa-di. Nếu                              Hòa thượng, A-xà-lê bảo cứ chia để tôi sẽ chăm sóc                              cho, thì hãy chia. Nếu có nhiều phòng thì nên chia                              mỗi người hai phòng. Nếu người ấy nói: "Tôi không                              cần hai phòng, chỉ cần một phòng là đủ", thì nên                              bảo: "Không phải chia để ở mà là chia để trông nom".                              Nếu phòng ít thì chia hai người, ba người một phòng.                              Nếu chia như vậy mà không đủ, thì chia năm người,                              sáu người một phòng. Nếu cũng không đủ mà có giảng                              đường rộng, thì tất cả mọi người nên vào ở trong                              giảng đường. Nếu cũng không đủ, thì Thượng tọa kê                              giường lớn, Hạ tọa kê giường nhỏ. Nếu cũng không đủ,                              thì Thượng tọa kê giường nhỏ, Hạ tọa ngồi nệm cỏ.                              Nếu cũng không đủ thì Thượng tọa nên ngồi kiết già,                              Hạ tọa nên đứng, hoặc ra ngoài gốc cây. Chia phòng                              vào mùa Ðông thì vừa để ở mà vừa để coi sóc. Nếu có                              Thượng tọa đến bảo giao phòng lại thì phải ra đi.                              Nếu chia phòng vào mùa Xuân thì cũng như vậy. Còn                              chia phòng vào mùa Hạ thì vừa để trông coi mà vừa để                              ở. Nếu Thượng tọa đến bảo phải ra đi, thì không nên                              đi.                                                           Vào tháng cuối mùa Xuân,                              các Tỉ-kheo nên sửa chữa phòng ốc như trên đã nói.                              Nếu không sửa chữa như thế thì vượt pháp oai nghi.                                                            Khi Phật an trú tại tinh                              xá Kỳ Hoàn, nơi thành Xá-vệ, vì 5 việc lợi ích nên                              cứ 5 hôm đức Thế Tôn đi tuần hành qua phòng các                              Tỉ-kheo một lần, Ngài thấy phòng ốc bị dột nát, hỏng                              hóc mà không sửa chữa, nước mưa đọng lại từng vũng                              trong phòng, cửa ngõ bị mối mọt ăn, giường nệm thì                              lên mốc xanh,                              tuy biết nhưng Phật vẫn hỏi các Tỉ-kheo: "Ðây                              là những phòng của ai, bị dột nát, hư hỏng thế này                              mà không sửa chữa?" Thế rồi, Phật dạy: "Từ nay về                              sau, trong mùa Hạ an cư nên sửa chữa phòng ốc,                              giường nệm, không được thấy phòng ốc giường nệm bị                              hư hỏng (503b) mà không sửa chữa. Nếu phòng được lợp                              bằng cỏ thì nên dùng cỏ để giọi, cho đến nếu được                              phủ bằng đất thì dùng đất để đắp lại, đồng thời khai                              thông các vũng nước đọng ra đến dòng nước. Nếu gối                              nệm của giường nằm, giường ngồi lên mốc thì phải đem                              phơi nắng cho khô. Nếu trong phòng ẩm thấp thì nên                              kê giường cách bức tường, tra chân giường cho chắc,                              đừng để mối mọt ăn. Ðồng thời phải quét sạch bồ hóng                              và lưới nhện. Mỗi nửa tháng nên dùng khăn lau nhà                              một lần. Nếu sàn nhà khô thì nên rấm nước rồi lau.                              Nếu sàn nhà ẩm ướt thì nên lau không mà thôi. Nếu                              trong phòng ẩm ướt thì không được rửa tay, rửa chân,                              rửa bát trong đó, cũng không được đóng kín cửa mà                              phải thường thường mở cửa cho gió lọt vào. Không                              được đun khói trong phòng. Vào dịp Hạ an cư, Tỉ-kheo                              nên sửa chữa phòng ốc như vậy. Nếu không sửa chữa                              như vậy thì vượt pháp oai nghi.                                                           TRÚ XỨ A-LUYỆN-NHÃ.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, lúc ấy, các Tỉ-kheo an cư tại A-luyện-nhã                              xong, không gởi gấm trú xứ cho ai mà bỏ đi hết. Sau                              đó bị lửa tự nhiên thiêu cháy hết phòng ốc. Các                              Tỉ-kheo bèn đem việc đó đến bạch lên Thế Tôn. Phật                              liền dạy: "Tỉ-kheo an cư xong nên bảo quản phòng ốc                              bằng cách: Nếu an cư tại A-luyện-nhã xong, đến mùa                              Ðông muốn dời đến nơi ấm áp thì không nên đi tất cả,                              mà nên yêu cầu vài ba người có thể kham nhẫn ở lại                              trông coi, và nên để lại thức ăn đừng để bị thiếu                              thốn. Nếu họ nói: "Không được; vì sao tôi phải ở lại                              nơi hoang vắng này để làm gì?", nếu không một ai ở                              lại cả, thì phải đem tất cả các thứ giường nệm, mền                              gối, đồ đồng, đồ sắt vào trong tinh xá ở thôn xóm mà                              gởi. Giường ngồi, giường nằm nên kê cách vách, và                              dùng vật gì lót dưới chân để mối khỏi ăn. Khi an cư                              xong, không được thấy phòng ốc dột nát, hư hại,                              không sửa chữa mà ra đi. Nếu phòng lợp bằng cỏ, thì                              dùng cỏ giọi lại cho đến nếu phủ bằng đất thì dùng                              đất để đắp lại. Ðồng thời tô lại phòng và quét vôi                              vào vách. Nếu xung quanh đó thỉnh thoảng có đốt lửa                              thì nên gởi gấm với các mục đồng rằng: "Ông thường                              thường trông chừng phòng ốc giùm tôi". Các trú xứ                              nơi thôn xóm cũng phải bảo quản như thế. Nếu phòng                              sưởi, giảng đường, nhà ăn có hư hao cũng phải sửa                              chữa như vậy. Nếu tại tinh xá có đàn việt đang ở thì                              nên bảo họ sửa chữa; hoặc sai người khác sửa chữa.                              Nếu trú xứ không có chủ, cũng không sai ai được, thì                              tất cả Tăng chúng phải sửa chữa. Nên chia đồng đều                              mỗi người một khuỷu tay, hai, ba khuỷu tay để cùng                              làm cho chu đáo. Nếu giường nằm, giường ngồi sút xổ                              thì nên đóng lại, buộc lại cho chắc chắn. Nếu nệm,                              gối xếp dơ bẩn thì nên đem giặt cho sạch, nếu có bị                              rách thì nên vá lại. Các vật dùng trong phòng nên                              xếp đống lại một chỗ.                                                           Tỉ-kheo an cư xong, nên                              sửa chữa bảo quản phòng ốc, giường nệm như vậy. Nếu                              không sửa chữa như vậy thì vượt pháp oai nghi.                                                           BỔN PHẬN CỦA TỈ-KHEO                              KHÁCH.                                                           (503c) Khi Phật an trú                              tại thành Xá-vệ, bấy giờ đức Thế Tôn vì 5 việc lợi                              ích nên cứ năm hôm đi tuần hành qua phòng các                              Tỉ-kheo một lần, trông thấy giường ghế bỏ ngổn ngang                              chỗ này chỗ kia trên đất, tuy biết nhưng Phật vẫn                              hỏi một Tỉ-kheo:                                                           - Giường chõng của ai mà                              bỏ ngổn ngang không cất thế này?                                                           - Bạch Thế Tôn! Ðó là chỗ                              ở của cựu Tỉ-kheo, còn con là khách.                                                           - Từ nay về sau, khách                              Tỉ-kheo phải biết như thế này: Không được thấy                              giường ghế bỏ ngổn ngang bị mối mọt ăn mà cứ để yên.                              Nếu thấy bỏ ngổn ngang thì phải thu lại cất vào một                              chỗ. Nếu thấy ngã nghiêng thì phải sắp lại cho ngay                              ngắn, rồi dùng vật gì kê dưới chân để mối khỏi ăn.                              Khi khách Tỉ-kheo đến nơi nào thì không được đột                              nhiên đem đồ đạc mình vào trong phòng mà phải để đồ                              vật lại một chỗ, đi tìm cựu Tỉ-kheo để xin phòng.                              Khi được phòng rồi, nếu mặt đất không bằng phẳng thì                              nên lấp cho bằng. Nếu có hang chuột thì nên lấy đất                              lấp lại. Nếu có bồ hóng, mạng nhện thì nên quét dọn.                              Giường ghế nếu sút sổ thì nên nêm lại, buộc lại cho                              chặt chẽ. Ðồng thời phải đập giũ gối nệm rồi lấy                              nước rưới lên sàn nhà, lau quét sạch sẽ. Nếu cái giá                              móc y bằng gỗ thì nên dùng vật gì lau cho sạch. Nếu                              nó bằng tre, trơn tru thì nên dùng tay mà chùi, nên                              xem nếu nó vững chắc thì nên treo bát lên trên. Nếu                              chỉ ở lại có nửa đêm thì cũng phải làm các việc như                              thế xong rồi mới đi.                                                           Nếu khách Tỉ-kheo không                              bảo quản như thế thì vượt pháp oai nghi.                                                           BỔN PHẬN CỦA CỰU TỈ-KHEO.                                                           Khi Phật an trú tại tinh                              xá Kỳ Hoàn nơi thành Xá-vệ, vì 5 việc lợi ích nên cứ                              5 hôm đức Như Lai đi tuần hành qua phòng các Tỉ-kheo                              một lần; cho đến, vị Tỉ-kheo ấy nói: "Bạch Thế Tôn!                              Ðó là vị khách Tỉ-kheo bày biện ra chứ chẳng phải                              con - cựu Tỉ-kheo". Phật dạy: "Từ nay về sau, cựu                              Tỉ-kheo phải biết các việc như sau: Cựu Tỉ-kheo                              không được thấy giường chõng bỏ lổn ngổn chỗ này chỗ                              kia bị mối mọt ăn mà cứ để yên như vậy. Nếu thấy bỏ                              ngổn ngang nơi này nơi kia thì phải đem chất đống                              lại một chỗ. Nếu thấy bị mối mọt ăn thì phải dùng                              vật gì kê dưới chân cho chắc. Phép của cựu Tỉ-kheo                              là không được chọn ở căn phòng tốt, còn giường nệm                              mền gối bị hư rách, bụi bặm thì đợi khách Tỉ-kheo                              đến tự lo liệu sửa chữa lấy, mà chính mình phải tu                              bổ, sửa chữa cho tốt rồi đợi khách Tỉ-kheo.                                                           Cựu Tỉ-kheo phải biết các                              việc như thế. Nếu không làm như thế thì vượt pháp                              oai nghi.                                                           BỔN PHẬN SỬA CHỮA VẬT                              DỤNG.                                                           Khi Phật an trú tại tinh                              xá Kỳ Hoàn, vì 5 việc lợi ích nên cứ 5 hôm đức Như                              Lai đi tuần hành qua phòng các Tỉ-kheo một lần. Cho                              đến, Phật thấy thế, tuy biết nhưng vẫn hỏi một                              Tỉ-kheo:                                                           - Này Tỉ-kheo! Cái giường                              này ai trải ra vậy?                                                           - Bạch Thế Tôn! Ðó là vị                              cựu Tỉ-kheo trải ra, còn con mới đến ở.                                                           - Từ nay về sau, khi thấy                              giường chõng trải ra, thì tất cả Tỉ-kheo đều phải                              biết như sau: Tất cả Tỉ-kheo không được để giường                              nệm bừa bãi chỗ này chỗ kia (504a) bị mưa nắng và                              mối mọt ăn hỏng. Nếu thấy bỏ rải rác trên đất thì                              phải đem chất lại một chỗ. Nếu thấy bị mưa sa nắng                              táp thì phải đem cất vào trong chỗ che khuất. Nếu bị                              mối ăn thì phải kê ở dưới chân. Nếu phòng ốc bị dột                              thì phải lợp lại. Nếu phòng được lợp bằng cỏ thì                              dùng cỏ giọi lại, cho đến, nếu được phủ bằng đất,                              thì dùng đất đắp vào. Nếu bức vách bị nứt vỡ thì nên                              dùng đất tô trét lại. Nếu giường nệm mền gối dơ bẩn,                              rách nát thì không được để yên như vậy xem mà phải                              đem giặt giũ may vá lại. Nếu lông bông trong gối nệm                              lòi ra thì phải nhồi lại, ghế dây bị giãn thưa ra                              thì phải ken lại cho chặt. Khi đánh kiền chùy tập                              trung để sửa chữa giường nệm thì không được từ từ đi                              đến mà phải tập họp nhanh chóng. Sau khi tập họp,                              phải cùng nhau sửa chữa, người thì se dây, kẻ thì                              đan, buộc, phải hợp sức cùng làm. Nếu chia công                              việc, thì mỗi người nên tự đem về làm. Nếu đánh kiền                              chùy để tập trung sửa chữa giường nệm như vậy thì                              không được nói tôi là người ở A-luyện-nhã, tôi khất                              thực, tôi là đại đức, tôi là Thượng tọa không thể                              làm, ở trong đây, ai sử dụng thì phải tự sửa chữa                              lấy, mà tất cả đều phải tập trung, cùng nhau sửa                              chữa, người thì se dây, kẻ thì đan dệt, người thì                              sơn màu. Tất cả Tỉ-kheo đều phải tập họp cùng nhau                              sửa chữa như vậy. Nếu ai không làm như vậy thì vượt                              pháp oai nghi.                                                           VẤN ÐỀ ÐẠI TIỆN.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, bấy giờ, các Tỉ-kheo đi đại tiện khắp nơi, bị                              người đời chê trách rằng: "Vì sao Sa-môn Thích tử mà                              giống như bò, như lừa, đi đại tiện không có chỗ nhất                              định?"                                                           Các Tỉ-kheo bèn đem sự                              việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền dạy: "Từ nay                              về sau nên làm nhà vệ sinh. Nhà vệ sinh không nên                              làm hướng Ðông, hướng Bắc mà nên làm ở hướng Tây,                              hướng Nam, chỗ có gió thoáng. Cách làm là: hoặc đào                              hầm, hoặc làm trên bờ cao. Nếu dưới đáy hầm có mạch                              nước thì trước hết phải bảo tịnh nhân lấp kín, rồi                              Tỉ-kheo mới làm. Nếu ở dưới bờ cao có dòng nước                              chảy, thì đặt một tấm ván, để khi đi cầu phân rơi                              xuống tấm ván trước rồi mới rơi xuống nước sau. Nên                              làm hai lỗ, ba lỗ, chiều rộng của lỗ cầu một khuỷu                              tay, chiều dài một khuỷu tay rưỡi. Trong nhà cầu nên                              ngăn cách ra, để hai người ngồi hai bên không thấy                              nhau. Ở bên cạnh nhà cầu để một thanh tre, trong nhà                              cầu nên để một cái giá treo áo".                                                           Bấy giờ có một Tỉ-kheo đã                              ngồi trước trên cầu rồi, sau đó có một Tỉ-kheo khác,                              vì bắt đi cầu gấp liền vào trong cầu, định đi cầu                              ngay chỗ vị Tỉ-kheo trước đang đi. Tỉ-kheo ấy bèn                              kêu lên: "Trưởng lão chớ làm bẩn tôi".                                                           Các Tỉ-kheo bèn đem sự                              việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền dạy: "Từ nay                              về sau, cần phải biết phép đi cầu như sau: Không                              được để cho đau bụng quá gấp rồi mới đi cầu, mà khi                              mới bắt đi cầu thì nên đi liền. Khi tới đó, không                              được làm thinh bước vào mà nên khảy móng tay. Nếu                              bên trong cầu có người cũng phải gảy móng tay đáp                              lại. Nếu bị đau bụng quá gấp, thì nên ngồi châu đít                              lại với người ngồi trước mà cùng đi. (504b) Khi chưa                              đến cầu, không được vén y phục trước mà đi, nên ngồi                              trên cầu rồi, vừa vén, vừa đi cầu. Không được mang                              ngọa cụ của Tăng vào cầu tiêu. Khi ngồi vào cầu                              không được xỉa răng, trùm đầu, che vai áo bên phải,                              mà nên trật vai áo, cũng không được đọc Kinh, thiền                              định, quán bất tịnh và ngồi ngủ, khiến làm trở ngại                              người khác. Khi đứng dậy, không được xăn y quá cao                              đứng dậy, mà phải vừa đứng dậy, vừa buông y xuống".                                                           Lại nữa, lúc bấy giờ, các                              Tỉ-kheo dùng thẻ tre làm vật chùi đít, khiến hậu môn                              bị thương tổn. Các Tỉ-kheo bèn đem việc ấy đến bạch                              lên Thế Tôn. Phật liền dạy: "Từ nay về sau, Ta không                              cho phép dùng thẻ tre, thẻ cây lau, thẻ gỗ và xương                              mà nên dùng vật mềm, vật tròn, đồng thời không được                              dùng xong rồi bỏ vào trong cầu, mà nên bỏ vào trong                              sọt đặt tại một chỗ. Nhưng nếu hầm cầu sâu ở trên bờ                              cao thì bỏ xuống đó không có tội. Khi đại, tiểu tiện                              và khạc nhổ nên nhắm ngay giữa lỗ, không được làm                              bẩn hai bên mép. Nếu người trước làm bẩn thì nên                              dùng thẻ gỗ gạt bỏ cho sạch. Không được đi đại, tiểu                              tiện xong không dùng nước rửa sạch mà sử dụng tọa                              cụ, giường nệm của Tăng chúng. Bên cầu nên đặt một                              thùng nước; nếu hầm cầu đào chỗ đất bằng thì không                              được đổ nước chảy xuống hầm cầu; nếu cầu làm ở bờ                              sông thì được dùng. Nên dùng gỗ, đá, ngói làm nắp                              thùng. Tỉ-kheo trẻ nên theo thứ tự đổ nước cho đầy                              thùng và phải súc thùng thường xuyên. Nếu nắp bằng                              ván thì không được để ngoài nắng khiến nó bị hư. Nếu                              nắp bằng sành, đá thì được để ngoài nắng. Bên cạnh                              cầu tiêu nên để tro, giẻ lau. Nếu trong thùng nước                              có sinh trùng thì không được nói: "Trong này có sinh                              trùng", mà nên bỏ một nắm cỏ ở trên để kẻ khác biết                              là trong nước có trùng. Không được dùng nhiều nước                              mà phải dùng có chừng mực. Nếu thùng nước hết nên                              báo người phụ trách biết, để sai người đổ vào cho                              đầy, hoặc tự mình đổ vào, ít nhất là một ca đủ cho                              một người sử dụng. Nếu bộ phận dưới bị bệnh trĩ thì                              không được rửa mà nên dùng vật mềm để lau, hoặc là                              vải, hoặc lá cây. Nếu không có nhà vệ sinh thì nên                              lau ở phía sau phòng. Nếu ngồi đại tiện nơi triền                              núi thì không được xỉa răng và trùm đầu, trùm vai mà                              nên trật vai áo. Nếu bắt đi cầu vào ban đêm thì nên                              dùng chậu, âu đựng rồi đem đổ. Nếu không có đồ đựng                              thì nên đi cầu chỗ đường nước chảy rồi sáng sớm dọn                              sạch. Nếu đang ở tại nhà sưởi, giảng đường mà muốn                              đi cầu thì phải ra ngoài. Nếu bắt đi cầu quá gấp                              không thể đi kịp thì phải đi cầu tại một chỗ, chứ                              không được làm như bò vừa đi vừa phóng uế, rồi sáng                              sớm dọn dẹp, dùng nước rửa sạch, dùng dầu để lau, ít                              nhất là dùng giẻ lau mà lau. Khi đang nhiễu tháp mà                              thấy đau bụng thì nên đi cầu. Nếu quá bức bách thì                              nên đi tại một chỗ, chứ không được vừa đi vừa phóng                              uế dơ bẩn cả chân như loài bò. Khi đi xong phải dọn                              dẹp, lấy nước rửa, rắc bột hương, rồi lau chùi. Nếu                              tại A-luyện-nhã không có bột hương thì nên dùng dầu                              mà lau.                                                           Khi muốn vào thôn xóm                              (504c) nên đại tiện trước rồi mới đi. Khi vào thôn                              xóm rồi mà bắt đi cầu thì nên đến cầu tiêu dành cho                              đàn ông, không nên vào cầu tiêu của phụ nữ. Nếu                              không có thì nên hỏi người ta nơi nào có thể đi cầu                              được. Khi hỏi, không nên hỏi những cô gái trẻ, vì                              khi nghe vậy họ sẽ cười, mà nên hỏi người lớn tuổi                              đứng đắn. Nếu cũng không có thì nên vào những ngôi                              nhà trống. Khi vào rồi, không được ngồi ở chỗ quá                              trống trải, cũng không nên ngồi chỗ quá kín đáo                              khiến người ta nghi mình là kẻ trộm. Nếu cũng không                              có ngôi nhà trống thì nên đi cầu ở bên bờ tường nơi                              mé đường. Nếu có bạn thì bảo họ ngồi châu lưng lại                              để che khuất.                                                           Nếu khi đi đường cùng với                              khách buôn mà muốn đại tiện thì nên đi ở mé đường                              cuối hướng gió, đừng đi ở đầu gió khiến mùi hôi bay                              đến người khác. Nếu ban đêm muốn đi cầu thì không                              được lặng thinh mà đi, mà phải nói cho khách buôn                              biết, để họ không nghi mình là kẻ trộm, đồng thời                              cũng phải đại tiện ở dưới hướng gió, chứ không được                              đại tiện ở trên hướng gió.                                                           Khi đi thuyền với khách                              buôn mà muốn đi cầu thì nên đến chỗ đại tiện mà đi,                              đồng thời nên dùng một miếng gỗ gạt xuống để cho                              phân rơi trên miếng ván trước rồi mới rơi xuống nước                              sau. Nếu không có miếng gỗ thì ít nhất đi trên nùi                              cỏ; nếu cũng không có nùi cỏ, thì nên dùng cái bô                              đựng rồi đem đổ.                                                           Nếu thấy phân uế nơi                              tháp, nơi Tăng viện thì nên dọn sạch. Nếu hai người                              cùng đi mà thấy thế, thì Hạ tọa nên dọn dẹp. Nếu Hạ                              tọa giữ giới lỏng lẻo thì bản thân mình phải dọn.                              Nếu bị trúng độc mà thầy thuốc bảo phải uống nước                              phân, thì không nên uống nước phân của chính mình mà                              nên dùng nước phân của kẻ khác.                                                           Tỉ-kheo phải biết các                              phép vệ sinh kể trên. Nếu không biết những việc như                              vậy thì vượt pháp oai nghi.                                                           VẤN ÐỀ TIỂU TIỆN.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, lúc ấy các Tỉ-kheo tiểu tiện khắp nơi, bị                              người đời chê trách rằng: "Vì sao Sa-môn Thích tử mà                              giống như bò, lừa tiểu tiện khắp nơi? Ðây là hạng                              người bại hoại, nào có đạo hạnh gì!". Cho đến, Phật                              dạy: "Từ nay về sau nên làm chỗ đi tiểu. Cách làm                              như sau: Không được làm ở hướng Bắc, hướng Ðông mà                              nên làm ở hướng Tây, hướng Nam, chỗ thoáng gió".                                                           Lúc ấy có Tỉ-kheo đi                              tiểu, rồi Tỉ-kheo khác cũng đến đó để tiểu. Vị                              Tỉ-kheo trước nói: "Trưởng lão chớ làm bẩn tôi".                                                           Các Tỉ-kheo bèn đem việc                              ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền dạy: "Từ nay về                              sau, phép tiểu tiện phải biết như sau: Không được để                              cho bức bách rồi mới đi mà khi muốn đi tiểu thì phải                              đi liền. Trước khi vào cầu tiểu phải khảy móng tay;                              nếu trong đó đã có người thì cũng phải khảy móng tay                              đáp lại. Nếu quá gấp thì nên đứng quay lưng với                              người trước, và người trước nên nhường chỗ cho nhau.                              Khi tiểu tiện không được trùm đầu, che vai và xỉa                              răng, mà nên vén áo bên phải mà tiểu. Lúc đang tiểu                              không được thiền định, ngủ, tụng kinh và quán bất                              tịnh làm trở ngại người đi sau. Khi tiểu xong phải                              ra ngay. (505a) Nếu không có chỗ tiểu tiện thì nên                              dùng cái bình để đựng; trên bình nên để một cái âu                              có lỗ thông dưới đáy, tiểu tiện vào trong cái âu đó                              rồi mở nút cho chảy vào trong bình. Nếu không có âu                              thì nên dùng cái muỗng để rót vào bình. Không được                              đại tiện và khạc nhổ vào trong bình. Tỉ-kheo trẻ                              phải theo thứ tự đổ cái bình ấy. Khi đổ, phải đổ ở                              chỗ khuất, không được đổ trên thượng lưu của tháp,                              viện. Sau khi đổ phải dùng nước rửa sạch rồi úp                              xuống đất. Nếu không có bình thì mỗi người nên tìm                              đồ đựng riêng. Nếu đồ đựng bằng đất thì khi rửa xong                              đem úp xuống đất. Nếu đồ đựng bằng gỗ thì khi đổ                              xong nên để trong mát cho khỏi bị hư; đồng thời nên                              buộc dây mà xách. Ban đêm nên đem nó đặt dưới                              giường. Nếu không có đồ chứa thì (ban đêm) nên đi                              tiểu ở chỗ rãnh nước. Nhưng rãnh nước đó không được                              chảy về hướng tháp, phòng sưởi và giảng đường.                                                           Khi muốn đi tiểu thì nên                              đi ngay. Nếu cấp bách quá không đi kịp, thì nên tiểu                              tiện tại một chỗ. Khi tiểu xong, dùng nước rửa, dầu                              bôi, rồi lau chùi sạch.                                                           Nếu đang nhiễu tháp mà                              bắt đi tiểu thì phải đi ngay. Nếu cấp bách quá, cũng                              không được vừa đi, vừa tiểu mà nên tiểu tại một chỗ.                              Khi tiểu xong, dùng nước rửa rồi bôi hương thơm. Nếu                              ở nơi hoang vắng không có hương thơm, thì nên dùng                              dầu bôi lên.                                                           Nếu muốn đi vào thôn xóm                              thì nên tiểu tiện trước rồi mới đi. Khi đang ở nơi                              thôn xóm mà muốn tiểu tiện thì nên tiểu tiện ở chỗ                              khuất. Nếu cấp bách quá không đến chỗ khuất kịp thì                              hướng vào bờ tường mà tiểu. Nếu có đồng bạn thì nên                              bảo họ xoay lưng lại để che mình.                                                           Nếu đi đường với khách                              buôn mà muốn tiểu tiện thì nên đi ở hướng cuối gió,                              không được đi ở đầu gió. Nếu nghỉ lại ban đêm, khi                              đi tiểu tiện cũng phải đi ở hướng cuối gió. Lúc muốn                              đi phải nói cho họ biết, để họ khỏi ngờ mình là kẻ                              trộm.                                                           Nếu đi thuyền thì nên đến                              chỗ tiểu tiện mà tiểu. Nếu không có chỗ đi tiểu thì                              nên tiểu vào trong đồ đựng rồi đem đổ.                                                           Tỉ-kheo bệnh, nếu thầy                              thuốc bảo phải uống nước tiểu thì không được lấy                              nước tiểu lúc đầu và lúc cuối mà nên lấy nước tiểu ở                              khoảng giữa, hoặc lấy nước tiểu của chính mình, hoặc                              xin nước tiểu của người khác mà uống.                                                           Phép tiểu tiện phải làm                              như trên; nếu ai không làm như vậy thì vượt pháp oai                              nghi.                                                           VẤN ÐỀ TĂM XỈA RĂNG.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, bấy giờ nhóm sáu Tỉ-kheo dùng cây xỉa răng                              chưa chuốt vót, bị người đời chê bai rằng: "Vì sao                              Sa-môn Thích tử mà giống như kẻ hung ác, cầm nguyên                              cả cành cây mà xỉa răng?". Các Tỉ-kheo bèn đem việc                              ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền dạy: "Từ nay về                              sau, Ta không cho phép dùng cây xỉa răng".                                                           Lại nữa, khi Phật an trú                              tại thành Xá-vệ, lúc ấy nhân dịp đại hội, đức Thế                              Tôn thuyết pháp, thì có Tỉ-kheo hôi miệng nên ngồi ở                              phía cuối hướng gió. Phật tuy biết nhưng vẫn hỏi các                              Tỉ-kheo:                                                           - Tỉ-kheo nào mà ngồi                              riêng một chỗ như người có điều chi oán hận vậy?                                                           - Bạch Thế Tôn! Vì Thế                              Tôn chế giới không cho phép xỉa răng, vị này bị hôi                              miệng sợ ảnh hưởng (505b) đến các bậc phạm hạnh nên                              phải ngồi ở cuối gió.                                                           - Ta cho phép dùng tăm                              xỉa răng nhưng phải ước lượng mà dùng, dài nhất là                              16 lóng tay.                                                           Lại nữa, lúc ấy có đàn                              việt trồng cây tại nơi hoang vắng, rồi Tỉ-kheo nhổ                              cây ấy làm cây xỉa răng. Chủ nhân thấy thế lòng                              không vui bèn đi đến chỗ Phật trình bày việc ấy lên                              Thế Tôn. Phật tùy thuận thuyết pháp khiến tâm ông ta                              hoan hỷ, rồi ông lễ Phật mà cáo lui. Ðoạn Phật bảo                              gọi vị Tỉ-kheo kia đến. Khi thầy tới rồi, Phật liền                              hỏi:                                                           - Ông có việc đó thật                              không?                                                           - Có thật như vậy, bạch                              Thế Tôn!                                                            - Vì sao ông dùng cây có                              hoa trái làm tăm xỉa răng? Từ nay về sau, Ta không                              cho phép ông dùng cây có hoa trái làm tăm xỉa răng.                              Hơn nữa, khi xỉa răng không được ở tại phòng sưởi,                              giảng đường, phòng ăn và ở trước chư Tăng, trước Hòa                              thượng, A-xà-lê, trước tháp, trước tượng. Khi xỉa                              cũng không được trùm đầu, che vai mà phải vén áo                              phải, ở tại chỗ khuất. Nếu ở phòng Tăng thì nên dùng                              ve, hộp mà đựng tăm. Khi tăm xỉa rồi không được bỏ                              lại vào trong hộp, không được vứt nơi chùa, tháp và                              nơi thường đi lại. Khi nạo lưỡi không được làm như                              kẻ dâm dật. Nạo xong, phải rửa cây nạo rồi cất vào                              một chỗ. Nếu cây xỉa răng khó tìm, thì khi xỉa xong,                              cắt bỏ chỗ đã xỉa, đem rửa rồi cất để ngày mai dùng                              lại.                                                           Lại nữa, bấy giờ có một                              Tỉ-kheo đang xỉa cây tăm đã cùn, trông thấy đức Thế                              Tôn đi đến, vì lòng kính trọng nên thầy nuốt khúc                              tăm vào, khiến khúc tăm mắc nơi cổ, làm cho thầy ảo                              não. Các Tỉ-kheo bèn đem việc ấy đến bạch lên Thế                              Tôn. Phật liền dạy: "Từ nay về sau, Ta không cho                              phép dùng cây xỉa răng quá cùn; dài nhất là 16 lóng                              tay, và ngắn nhất là 4 lóng tay trở lên. Khi xỉa nên                              ở nơi vắng vẻ, rửa tay sạch rồi mới xỉa răng. Khi                              xỉa xong, đem rửa cây tăm rồi mới vứt. Khi dùng                              không được làm như bọn phóng đãng, vì xỉa răng là để                              trừ bỏ hôi miệng mà thôi. Khi xỉa răng không được                              nuốt nước xỉa răng, nhưng nếu lỡ nuốt phải thì không                              có tội.                                                           Khi Tỉ-kheo bị bệnh nếu                              thầy thuốc bảo phải nuốt nước xỉa răng (nước nhăm                              cây tăm) mới lành bệnh thì nên vâng lời mà nuốt. Nếu                              không có cây xỉa răng thì nên dùng tro, muối, đất,                              gạch, gừng, đá, cỏ, cây làm cho sạch miệng rồi mới                              ăn.                                                           Nếu tại nơi chùa, tháp,                              thấy có tăm xỉa răng thì nên lượm vứt đi. Nếu cả hai                              người cùng thấy, thì người nhỏ nên lượm vứt. Nếu                              thấy Hạ tọa giữ giới lơ mơ thì tự mình nên lượm vứt                              đi. Phép dùng tăm xỉa răng phải như vậy. Nếu ai                              không làm như vậy thì vượt pháp oai nghi.                                                           Kệ tóm tắt:                                                           "Trải giường, cuối tháng                              Xuân,                                (505c) Khi Phật an trú                              tại thành Xá-vệ, vì 5 việc lợi ích nên cứ 5 hôm đức                              Như Lai đi tuần hành qua phòng các Tỉ-kheo một lần,                              trông thấy vị Tỉ-kheo đang trải y trên đất để vá,                              Phật liền dạy: "Từ nay trở đi nên sắm chiếu. Cách                              làm chiếu là dùng tre, sậy dài chừng 10 khuỷu tay,                              bề ngang chừng 6 khuỷu tay mà làm. Khi muốn vá y thì                              nên đem chiếu trải ở giảng đường hoặc phòng sưởi,                              phòng ngồi thiền, rồi xổ y ra trên đó mà vá, đồng                              thời phải rửa chân rồi mới ngồi. Nếu không rửa chân                              thì phải xếp chân lại mà ngồi lên trên, đừng để bàn                              chân chạm vào chiếu. Không được phơi ngũ cốc, phơi                              y, nhuộm y trên chiếu; cũng không được để cho nắng                              táp, mưa sa, hoặc chim muông làm dơ bẩn chiếu. Khi                              vá y xong phải cuốn lại đem cất vào chỗ che khuất.                              Nếu không có chiếu thì nên vá y trên giường. Nếu                              cũng không có giường, thì nên dùng khăn lau sạch                              phòng sưởi, giảng đường, rồi đem y ra vá. Khi vá y                              phải làm như vậy. Nếu ai không làm như vậy thì vượt                              pháp oai nghi.                                                           VẤN ÐỀ NGĂN CHỖ NẰM.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, lúc ấy có Tỉ-kheo ngồi thiền xong trở về, đạp                              nhằm bàn chân lạnh của thầy vào người khác khiến vị                              Tỉ-kheo ấy cảm thấy giật mình, không an. Do thế, các                              Tỉ-kheo bèn đem việc ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật                              dạy: "Từ nay về sau nên dùng vật gì để ngăn chỗ nằm                              ra. Phương pháp làm bằng cách dùng tre, nứa, lau                              dựng đứng bốn góc rồi dùng dây buộc lại. Khi ngồi                              thiền trở về thì mở ra, lúc vào trong rồi thì đóng                              lại. Ban ngày nên mở ra, không nên đóng lại, còn ban                              đêm thì nên buông xuống. Phương pháp ngăn chỗ nằm                              phải làm như vậy. Nếu ai không làm như vậy thì vượt                              pháp oai nghi.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, vì 5 việc lợi ích nên đức Thế Tôn cứ 5 hôm đi                              tuần hành qua phòng các Tỉ-kheo một lần, trông thấy                              phòng ốc bị dột nát mà không sửa chữa, tuy biết                              nhưng Phật vẫn hỏi các Tỉ-kheo: "Phòng này của ai mà                              để dột nát như thế này? Từ nay về sau, việc phòng ốc                              phải xử trí như thế này: Không được thấy phòng ốc bị                              dột nát mà không sửa chữa. Nếu phòng được lợp bằng                              cỏ thì dùng cỏ giọi lại, cho đến nếu được phủ bằng                              đất thì dùng đất đắp lên. Ðồng thời nên thường                              thường quét mạng nhện và bụi bặm, nên lấp bằng những                              chỗ lồi lõm, dùng đất bịt kín các hang chuột, và mỗi                              nửa tháng nên dùng giẻ lau nhà một lần. Nếu nền nhà                              khô thì nên tẩm khăn lau cho ướt để lau; còn nền nhà                              ướt thì chỉ nên lau bằng khăn khô. Nếu nền nhà được                              sơn xanh thì nên dùng vật gì bọc chân giường lại                              đồng thời không được đốt đèn, đi kinh hành hay bỏ                              giày dép trên đó, cũng không được khạc nhổ mà nên                              dùng ống nhổ để đựng. Nếu ngôi nhà giữa thì được rửa                              chân, rửa tay, rửa mặt hoặc rửa bát tại đó. Nếu ngôi                              nhà dưới thì được đốt đèn, đi kinh hành, rửa tay,                              chân, rửa mặt và rửa bát tại đó. Về vấn đề phòng ốc                              phải xử dụng như thế. Nếu ai không làm như thế thì                              vượt pháp oai nghi.                                                            Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, vì 5 việc lợi ích nên cứ 5 hôm đức Thế Tôn đi                              tuần hành qua phòng các Tỉ-kheo một lần, (506a) thấy                              trên các bức tường của phòng ốc, giảng đường có                              những bãi nước miếng chảy nhiểu xuống đất, tuy biết                              nhưng Phật vẫn hỏi các Tỉ-kheo: "Kẻ nào nhổ nước                              miếng bẩn thỉu như thế này? Từ nay về sau, khi khạc                              nhổ phải làm thế này: Bức tường có được tô hay không                              tô đều không được nhổ trên đó. Nếu dưới nền nhà                              không tô thì được nhổ tại một chỗ rồi dùng bàn chân                              chà đi chứ không được nhổ lung tung dơ bẩn. Nơi nền                              nhà nên đặt một ống nhổ, trong ống nhổ nên bỏ cát                              hoặc tro, dưới ống nhổ kê một hòn đá cứng, thỉnh                              thoảng phải đem đổ, đừng để hôi thối, trùng sinh,                              nên dùng nước trong rửa sạch rồi úp xuống cho khô.                              Không được vứt tăm xỉa răng vào trong đó. Ở trong                              khuôn viên chùa, khi muốn nhổ thì nhổ xong phải dùng                              gót giày chà đi. Nếu nền nhà có lót thảm thì nên                              dùng ống nhổ. Nếu đang ăn mà muốn nhổ thì không được                              nhổ toẹt xuống đất khiến cho Tỉ-kheo ngồi bên cạnh                              nhờm gớm, mà nên nhổ ở giữa hai chân mình, rồi dùng                              gót chân chà đi. Nếu đàm ra liên tục nhiều quá thì                              nên ra ngoài nhổ xong rồi vào ngồi lại. Nếu đang ở                              trước Hòa thượng, A-xà-lê mà muốn nhổ, thì nên đến                              chỗ kín đáo mà nhổ. Nếu đang ở nơi thôn xóm mà muốn                              khạc nhổ, thì nên nhổ ở cạnh chân mình, rồi dùng                              chân chà đi. Nếu chỗ đó là đất bũn (mịn) thì nhổ                              xuống đó không có tội. Nếu thấy những bãi nước bọt ở                              nơi tháp, nơi tăng viện thì nên dùng chân chà đi.                              Nếu hai người cùng thấy một lúc, thì người nhỏ hơn                              nên làm. Nếu người nhỏ giữ giới hời hợt thì tự mình                              nên chà. Tỉ-kheo khi khạc nhổ phải biết như thế. Nếu                              ai không biết như thế thì vượt pháp oai nghi.                                                           Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, lúc ấy có vị Tỉ-kheo để cái bát tại chỗ lỗ                              trống, bị cơn gió lốc thổi làm rơi xuống đất vỡ bể,                              đến lúc nghe tiếng bảng đánh báo hiệu dùng cháo,                              thầy đi lấy bát thì than ôi chỉ còn một đống mẻ                              sành. Các Tỉ-kheo bèn đem việc ấy đến bạch lên Thế                              Tôn. Phật liền bảo gọi thầy Tỉ-kheo ấy đến. Khi thầy                              tới rồi, Phật liền hỏi:                                                           - Ông có việc đó thật                              không?                                                           - Có thật như vậy, bạch                              Thế Tôn!                                                            - Từ nay trở đi, vấn đề                              bát phải biết như sau: Không được đem bát để ở chỗ                              lỗ hổng, bên cạnh bờ, chỗ nguy hiểm; không được để ở                              chỗ cánh cửa mở và nơi thường đi lại; không được                              dùng tro chùi bát khiến nó phai màu, mà nên dùng                              nước lá cây, nếu không có cát thì nên dùng khăn mà                              lau. Khi rửa, không được ngồi ở triền bờ, chỗ nguy                              hiểm, trên tảng đá, trên đống gạch. Không được ngồi                              dưới cây đa-la, dưới cây Ca-tì-đà, dưới cây na-lê.                              Rửa bát nên ngồi chòm hổm, hoặc quì gối cách đất                              chừng một gang tay. Nên rửa bát Hòa thượng, A-xà-lê                              trước rồi mới rửa bát mình sau. Không được đem nước                              thừa trong bát của mình đổ vào bát của Hòa thượng,                              A-xà-lê mà nên dùng nước thừa trong bát của Hòa                              thượng, A-xà-lê để rửa bát mình. Khi bát khô, dọn                              cất thì cũng phải dọn bát của Hòa thượng, A-xà-lê                              trước. (506b) Khi cất bát vào túi xách phải cất bát                              của Hòa thượng, A-xà-lê trước. Ðồng thời nên ngồi                              chòm hổm, lấy cái đai túi xỏ qua cánh tay, đặt trên                              đầu gối, rồi cất bát vào, đoạn, đem để trên giường                              hoặc trên ghế. Túi đựng bát nên may hai hay ba lớp.                              Khi muốn treo bát nên lay cây trụ xem có vững chắc                              hay không rồi mới treo. Nếu không có chỗ treo thì                              nên để bát trên giường, nếu nơi ấy có rổ đựng rau                              che chở thì được để, hoặc có sóng bát thì được để,                              nhưng đừng để chúng úp ngược lại nhau. Sóng bát nên                              làm vành. Không được lấy bát trong bóng tối; không                              được lấy bát khi tay bẩn, mà phải rửa tay sạch rồi                              mới lấy. Khi lấy bát, một tay cầm hai cái, một tay                              cầm một cái, không được cầm tới bốn cái. Khi trao                              bát không được                              đưa đột ngột mà nên hỏi: "Thầy lấy bát chưa?",                              nếu đáp: "Lấy", thì mới đặt bát xuống. Không được                              đem bát đựng những vật ô uế cũng không được dùng                              đựng nước để cạo đầu, rửa tay chân, rửa mặt, hay                              dùng trong nhà tắm và dùng múc nước rửa tiểu tiện.                              Phải giữ gìn bát như giữ gìn đôi mắt. Nếu không làm                              như vậy thì vượt pháp oai nghi.                                                            Khi Phật an trú tại thành                              Xá-vệ, bấy giờ nhóm sáu Tỉ-kheo chê bai cháo, nếu                              thấy cháo lỏng liền nói: "Ðây không phải là cháo mà                              là sông Diêu-phù-na". Nếu thấy cháo đặc, liền nói:                              "Ðây không phải là cháo mà là cơm cứng làm gãy răng                              người ta".                                                           Các Tỉ-kheo bèn đem việc                              ấy đến bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi vị                              Tỉ-kheo ấy đến. Khi thầy tới rồi, Phật liền hỏi:                                                           - Ông có việc đó thật                              không?                                                           - Có thật như vậy, bạch                              Thế Tôn!                                                            - Từ nay trở đi, vấn đề                              cháo nên biết như thế này: Khi nghe tiếng bảng đánh                              báo hiệu ăn cháo thì phải biết đó là cháo đãi cho                              hai bộ Tăng hay cho một bộ Tăng, hay cho thầy trò                              quyến thuộc. Khi biết rồi thì nên đi, đến nơi rồi                              thì không được nhìn vào hình thức để khen chê đặc                              lỏng mà có sao thì nhận vậy; cũng không được lấy                              vượt thứ tự của mình. Khi lấy không được trùm đầu,                              trùm vai, mang giày dép mà nên cởi giày, vén vai áo                              bên phải để lấy. Nếu người đưa cháo đi qua nhanh thì                              ít nhất nên tháo gót giày để lấy. Nếu không kịp tháo                              giày thì đợi họ đi trở lại rồi lấy, hoặc nhờ người                              khác lấy. Nếu ngồi thì lấy theo thứ tự. Nếu thấy                              cháo lỏng thì không được nói: "Trong quá, giống như                              sông Diêu-phù-na, thấy cả bóng trăng". Nếu thấy cháo                              đặc thì không được nói: "Ðây là cơm cứng, làm gãy                              răng người ta", mà hễ cho sao thì nên nhận vậy. Vấn                              đề cháo nên xử trí như vậy. Nếu ai không làm như                              vậy, thì vượt pháp oai nghi.                                                           OAI NGHI KHI ÐỨNG.                                                           Khi Phật an trú tại vườn                              trúc Ca-lan-đà nơi thành Vương Xá, lúc ấy có một                              Tỉ-kheo đang ngồi thiền trong hang đá Ðế-thích bên                              triền núi, rồi một Tỉ-kheo khác đến đứng trước cửa                              hang (506c) khiến cho tâm vị Tỉ-kheo ngồi thiền                              không được định. Các Tỉ-kheo bèn đem việc ấy đến                              bạch lên Thế Tôn. Phật liền bảo gọi vị Tỉ-kheo ấy                              đến. Khi thầy tới rồi, Phật liền hỏi:                                                           - Ông có việc đó thật                              không?                                                           - Có thật như vậy, bạch                              Thế Tôn!                                                            - Từ nay trở đi khi đứng                              phải làm như sau: Không được đứng trước vị Tỉ-kheo                              đang ngồi thiền; không được đứng trước chúng Tăng;                              không được đứng trước chỗ mọi người đang ngồi; không                              được đứng trước Hòa thượng, A-xà-lê và các trưởng                              lão Tỉ-kheo; cũng không được mang giày, đeo đai,                              trùm đầu hoặc buông thõng hai tay đứng bên cạnh các                              ngài. Nhưng nếu bị bệnh thì không có tội, không được                              đứng trước dâm nữ, trước kẻ đánh bạc, trước quán                              rượu, trước kẻ đồ tể, trước nhà lao và trước kẻ sát                              nhân. Không được đứng chỗ che khuất kín đáo. Vấn đề                              đứng phải biết xử trí như thế. Nếu ai không làm như                              thế thì vượt pháp oai nghi.
Hán dịch: Tam Tạng              Phật Đà La người Thiên Trúc, cùng Samôn Pháp Hiển, đời Đông Tấn,              Trung Quốc 
Hôm nay ngày tốt lành. 
Bày các thức trân quí,  
Cúng dường hàng phước điền".                             
Có sinh mạng đều chết. 
Tùy theo nghiệp dữ lành,  
Tự chuốc lấy quả báo. 
Làm ác xuống địa ngục,  
Tạo thiện lên cõi trời. 
Nếu có thể tu hành,  
Hết lậu, được Niết-bàn".                             
Mút tay, bảy ngày sống,  
Không bị ruồi nhặng hại,  
Do công đức đồng tử".                             
Như Lai Tì-bà-thi,  
Thi-khí, Tì-diệp-bà,  
Câu-lâu, Câu-na-hàm,  
Ca-diếp và Thích-ca. 
Bảy đời các Thế Tôn. 
Ví như bậc cha mẹ,  
Luôn thương nhớ con mình. 
Các niềm vui trên đời,  
Ðều mong con mình được 
(500c) Muốn con hưởng phước đức,  
Hơn tất cả kẻ khác,  
Thân quyến khắp cả nhà 
Ðều chung vui bất tận".                             
Của cải đem ra được. 
Tất cả tài sản mình 
Ðều không bị thiêu rụi"                             
Muốn chi đều toại ý. 
Các hiền thánh cao quí,  
Ðều trú ở trong này. 
Kẻ thông minh trên đời,  
Hẳn biết rõ nơi đây. 
Mời bậc gìn giới hạnh,  
Bày ẩm thực, làm phước. 
Tăng dùng lời chú nguyện,  
Thần nhà ắt hân hoan. 
Sinh thiện tâm gìn giữ,  
Trọn đời được an trụ. 
Nếu đi vào xóm làng,  
Hay đến nơi hoang dã. 
Ban ngày hay ban đêm,  
Thiên thần đều bảo hộ".                             
Nạn giặc không nên đi. 
Giờ đây thật đúng lúc,  
Xuất gia tu phạm hạnh".                             
Chư thiên ban điềm lành. 
Nghe rồi tâm hoan hỷ,  
Mong chi đều được cả. 
Loài hai chân an ổn,  
Loài bốn chân cũng an. 
Lúc ra đi an lạc,  
Khi trở về bình yên. 
Ngày yên, đêm cũng yên,  
Chư thiên thường bảo hộ. 
Bạn bè đều hiền lành,  
Tất cả thảy an ổn 
Khang kiện và tốt đẹp,  
Tay chân đều vô bệnh. 
Thân thể được bảo toàn,  
Chẳng bệnh, chẳng khổ đau. 
Tất cả mọi mong cầu,  
Ðều toại tâm mãn nguyện.                             
Nước không vua không hộ. 
Gái có mười anh em,  
Cũng gọi không che chở".                             
Người chồng cũng như thế. 
Vì nhờ có niềm tin,  
Nên tu hành bố thí. 
Hai người đều trì giới,  
Tu tập về chánh kiến. 
Hân hoan cùng làm phước,  
Chư Thiên thường tùy hỉ. 
Kết quả của nghiệp này,  
Như đi không mang lương".                             
Nô tì và tiền tài,  
Bò dê cùng lục súc 
Tất cả đều sung túc".                             
Gặp sân hay hoan hỷ. 
Ðều giữ gìn tâm ý,  
Xuất gia bố thí nan".                             
Thượng tọa cần phải làm. 
Vị đệ nhị Thượng tọa,  
Và mọi người cũng thế. 
Hòa thượng dạy điều chi,  
Người đồng hành phải nghe. 
Thầy y chỉ dạy bảo,  
Ðệ tử phải phụng hành 
Kết thúc phần thứ nhất".                             
An cư, sắp chỗ ngồi. 
Tỉ-kheo khách và cựu,  
Tất cả đều như vậy. 
Cầu tiêu, đại tiểu tiện 
Dùng tăm, hết phẩm hai".                             
