Kinh Viên Giác, nếu nói đầy đủ gọi là Đại Phương Quảng Viên Giác Tu Đa  La Liễu Nghĩa kinh, cũng gọi là “Đại Phương Quảng Viên Giác Đà La Ni Tu  Đa La Liễu Nghĩa Kinh”. Ngoài những tên kinh kể trên, còn có những tên  khác là “Bí Mật Tam Muội Kinh”, “Như Lai Quyết Định Cảnh Giới Kinh”,  “Như Lai Tạng Tự Tính Sai Biệt Kinh”, nhưng cổ lai thường gọi tắt là  Kinh Viên Giác.
Ngài Phật Đà Đa La (Buddhàtàra), người nước Kế Tân, dịch kinh Viên Giác  này ở chùa Bạch Mã đất Lạc Dương, Trung Quốc, không nói rõ năm tháng  dịch kinh (theo Khai Nguyên Thích Kinh Lục). Nhưng theo “Viên Giác Kinh  sớ” của Đạo Thuyên, kinh này dịch ở năm Trường Thọ thứ 2 (693) thời Tắc  Thiên Võ Hậu. Các loại chú sớ Kinh Viên Giác cũng đã sớm xuất hiện ở đời  Đường. Như chú sở của Duy Ý chùa Báo Quốc, của Ngộ Thực chùa Tiên  Thiên, của Kiên Chí chùa Tiên Phúc, gồm cả chú sớ của Đạo Thuyên thành 4  chủng loại, đều ở trước thời đại ngài Tôn Mật (780- 841). Theo Viên Giác  Kinh Đại Sớ 6 quyển của Tôn Mật thiền sư trước tác, kể từ năm Trùng  Khánh nguyên niên (821) đến năm Trường Khánh năm thứ 3 (823) thì hoàn  thành.
Tôn Mật thiền sư, ngài xuất thân ở Hà Trạch thiền sư, thuộc Nam tôn Thiền, nên trong phần chú sớ kinh Viên Giác, ngài đều có tuyên dương về  “Hà Trạch Thiền”. Mặt khác, ngài còn là học giả của Hoa Nghiêm, được  liệt vào hàng Tổ thứ 5 của Hoa Nghiêm Tôn (Đỗ Thuận, Trí Nghiễm, Pháp  Tạng, Thanh Lương, Tôn Mật). Ngài còn đề cao giáo lý của Đại Thừa Phật  Giáo, lấy tư tưởng kinh Hoa Nghiêm làm kinh tối thượng, và kết hợp với  chỗ cùng cực về thực tiễn tu hành của Thiền, với huyền ký của kinh Hoa  Nghiêm là nhất chí, mà đề xướng ra thuyết “thiền Giáo Nhất Chí Luận”. 
 Mặt khác, đồng thời để truyền bá về Viên Giác, ngài đã trước tác các bộ  “Viên giác kinh Đại sớ” 6 quyển, “Viên giác kinh đại sớ sao” 13 quyển,  “Viên giác kinh lược sớ” 2 quyển, “Viên giác kinh lược sớ sao” 6 quyển.  Ngoài ra ngài còn trước tác “Viên giác kinh đạo tràng Tu chúng nghĩa” 18  quyển.
Nội dung Kinh Viên Giác, theo cách chia khoa đoạn thông thường, đượ chia  làm 3 đoạn” Tự phận, Chính tông và Lưu thông. Phần Chính tông chia làm  11 chương: từ chương Văn Thù đến chương Viên Giác. Sau cùng chương Hiền  Thiện Thủ thuộc phần Lưu thông. Tóm tắt 3 đoạn như sau:
Tự phận
Chính Tông: 
- Chương Văn Thù
- Chương Phổ Hiền
- Chương Phổ Nhãn
- Chương Kim Cương Tạng
- Chương Di Lặc
- Chương Thanh Tịnh Tuệ
- Chương Oai Đức Tự Tại
- Chương Biện Âm
- Chương Tịnh Chu Nghiệp Chướng
- Chương Phổ Giác
- Chương Viên Giác
Lưu thông: 
- Chương Hiền Thiện Thủ
Ở phần Tự phân, trần thuật về “Đức Phật nhập thần thông Đại Quang Minh  Tam Muội để thuyết kinh này. Đoạn này được gọi là “Thần Thông Đại Quang  Minh Tạng”, để dụ phần tác dụng to lớn tuyệt đãi về thể của Viên Giác,  gọi là quang minh. Quang minh là tên khác về diệu dụng của Đạo, nơi đã  thể đắc được quang minh ở thân mà hoạt động thì gọi là thần thông. Thần  thông là kết quả của quang minh, quang minh là nguyên động lực của thần  thông. Thần thông và quang minh này là bản thể căn nguyên của Đại Đạo.  Từ nơi phóng ra 2 phần này, gọi là tạng, nơi tuyệt đối của Đạo. Thần  thông, quang minh và tạng này đều hợp nhất ở Đạo, đó là Tam muội. Đó tức  là Tam Muội của Thần thông đại quang minh tạng, mà Đức Phật nhập Tam  muội để nói ra kinh này. 
Các chương, từ chương Văn Thù trở xuống đều lấy tên của người đối cơ mà  đặt tên. Chương Văn Thù thứ nất, nói về nhân hạnh căn bản quả tướng của  Như Lai. Nhân hạnh, nhân của Như Lai là bản thể của Như Lai là bản thể  của Viên Giác sẵn có. Quả tướng là nói về phần khai hiển của Viên Giác  sẵn có đó. Phật không phải là sự việc mới thành, mà chỉ là sự hoàn  nguyên ở Viên Giác sẵn có. Đó là biểu thị về lý “thủy bản bất nhị”, đó  cũng là then chốt yếu ước của phẩm này.
Ở chương Phổ Hiền, từ nơi Viên Giác sẵn có, không nói sự tu hành thành  Phật nhưng vì kẻ ngộ giải “bản lai Phật” lại nói Phật từ nơi tu hành mà  thành tựu được Vì kẻ ngộ giải ấy mà nói nguyên lý chân tu hành mới thành  tựu được Phật quả.
Chương Phổ Nhãn căn cứ ở nguyên lý chân tu hành trước mà chỉ bày về  phương pháp thực tu. Pháp thực tu này nói tu từ Sa ma tha, quán về lý  huyễn tướng của thân tâm, nên biết được hết thảy đều là huyễn, thì bản  tính của Viên Giác xuất hiện.
Chương Kim Cương Tạng, Phật trả lời câu hỏi của Kim Cương Tạng, vô minh  có tái khởi hay không? Phật trả lời, hết thảy chư pháp đều biến hóa luân  hồi, đi lại không trụ, đó gọi là luân hồi. Nếu đem con mắt của luân hồi  mà thấy thì Viên Giác cũng luân hồi theo, nếu chủ quan xa lìa được luân  hồi thì thể của Viên Giác thường trụ bất diệt. Trong nơi bản giác của  thường trụ bất biến, thì không có sự kiện vô minh tái khởi, cũng như  vàng từ quặng mà nấu thành, vàng không thể trở lại thành quặng.
Chương Di Lặc nói về căn bản của luân hồi là tham ái, nên hành giả tu hành trước tiên phải đoạn trừ tham ái.
Chương Thanh Tịnh Tuệ, nếu chứng được Viên Giác thì không có mê ngộ ở  tính của Bồ Đề. Vì có mê ở nơi không mê ngộ nên lập ra giai vị tu chứng,  mở ra con đường tu hành, tức là tùy thuận giác tính; người đã vào ngôi  địa tùy thuận giác tính, và Như Lai tùy thuận giác tính. Phàm phu là ngô  tín, chưa vào ngôi địa là Địa Tiền, đã vào ngôi địa là Địa Thượng, tới  ngôi cực địa sau cùng là Diệu Giác, tức là Phật .
Chương Oai Đức Tự Tại nói về căn tính của chúng sinh có 3 thứ, theo 3  thứ quán môn ở trước, lại chia nhỏ thành 25 thứ “thanh tịnh định luân”  để phối hợp với 3 thứ quán môn, chỉ dẫn cho việc thích nghi tu hành.
Chương Tịnh Chư Nghiệp Chướng chỉ rõ căn bản phiền não, nó làm mờ lý bản  lai Viên Giác. Đó là 4 thứ điên đảo: “ngã”, “nhân”, “chúng sinh”, “thọ  mệnh”, vọng chấp nơi tồn tại của chúng. Do 4 thứ căn bản phiền não ấy mà  mê tưởng là thực ngã.
Ở chương Phổ Giác, chỉ dẫn phải tỏ rõ về đạo, chọn thầy để tu, tìm bậc  chính kiến thiện tri thức, phải dụng tâm, đừng lừa dối thân giáo. Vì  tính Viên Giác không ở nơi phát minh của nhân lực mà lại nương ở thứ thứ  tu hành để cần cầu Viên Giác, thì đó gọi là “tác bệnh”. Lại chân lý,  gọi là không đọa sinh tử, không cầu Niết bàn, cũng không cần tu hành, tự  nhiên phóng nhậm, đó gọi là “nhậm bệnh”. Hoặc lại ngăn chặn hết thẩy  mối nghĩ, trở về không tịch, bảo đó là Niết bàn, gọi là “chỉ bệnh”. Nói  thân tâm không tịch gọi là Viên Giác, chấp trước ở một tướng không tịch,  đó gọi là “diệt bệnh”. Nếu muốn không bị giam hãm ở 4 thứ bệnh Tác,  Chỉ, Nhậm, Diệt này thì phải giữ luật nghi. Đó là căn yếu của chương  này.
Cuối cùng, chương Viên Giác, chỉ bày phương pháp an cư của người tu  hành, gồm có 3 thứ: trường kỳ, trung kỳ, đoản kỳ. Trường kỳ và đoản kỳ  để lần lượt tiến tu 3 thứ quán. Môn tu trong đạo tràng an cư này, đó là  Sa ma tha, Tam ma bát đề và Thiền na.
Chương Hiền Thiện Thủ là chương thuộc phần lưu thông, thuyết minh về công đức phụng trì, tu tập và bảo hộ kinh này.
Ngày 10 tháng 8 năm Ất Hợi (1995)
Dịch giả:
Sa môn Thích Thanh Kiểm
Cẩn chí