Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi         (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đa-lâm), tại tinh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc).         Ở đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo : "Này các Tỷ-kheo". – "Thưa         vâng, bạch Thế Tôn". Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế         Tôn nói như sau : – Ví như, này các Tỷ-kheo, có hai         nhà có cửa; ở đây, một người có mắt đứng chính giữa có thể thấy         những người đi vào nhà, đi ra khỏi nhà, đi qua, đi lại. Cũng vậy, này         các Tỷ-kheo, Ta với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhân, thấy các chúng hữu         tình chết đi sanh lại, hạ liệt, cao sang, đẹp trai, xấu hình, thiện         thú, ác thú, tùy theo hạnh nghiệp của họ, (và Ta nghĩ) : "Các bậc hữu         tình này do thành tựu thân thiện hành, khẩu thiện hành, ý thiện hành,         không công kích các bậc Thánh, có chánh kiến, thọ trì nghiệp phù hợp         chánh kiến, các vị ấy sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện         thú, Thiên giới, ở đời này. Hay các vị hữu tình này, do thành tựu         thân thiện hành, khẩu thiện hành, ý thiện hành, không công kích các bậc         Thánh, có chánh kiến, thọ trì nghiệp phù hợp với chánh kiến, các vị         ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh ra giữa loài Người. Còn các         hữu tình, do thành tựu thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành, công kích         các bậc Thánh, có tà kiến, thọ trì nghiệp phù hợp với tà kiến, các vị         ấy sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi ngạ quỹ (pettivisaya). Hay         các hữu tình này, do thành tựu thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành,         công kích các bậc Thánh, có tà kiến, thọ trì nghiệp phù hợp tà kiến,         các hữu tình sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào các loại bàng sanh.         Hay các hữu tình này, do thành tựu thân ác hành... (như trên)... Sau khi         thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, Địa ngục". Này các Tỷ-kheo, các người coi giữ         Địa ngục, sau khi bắt giữ người ấy với nhiều cánh tay, dẫn người         ấy đến trước vua Yama (và thưa): "- Tâu Đại vương, người này         không có từ tâm, không xứng là Sa-môn, không xứng là Bà-la-môn, không         kính trọng các vị lớn tuổi trong gia đình. Đại vương hãy trừng phạt         nó ! Này các Tỷ-kheo, vua Yama, chất vấn         người ấy, cật vấn, thẩm vấn người ấy về Thiên sứ thứ nhất :         "Này người kia, Ngươi có thấy Thiên sứ thứ nhất đã hiện ra giữa         loài Người không ?" Người ấy nói : "Thưa Ngài,         không thấy". Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy: "Này         Người kia, Ngươi có thấy giữa loài Người có đứa con nít nhỏ, yếu         ớt, nằm ngửa, nằm rơi vào giữa phân và nước tiểu của nó hay không         ?" Người ấy đáp : "Thưa Ngài, có thấy". Rồi này các Tỷ-kheo,         vua Yama nói với người ấy : "Này người kia, tuy Ngươi là người có         ý thức và lớn tuổi, nhưng Ngươi không có nghĩ : "Ta bị sanh chi phối,         ta không thoát khỏi sanh; ta hãy làm điều thiện về thân, khẩu và ý"         Người ấy đáp : "Thưa Ngài, tôi không có thể làm, vì tôi phóng dật".         Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy : "Này người kia, nếu         vì phóng dật nên Ngươi không làm điều thiện về thân, khẩu, ý; chắc         chắn chúng sẽ làm cho Ngươi, này Người kia, tùy theo sự phóng dật ấy của         Ngươi. Vì rằng đây là một ác nghiệp của Ngươi, không phải do mẹ         làm, không phải do cha làm, không phải do anh làm, không phải do chị làm,         không phải do bạn và thân hữu làm, không phải do bà con huyết thống         làm, không phải do Sa-môn, Bà-la-môn làm, không phải do chư Thiên làm. Ác         nghiệp ấy chính do Ngươi làm, chính Người phải cảm thọ quả báo việc         làm ấy". Này các Tỷ-kheo, sau khi chất vấn,         cật vấn và thẩm vấn người kia về Thiên sứ thứ nhất, vua Yama mới chất         vấn, cật vấn, thẩm vấn về Thiên sứ thứ hai: "Này người kia,         Ngươi có thấy giữa loài Người, Thiên sứ thứ hai hiện ra không ?"         Người ấy đáp : "Thưa Ngài, không thấy". Rồi này các Tỷ-kheo,         vua Yama nói với người kia : "Này Người kia, Ngươi có thấy người đàn         bà hay người đàn ông tám mươi tuổi, hay chín mươi tuổi, hay một trăm         tuổi, già yếu, cong như nóc nhà, lưng còm, chống gậy, vừa đi vừa run, bệnh         hoạn, tuổi trẻ đã qua mất, răng rụng, tóc sói, da nhăn, run rẩy, với         tay chân bạc màu ?" Người ấy đáp : "Thưa Ngài, có thấy". Rồi         này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy : "Này Người kia, tuy         Ngươi là người có ý thức và lớn tuổi, nhưng Ngươi không có nghĩ :         "Ta bị già chi phối, ta không thoát khỏi già; ta hãy làm điều thiện         về thân, khẩu và ý" Người ấy đáp : "Thưa Ngài, tôi không có         thể làm, vì tôi phóng dật, thưa Ngài". Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama         nói với người ấy : "Này Người kia, nếu vì phóng dật nên Ngươi không         làm điều thiện về thân, khẩu, ý; chắc chắn chúng sẽ làm cho Ngươi, này         Người kia, tùy theo sự phóng dật của Ngươi. Vì rằng đây là một ác         nghiệp của Ngươi, không phải do mẹ làm, không phải do cha làm, không phải         do anh làm, không phải do chị làm, không phải do bạn và thân hữu làm,         không phải do bà con huyết thống làm, không phải do Sa-môn, Bà-la-môn làm,         không phải do chư Thiên làm. Ác nghiệp ấy chính do Ngươi làm, chính Ngươi         phải cảm thọ quả báo sự làm ấy". Này các Tỷ-kheo, sau khi chất vấn,         cật vấn, thẩm vấn người kia về Thiên sứ thứ hai, vua Yama mới chất vấn,         cật vấn, thẩm vấn về Thiên sứ thứ ba : "Này Người kia, Ngươi có         thấy giữa loài Người, Thiên sứ thứ ba hiện ra không ?" Người ấy         đáp : "Thưa Ngài không thấy". Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với         người kia: "Này Người kia, Người có thấy người đàn bà hay người         đàn ông bị bệnh hoạn, khổ não, bị bệnh trầm trọng rơi nằm vào         trong nước tiểu và phần của mình, cần người khác nâng dậy, cần người         khác dìu nằm xuống ?" Người ấy đáp : "Thưa Ngài, có thấy".         Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với nó : "Này Người kia, tuy Ngươi         là người có ý thức và lớn tuổi, nhưng Ngươi không có nghĩ : "Ta bị         bệnh chi phối, ta không thoát khỏi bệnh; ta hãy làm điều thiện về thân,         khẩu và ý". " Người ấy đáp : "Thưa Ngài, tôi không có thể         làm, vì tôi phóng dật, thưa Ngài". Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với         người ấy : "Này Người kia, nếu vì phóng dật nên Ngươi không làm         điều thiện, về thân, khẩu, ý; chắc chắn chúng sẽ làm cho Ngươi, này         Người kia, tùy theo sự phóng dật của Ngươi. Vì rằng đây là một ác         nghiệp của Ngươi, không phải do mẹ làm, không phải do cha làm, không phải         do anh làm, không phải do chị làm, không phải do bạn bè thân hữu làm,         không phải do bà con huyết thống làm, không phải do Sa-môn, Bà-la-môn làm,         không phải do chư Thiên làm. Ác nghiệp ấy chính do Ngươi làm, chính Ngươi         phải cảm thọ quả báo việc làm ấy". Này các Tỷ-kheo, sau khi chất vấn,         cật vấn thẩm vấn người kia về Thiên giới thứ ba, vua Yama mới chất vấn,         cật vấn, thẩm vấn về chư Thiên thứ tư : "Này người kia, Ngươi có         thấy giữa loài Người Thiên sứ thứ tư hiện ra không ?" Người ấy         đáp: "Thưa Ngài, không thấy". Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với         người kia : "Này người kia, Ngươi có thấy giữa loài Người, các vua         chúa sau khi bắt được tên trộm cướp có phạm tội, liền áp dụng nhiều         hình phạt sai khác. Họ đánh bằng roi, họ đánh bằng gậy... (như trên)...         họ lấy gươm chặt đầu". Người ấy nói : "Thưa Ngài, có thấy".         Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy : "Này Người kia,         tuy Ngươi là người có ý thức và lớn tuổi, nhưng Ngươi không có nghĩ :         "Thật sự những ai làm các ác nghiệp, họ phải chịu những hình phạt         sai khác, ngay trong hiện tại như vậy, huống nữa là về đời sau ! Ta hãy         làm điều thiện về thân, khẩu, ý". Người ấy đáp : "Thưa Ngài,         tôi không có thể làm, vì tôi phóng dật, thưa Ngài". Rồi này các Tỷ-kheo,         vua Yama nói với nó : "Này Người kia, nếu vì phóng dật nên Ngươi không         làm điều thiện về thân, khẩu, ý; chắc chắn họ sẽ làm cho Ngươi, này         người kia, tùy theo sự phóng dật của Ngươi. Vì rằng đây là một ác         nghiệp của Ngươi, không phải do mẹ làm, không phải do cha làm, không phải         do anh làm, không phải do chị làm, không phải do bạn bè thân hữu làm,         không phải do bà con huyết thống làm, không phải do Sa-môn, Bà-la-môn làm,         không phải do chư Thiên làm. Ác nghiệp ấy chính do Ngươi làm, chính Ngươi         phải cảm thọ quả báo việc làm ấy". Này các Tỷ-kheo, sau khi chất vấn,         cật vấn, thẩm vấn người kia về Thiên giới thứ tư, vua Yama mới chất         vấn, cật vấn, thẩm vấn về Thiên giới thứ năm : "Này Người kia,         Ngươi có thấy giữa loài Người Thiên sư thứ năm hiện ra không ? "Người         ấy đáp : "Thưa Ngài, không thấy". Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama         nói với người ấy : "Này Người kia, Ngươi có thấy giữa loài Người,         người đàn bà hay người đàn ông chết đã được một ngày, hai ngày hay         ba ngày, sưng phồng lên, xanh xám lại, rữa nát ra ?" Người ấy nói :         "Thưa Ngài, có thấy". Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người         ấy : "Này Người kia, tuy Ngươi là người có ý thức và lớn tuổi,         nhưng Ngươi không có nghĩ : "Ta bị chết chi phối, ta không thoát khỏi         chết; ta hãy làm điều thiện về thân, khẩu và ý". Người ấy đáp         : "Thưa Ngài, tôi không có thể làm, vì tôi phóng dật, thưa Ngài".         Rồi này các Tỷ-kheo, vua Yama nói với người ấy : "Này Người kia, nếu         vì phóng dật nên Ngươi không làm điều thiện, về thân, khẩu ý; chắc         chắn chúng sẽ làm cho Ngươi, này Người kia, tùy theo phóng dật của Ngươi.         Vì rằng đây là một ác nghiệp của Ngươi, không phải do mẹ làm, không         phải do cha làm, không phải do anh làm, không phải do chị làm, không phải         do bạn bè thân hữu làm, không phải do bà con huyết thống làm, không phải         do Sa-môn, Bà-la-môn làm, không phải do chư Thiên làm. Ác nghiệp ấy chính         là Ngươi làm, chính Ngươi phải cảm thọ quả báo việc làm ấy". Rồi này các Tỷ-kheo, sau khi chất         vấn, cật vấn, thẩm vấn, người ấy về Thiên sứ thứ năm, vua Yama giữ         im lặng. Rồi này các Tỷ-kheo, các người         coi giữ Địa ngục bắt người ấy chịu hình phạt gọi là năm cọc         (Pancavidhabandhanam), họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào một bàn tay, họ         lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào bàn tay thứ hai, họ lấy cọc sắt nung         đỏ đóng vào bàn chân, họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào bàn chân thứ         hai, họ lấy cọc sắt nung đỏ đóng vào giữa ngực, Người ấy ở đây         thọ lãnh các cảm giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người         ấy không có thể mệnh chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa         được tiêu trừ. Này các Tỷ-kheo, các người coi giữ Địa ngục bắt         người ấy nằm xuống và lấy búa chặt người ấy. Người ấy ở đây         thọ lãnh các cảm giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người         ấy không có thể mệnh chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa         được tiêu trừ. Này các Tỷ-kheo, các người giữ Địa ngục dựng ngược         người ấy chân phía trên, đầu phía dưới và lấy búa chặt người ấy.         Người ấy ở đây cảm thọ.. chưa tiêu trừ. Này các Tỷ-kheo, các người         giữa Địa ngục cột người ấy vào một chiếc xe, kéo người ấy chạy         tới chạy lui trên đất được đốt cháy đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ         rực. Người ấy ở đây cảm thọ... chưa được tiêu trừ. Rồi này các         Tỷ-kheo các người giữ Địa ngục đẩy người ấy lên, kéo người ấy         xuống một sườn núi đầy than hừng, cháy đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ         rực. Người ấy ở đây cảm thọ... chưa được tiêu trừ. Rồi này các         Tỷ-kheo các người giữ Địa ngục dựng ngược người ấy chân phía         trên, đầu phía dưới và quăng người ấy vào một vạc dầu bằng đồng         nung đỏ, cháy đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ rực. Người ấy ở đây bị         nấu với bọt nước sôi sùng sục, ở đây bị nấu với bọt nước sôi         sùng sục, khi thì trôi nổi lên trên, khi thì chìm xuống đáy, khi thì trôi         dạt ngang. Người ấy ở đây thọ lãnh các cảm giác đau đơn, thống khổ,         khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mệnh chung cho đến khi ác nghiệp         của người ấy chưa được tiêu trừ. Rồi này các Tỷ-kheo, những người         giữ Địa ngục quăng vào Đại địa ngục. Này các Tỷ-kheo, Đại địa         ngục ấy có bốn góc, bốn cửa, chia thành phần bằng nhau, xung quanh có tường         sắt mái sắt lợp lên trên. Nền Địa ngục bằng sắt nung đỏ, chảy đỏ         rực, đứng thẳng, luôn có mặt, rộng một trăm do tuần. Này các Tỷ-kheo, từ tường phía         Đông của Đại địa ngục ấy, những ngọn lửa bừng cháy lên được thổi         tạt đến tường phía Tây. Những ngọn lửa bừng cháy lên từ tường phía         Tây được thổi tạt đến tường phía Đông. Những ngọn lửa bừng cháy         lên từ tường phía Bắc được thổi tạt đến tường phía Nam. Những ngọn         lửa bừng cháy lên từ tường phía Nam được thổi tạt đến tường phía         Bắc. Những ngọn lửa bừng cháy lên từ phía Dưới, được thổi tạt lên         phía Trên. Những ngọn lửa bừng cháy lên từ phía Trên, được thổi tạt         xuống phía Dưới. Người ấy ở đây cảm thọ những cảm giác đau đớn,         thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mệnh chung cho đến         khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ. Này các Tỷ-kheo, rồi có một thời         rất lâu dài, khi cửa phía Đông của Đại địa ngục được mở ra. Người         ấy chạy vào đấy rất nhanh và mau lẹ. Khi người ấy chạy rất nhanh và         mau lẹ, da ngoài bị cháy, da trong bị cháy, thịt bị cháy, dây gân bị         cháy, xương bị khói xông đen. Sự trốn thoát của người ấy là như vậy.         Này các Tỷ-kheo, dù cho người ấy có cố gắng rất nhiều, cửa vẫn đóng         chống lại người ấy. Tại đây người ấy cảm thọ những cảm giác         đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mệnh         chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ. Rồi này các Tỷ-kheo, có một thời         rất lâu dài, khi cửa phía Tây được mở... (như trên)... cửa phía Bắc         được mở... (như trên)... cửa phía Nam được mở. Người ấy liền chạy         vào đấy rất nhanh và mau lẹ. Khi người ấy chạy rất nhanh và mau lẹ,         da ngoài bị cháy, da trong bị cháy, thịt bị cháy, dây gân bị cháy, xương         bị khói xông đen. Sự trốn thoát của người ấy là như vậy. Này các Tỷ-kheo,         dầu cho người ấy có cố gắng rất nhiều, cửa vẫn đóng chống lại người         ấy. Tại đây người ấy cảm thọ những cảm giác đau đớn, thống khổ,         khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mệnh chung cho đến khi các ác         nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ. Rồi này các Tỷ-kheo, có một         thời rất lâu dài, khi cửa phía Đông được mở ra, người ấy liền chạy         vào đấy rất nhanh và mau lẹ... (như trên)... sự trốn thoát của người         ấy là như vậy. Người ấy đi ra khỏi cửa Địa         ngục ấy. Nhưng này các Tỷ-kheo, cận sát Đại         địa ngục là Đại Phấn nị Địa ngục (Guthaniraya). Người ấy rơi vào         Địa ngục này. Này các Tỷ-kheo, tại Phấn nị Địa ngục ấy, các chúng         sanh với miệng như mũi kim cắt đứt da ngoài; sau khi cắt đứt da ngoài,         chúng cắt đứt da trong; sau khi cắt dứt da trong, chúng cắt đứt thịt;         sau khi cắt đứt thịt, chúng cắt đứt dây gân; sau khi cắt đứt dây         gân, chúng cắt đứt xương; sau khi cắt đứt xương, chúng cắt đứt         xương tủy. Ở đây, người ấy cảm thọ những cảm giác đau đớn, thống         khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mệnh chung cho đến khi         ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ. Nhưng này các Tỷ-kheo, cận sát Đại         địa ngục Phấn nị ấy là Đại địa ngục Nhiệt khôi (Than hừng-Kukkulaniraya).         Người ấy rơi vào ở đấy. Ở đấy, người ấy cảm thọ những cảm giác         đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không thể mệnh chung         cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ. Nhưng này các Tỷ-kheo, cận sát Đại         địa ngục Nhiệt khôi là Đại Châm thọ lâm (Sambalivanam) cao một do tuần,         với những gai nhọn dài mười sáu ngón tay, cháy đỏ, cháy thành ngọn,         cháy đỏ rực. Họ bắt người ấy leo lên, leo xuống. Ở đấy người ấy         cảm thọ những cảm giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người         ấy không có thể mệnh chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa         được tiêu trừ. Nhưng này các Tỷ-kheo, cận sát         Châm thọ lâm là Đại Kiếm diệp lâm (Rừng lá gươm-Asipattavanta). Người         ấy vào trong ấy. Ở đấy, các lá cây, do gió lay động, cắt đứt tay của         người ấy, cắt đứt chân, cắt đứt tay chân, cắt đứt tai, cắt đứt         mũi, cắt đứt tai mũi. Ở đây, người ấy cảm thọ những cảm giác đau         đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mạng chung         cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ. Nhưng này các Tỷ-kheo, cận sát Kiếm         diệp lâm là Đại Khôi hà (Sông vôi-Kharodakanadi). Người ấy rơi vào trong         ấy. Tại đấy người ấy bị trôi thuận theo dòng nước, người ấy bị         trôi ngược lại dòng nước người ấy trôi thuận theo, ngược lại dòng         nước. Tại đấy người ấy cảm thọ những cảm giác đau đớn, thống         khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mệnh chung, cho đến khi         ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ. Rồi này các Tỷ-kheo, những người         coi giữ Địa ngục, câu người ấy lên với móc câu, đặt người ấy trên         đất và nói với người ấy : "Này Người kia, Ngươi muốn gì ?"         Người ấy nói : "Thưa các Ngài, tôi đói bụng". Rồi này các Tỷ-kheo,         các người coi giữ Địa ngục lấy cọc sắt nung đỏ cạy miệng người         ấy và nhét vào miệng người ấy những cục đồng nung đỏ, cháy đỏ,         cháy thành ngọn, cháy đỏ rực. Môi người ấy bị cháy, miệng bị cháy,         cổ họng bị cháy, ngực bị cháy. Và kéo theo một ruột lớn, ruột nhỏ,         các cục đồng ấy rơi ra ngoài từ phía dưới. Ở đấy, người ấy cảm         thọ những cảm giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy         không có thể mạng chung, cho đến khi ác nghiệp của nó chưa được tiêu         trừ. Rồi này các Tỷ-kheo, các người         coi giữ Địa ngục nói với người ấy : "Này Người kia, Ngươi muốn         gì ?" Người ấy nói : "Thưa các Ngài, tôi khát nước". Rồi này         các Tỷ-kheo, các người coi giữ Địa ngục lấy cọc sắt nung đỏ cạy         miệng người ấy ra, và đổ vào miệng người ấy nước đồng nấu sôi,         cháy đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ rực. Môi ngươi ấy bị cháy, miệng         bị cháy, cổ họng bị cháy, ngực bị cháy. Và kéo theo ruột lớn, ruột         nhỏ (nước đồng sôi ấy) chảy ra ngoài từ phía dưới. Người ấy ở         đấy cảm thọ những cảm giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng         người ấy không có thể mạng chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy         chưa được tiêu trừ. Rồi này các Tỷ-kheo, các người         coi giữ Địa ngục lại quăng người ấy vào Đại địa ngục. Một thời xưa lắm, này các Tỷ-kheo,         vua Yama suy nghĩ như sau : "Những ai làm ác nghiệp ở đời, phải thọ         lãnh những hình phạt sai khác như vậy. Mong rằng ta được làm người, và         Như lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở đời, và ta có thể         hầu hạ Thế Tôn, và Thế Tôn thuyết pháp cho ta, và ta có thể thông hiểu         pháp Thế Tôn thuyết giảng". Này các Tỷ-kheo, điều Ta đang nói         không phải Ta nghe từ một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác; nhưng điều Ta         đang nói chỉ được Ta biết mà thôi, chỉ được Ta thấy mà thôi, chỉ         được Ta hiểu mà thôi. Thế Tôn thuyết giảng như vậy.         Sau khi Thiện thệ nói như vậy, bậc Đạo Sư lại nói thêm như sau :
