Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại         Jetavana, tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: – Này các Tỷ-kheo ! – Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Những vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế         Tôn. Thế Tôn giảng như sau: – Này các Tỷ-kheo, có bốn loại         pháp hành này. Thế nào là bốn? Này các Tỷ-kheo, có loại pháp hành hiện         tại lạc, tương lai quả báo khổ. Này các Tỷ-kheo, có loại pháp hành hiện         tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ. Này các Tỷ-kheo, có loại pháp         hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc. Này các Tỷ-kheo, có loại         pháp hành hiện tại lạc, và tương lai quả báo cũng lạc. Này các Tỷ-kheo, thế nào là loại         pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ? Này các Tỷ-kheo, có mọt         số Sa-môn thuyết như sau, có sở kiến như sau: "Không có lỗi trong         các dục". Những vị này đắm mình trong các dục, hoan lạc với các         cô gái lang thang có tóc quấn trên đầu. Họ nói như sau: "Làm sao các         Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn kia thấy sự sợ hãi tương lai củ ác dục, nói         đến sự đoạn trừ các dục, nêu lên sự hiểu biết về các dục. Khoái         lạc thay, sự xúc chạm với bàn tay có lông mịn củ ác cô gái lang thang         trẻ trung này!" Sau khi đắm mình trong các dục, khi thân hoại mạng         chung, các vị ấy phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.         Ở đây, họ cảm thọ những cảm giác đau khổ, thống khổ, khốc liệt.         Họ nói như sau: "Các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn này thấy sự sợ hãi         tương lai củ ác dục, nói đến sự đoạn trừ các dục, nêu lên sự hiểu         biết về các dục. Nhưng chúng ta, do các dục này làm nhân, do các dục         này làm duyên, phải cảm thọ những cảm giác đau khổ, thống khổ, khốc         liệt". Này các Tỷ-kheo, ví như vào cuối tháng mùa nóng, một bẹ hột         giống cây leo nứt ra và này các Tỷ-kheo, một hột giống cây leo rơi dưới         gốc một cây sala. Này các Tỷ-kheo, các vị thần ở trên cây sala ấy lo sợ,         run sợ, và hoảng sợ. Bạn bè thân hữu, bà con huyết thống các vị thần         trên cây sala ấy, thần vườn, thần rừng, thần cây, thần các dược thảo,         cỏ, rừng hội họp lại, an ủi như sau: "Này Tôn giả, chớ có sợ         hãi! Này Tôn giả, chớ có sợ hãi! Vì hạt giống ấy, con khổng tước có         thể nuốt, con nai có thể ăn, lửa rừng có thể đốt, người làm rừng         có thể nhặt đi, các loài mối có thể ăn, hay hạt giống có thể không nẩy         mầm". Nhưng này các Tỷ-kheo, hạt giống ấy, con khổng tước không nuốt,         con nai không ăn, lửa rừng không đốt, người làm rừng không nhặt đi, các         loài mối không ăn, và hạt giống có thể nẩy mầm. Được mưa lớn nhờ         các làn mây đúng mùa, hạt giống ấy được lớn lên, và một dây leo trẻ,         mềm mại, có lông, chậm chậm mọc lên và bám dính cây sala ấy. Này các         Tỷ-kheo, các vị thần trên cây sala ấy suy nghĩ như sau: "Không hiểu         vì sao các Tôn giả bạn bè thân hữu, bà con huyết thống ấy, các thần vườn,         thần rừng, thần cây, các vị thần trên các dược thảo, cỏ, rừng, thấy         sự sợ hãi tương lai trong hột giống, hội họp lại, an ủi như sau:         "Này Tôn giả, chớ có sợ hãi! Này Tôn giả chớ có sợ hãi! Vì hột         giống ấy, con khổng tước có thể nuốt, con nai có thể ăn, lửa rừng có         thể đốt, những người làm rừng có thể nhặt đi, các loài mối có thể         ăn, hay hạt giống có thể không nẩy mầm". Khoái lạc thay sự xúc chạm         củ ây leo trẻ trung mềm mại, có lông đang bám vào!" Cây leo ấy có         thể bao trùm cây sala ấy, sau khi bao trùm, liền làm thành một tàn che trên         cây ấy, và ở dưới khởi lên cả một lùm cây rậm rạp. Khi ở dưới         khởi lên cả một lùm cây rậm rạp, các cành lớn củ ây sala ấy có thể         bị bóp nghẹt. Rồi này các Tỷ-kheo, các thần trú trên cây sa la ấy suy         như sau: "Chính vì thấy sự sợ hãi tương lai này, trong hột giống         cây leo ấy mà những Tôn giả, bạn bè thân hữu, bà con huyết thống ấy,         các thần vườn, thần rừng, thần cây, các vị thần ở trên các dược         thảo, cỏ, rừng, đã hội họp lại và an ủi như sau: "Này Tôn giả         chớ có sợ hãi! Này Tôn giả, chớ sợ hãi! Vì hạt giống ấy, con khổng         tước có thể nuốt, con nai có thể ăn, lửa rừng có thể đốt, những         người làm rừng có thể nhặt đi, các loài mối có thể ăn, hay hạt giống         có thể không nẩy mầm". Và nay ta, vì nguyên nhân hạt giống cây leo,         cảm thọ những cảm giác đau khổ, thống khổ, khốc liệt". Cũng vậy,         này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn thuyết như sau, có sở kiến         như sau: "Không có lỗi trong các dục". Những vị này đắm mình         trong các dục, họ hoan lạc với các cô gái lang thang có tóc quấn trên đầu.         Họ nói như sau: "Làm sao các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy thấy sự sợ         hãi tương lai củ ác dục, nói đến sự đoạn trừ các dục, nêu lên sự         hiểu biết về các dục. Khoái lạc thay, sự xúc chạm với bàn tay có         lông mịn củ ô gái lang thang trẻ trung này!" Sau khi đắm mình trong         các dục, khi thân hoại mạng chung, họ phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa         xứ, địa ngục. Ở đây, họ cảm thọ những cảm giác đau khổ, thống         khổ, khốc liệt. Họ nói như sau: "Các Tôn giả Sa-môn, Bà-la-môn ấy         thấy sự sợ hãi tương lai củ ác dục, nói đến sự đoạn trừ các dục,         nêu lên sự hiểu biết về các dục. Nhưng chúng ta, vì nhân các dục này,         vì duyên các dục này, phải cảm thọ những cảm giác đau khổ, thống khổ,         khốc liệt". Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là pháp hành hiện tại lạc,         tương lai quả báo khổ. Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp         hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ? Ở đây, này các Tỷ-kheo,         có người sống lõa thể, sống phóng túng, không theo lễ nghi, liếm tay cho         sạch, đi khất thực không chịu bước tới, đi khất thực không chịu đứng         lại, không nhận đồ ăn mang đến, không nhận đồ ăn đặc biệt nấu         cho mình, không nhận mời đi ăn, không nhận đồ ăn từ nơi nồi chảo, không         nhận đồ ăn đặt tại ngưỡng cửa, không nhận đồ ăn đặt giữa những         cây gậy, không nhận đồ ăn đặt giữa những cối giã gạo, không nhận         đồ ăn từ hai người đang ăn, không nhận đồ ăn từ người đàn bà có         thai, không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang cho con bú, không nhận đồ         ăn từ người đàn bà đang giao cấu, không nhận đồ ăn đi quyên, không         nhận đồ ăn tại chỗ có chó đứng, không nhận đồ ăn tại chỗ có ruồi         bu, không ăn cá, ăn thịt, không uống rượu nấu, rượu men, cháo cám. Vị         ấy chỉ nhận ăn tại một nhà, chỉ nhận ăn một miếng, hay vị ấy chỉ         nhận ăn tại hai nhà, chỉ nhận ăn hai miếng, hay vị ấy chỉ nhận ăn tại         bảy nhà, vị ấy chỉ nhận ăn bảy miếng. Vị ấy nuôi sống chỉ với một         bát, nuôi sống chỉ với hai bát, nuôi sống chỉ với bảy bát. Vị ấy chỉ         ăn một ngày một bữa, hai ngày một bữa, bảy ngày một bữa. Như vậy vị         ấy sống theo hạnh tiết chế ăn uống cho đến nửa tháng mới ăn một lần.         Vị ấy chỉ ăn cỏ lúa để sống, lúa tắc, gạo lức, ăn hột cải         nivara, ăn da vụn, ăn cám, uống nước bột gạo, ăn bột vừng, ăn cỏ,         ăn phân bò, ăn trái cây, ăn rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống.         Vị ấy mặc vải gai thô, mặc vải gai thô lẫn với các vải khác, mặc vải         tẩm liệm quăng đi, mặc vải phấn tảo y, mặc vỏ cây tikitaka làm áo, mặc         d on sơn dương đen, mặc áo bện từng mảnh d on sơn dương đen, mặc áo bằng         cỏ cát tường, mặc áo vỏ cây, mặc áo bằng tấm gỗ nhỏ, mặc áo bằng         tóc bện lại thành mền, mặc áo bằng đuôi ngựa bện lại, mặc áo bằng         lông cú. Vị ấy là người sống nhổ râu tóc, là người tập tục sống         nhổ râu tóc, là người theo hạnh thường đứng không dùng chỗ ngồi, là         người ngồi chò hỏ, sống theo hạnh ngồi chò hỏ một cách tinh tấn, là         người dùng gai làm giường, thường ngủ nằm trên giường gai, sống dùng         ván gỗ làm giường, sống nằm trên đất trần, thường nằm ngủ một bên         hông, sống để bụi và nhớp che dấu thân mình, sống và ngủ ngoài trời,         theo hạnh bạ đâu nằm đấy, sống ăn các uế vật, theo hạnh ăn các uế         vật, sống không uống nước lạnh, theo hạnh không uống nước lạnh, sống         một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm (để gột sạch tội lỗi).         Như vậy, vị ấy sống theo hạnh hành hạ xác thân dưới nhiều hình thức         như vậy. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ, ác         thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là         pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ. Này các Tỷ-kheo,         thế nào là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc? Ở đây,         này các Tỷ-kheo, có người tự tánh sanh ra quá nặng về tham ái, luôn         luôn cảm thọ những cảm giác khổ ưu do tham ái sanh; có người tự tánh         sanh ra quá nặng về sân hận, luôn luôn cảm thọ những cảm giác khổ ưu         do sân hận sanh; có người tự tánh sanh ra quá nặng về si mê, luôn luôn cảm         thọ những cảm giác khổ ưu do si mê sanh. Với khổ và với ưu, với mặt         đầy nước mắt và khóc than, vị ấy sống theo phạm hạnh, hoàn toàn đầy         đủ trong sạch. Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh thiện thú,         Thiên giới, cõi đời này. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là pháp         hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc. Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp         hành hiện tại lạc và tương lai quả báo cũng lạc? Ở đây, này các Tỷ-kheo,         có người tự tánh sanh ra không quá nặng về tham ái, không luôn luôn cảm         thọ những cảm giác khổ ưu do tham ái sanh; có người tự tánh sanh ra         không quá nặng về sân hận, không luôn luôn cảm thọ những cảm giác khổ         ưu do sân hận sanh; có người tự tánh sanh ra không quá nặng về si mê,         không luôn luôn cảm thọ những cảm giác khổ ưu do si mê sanh. Vị ấy ly         dục, ly các pháp bất thiện chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng         thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ; diệt tầm và tứ, chứng và         trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm         không tứ, nội tĩnh nhất tâm; ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân         cảm lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an         trú Thiền thứ ba; xả lạc và xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước,         chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.         Vị ấy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh thiện thú, Thiên giới,         cõi đời này. Như vậy này các Tỷ-kheo, được gọi là pháp hành hiện tại         lạc và tương lai quả báo cũng lạc. Này các Tỷ-kheo, như vậy là bốn loại         pháp hành. Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các         Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
