21. Xúc
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, khi con mắt thấy thì cái gì cảm thọ khổ vui có đồng thời nẩy sanh với tâm thần không?
-- Tâu Ðại vương, có. Hễ tâm thần nhận biết thì có căn cùng hiệp mới nẩy sanh cảm thọ.
-- Hiệp là thế nào?
-- Là hai đằng chạm nhau, xúc nhau.
-- Xin cho ví dụ.
-- Ví như hai con dế giao đấu với nhau, hay như hai bàn tay vỗ vào nhau. Hay như hai cái xập xỏa áp vào nhau. Một con dế trong hai con dế ví như con mắt; con dế kia ví như hình sắc. Ðối với hai bàn tay hoặc hai cái xập xỏa, cũng giống như thế. Phàm hai đằng chạm vào nhau, hiệp với nhau, thì gọi là Xúc. Con mắt với hình sắc, lỗ tai với âm thanh, lỗ mũi với mùi hương, cái lưỡi với mùi vị, thân thể với vật nhám trơn, ý nghĩa với tư tưởng, hễ có va chạm nhau, có hiệp lại với nhau thì thảy đều gọi là Xúc hết. Do đó mới sanh ra cảm thọ khổ vui của tâm thần, Xúc chính là cái gạch nối giữa hai bên.
22. Cảm thọ
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, cảm thọ vui là như thế nào?
-- Tâu Ðại vương, là tự mình nhận biết và hưởng thụ cái vui ấy.
-- Xin cho ví dụ.
-- Ví như có người lập được nhiều công trạng lớn lao với Ðại vương, Ðại vương lấy làm bằng lòng và ban cho nhiều vàng bạc của cải và phong cho chức tước cao sang. Ðược hưởng vinh hoa phú quý, người ấy tự lấy làm vui thích, bèn suy nghĩ rằng: "Nhờ tôi ra công giúp vua, được vua ban cho quyền cao bổng hậu, nên nay mới được hưởng lạc thú nầy, lạc thú kia."
Lại vì như có người bình sanh tâm thường niệm điều lành, miệng thường nói điều lành, thân thường làm điều lành. Sống một đời sống hiền hòa như thế, sau khi chết được thác sanh lên cõi trời. Tại đây, người ấy toại chí đến cực độ, nếm hết mọi điều khoái lạc, bèn suy nghĩ rằng: "Hồi còn ở thế gian, nhờ ăn ở hiền đức cho nên bây giờ mới được sanh lên đây và được hưởng tất cả các lạc thú như thế này."
Cảm thọ vui tức là tự mình nhận biết và hưởng thụ lấy cái vui ấy.
23. Giác
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, giác là như thế nào?
-- Tâu Ðại vương, cái đi theo cái biết là giác (tùng tri vi giác), tức là nhận rõ sự vật.
-- Xin cho ví dụ.
-- Ví như ông quan giữ kho, sau khi nhận lãnh chức vụ, bước vào kho vua, tự mình soát xét kiểm điểm từng món vàng bạc châu báu gấm vóc trong kho. Kiểm điểm xong thì nhận biết món nào để đâu, hình dáng ra sao, màu sắc thế nào, số lượng bao nhiêu. Như vậy gọi là giác.
24. Sở niệm
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, Sở niệm là như thế nào?
-- Tâu Ðại vương, là điều suy tư toan tính. Sở niệm tức tư tưởng. Vì phải có tư tưởng đã rồi mới có làm ác hay làm lành.
-- Xin cho ví dụ.
-- Ví như có người chế ra một chất thuốc độc. Sau khi chế xong, tự mình uống thuốc độc ấy và khiến người khác bắt chước uống theo. Như thế không những chỉ tự mình làm khổ mình mà còn làm khổ kẻ khác. Chế thuốc độc ví như tư tưởng ác. Mình uống và khiến người khác bắt chước uống theo, đó là làm việc ác. Người có tư tưởng ác, toan tính điều ác và làm điều ác, đến khi chết, chắc chắn phải đọa địa ngục. Những người bắt chước làm theo cũng đều không tránh khỏi ác báo ấy. Bởi vậy người ta thường hay nói: "Hễ tư-tưởng độc ác thì đưa đến hành động độc ác."
Ngược lại, nếu có người chế ra thức uống ngọt ngon bổ dưỡng, rồi tự mình uống lấy một cách sảng khoái. Kẻ khác bắt chước làm theo cũng được sảng khoái như thế. Chế thức uống ngọt ngon bỗ dưỡng ví như tư tưởng thiện. Mình uống và khiến kẻ khác bắt chước làm theo, đó là việc làm thiện. Ðến khi chết, cả hai đều được hưởng phước báo ở cõi trời. Bởi vậy cho nên người ta cũng thường hay nói: "Hễ tư tưỡng lương thiện thì đưa đến hành động lương thiện."
25. Nội động
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, nội động là như thế nào?
-- Tâu Ðại vương, là cái tư tưởng mong cầu xao xuyến trong nội tâm.
-- Khi có nội động thì phát hiện ra như thế nào? Xin cho ví dụ.
-- Ví như một chiếc trống đồng mà người ta đánh. Khi đánh, lòng trống rung lên và phát ra tiếng kêu cho đến khi hết đánh mà dư âm vẫn còn ngân vang. Lại ví như cái chảo đồng mà người ta dùng để nấu. Khi nấu, lòng chảo sôi bọt lên, nhưng khi bắc xuống khỏi lứa, tăm bọt còn sũi lăn tăn. Con người cũng thế. Sự mong cầu khiến nội tâm rung động, do đó tâm niệm dấy khởi. Lòng trống rung lên hoặc lòng chảo sũi bọt; đó là nội động. Nhưng khi ngưng đánh, thôi nấu, mà dư âm còn ngân, tăm bọt còn sủi lăn tăn. Con người cũng thế, sự mong cầu khiến nội tâm rung động, do đó tâm niệm dấy khởi. Lòng trống rung lên hoặc lòng chảo sủi bọt; đó là nội động. Nhưng khi ngưng đánh, thôi nấu, mà dư âm còn ngân, tăm bọt còn sủi, đó tức như dòng tâm niệm còn tiếp tục sau cuộc nội động do mong cầu nấu nung.
26. Nỗi lòng
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, tất cả năm cái nói trên là xúc, thọ, giác, sở niệm, và nội động, một khi dung hợp thành nỗi lòng rồi thì có cách gì phân tách riêng rẽ chúng ra mà vẫn giữ được đặc tánh riêmg của mỗi cái không? Chẳng hạn như sau khi phân tách riêng rẽ từng cái, rồi nói: đây là cái xúc, đây là cái thọ, đây là cái giác, đây là cái sở niệm, đây là cái nội động. Có thể như thế được chăng?
-- Tâu Ðại vương, đã khiến chúng dung hợp với nhau rồi thì không có cách gì chia cách chúng ra được.
-- Xin cho ví dụ.
-- Ví như người đầu bếp của Ðại vương nấu một món ăn dâng lên cho Ðại vương. Trong món ăn ấy có nếp, có sữa và có các đồ gia vị như muối, gừng, tiêu, ớt v.v. Nếu thấy món đồ ăn rồi mà Ðại vương liền phán với người đầu bếp kia rằng: "Anh hảy lấy riêng từng món: nếp, sữa, tiêu, muối v.v. ở trong món đồ ăn này mà đưa lên cho trẫm" thì thử hõi người đầu bếp có cách gì thi hành được lệnh Ðại vương chăng? Làm sao có thể rút riêng từng món gia vị để có thể nói được, đây là chất vị chua, kia là chất vị mặn, nọ là chất vị cay v.v.?
-- Thưa không, đã dung hợp rồi thì không lấy riêng ra được nữa.
-- Nỗi lòng gồm xúc, giác, sở niệm, và nội động cũng giống như thế.
27. Muối
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, người ta có thể nhìn muối mà biết được vị mặn của nó chăng?
-- Tâu Ðại vương, Ðại vương có nếm muối bằng mắt được không?
-- Thưa không.
-- Vâng, người ta có thể dùng lưỡi mà nếm mới biết vị mặn, chứ không ai dùng mắt mà làm việc ấy.
-- Bạch Ðại đức, thế thì bò kéo xe chở muối, có nhận biết được vị mặn của muối không?
-- Không.
-- Có thể dùng cân mà cân vị mặn của muối để biết vị mặn ấy nặng bao nhiêu không?
--Không, họa chăng chỉ có trí nhà vua mới cân được vị mặn của muối. Vì vị mặn không có trọng lượng. Chỉ có những gì có trọng lượng mới có thể dùng cân mà cân.
28. Duyên nghiệp của tri giác
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, trong thân con người, sự nhận biết của năm giác quan là do nhiều duyên nghiệp tựu thành hay chỉ do một duyên nghiệp mà thôi?
-- Tâu Ðại vương, một duyên nghiệp làm sao tựu thành được!
-- Xin cho ví dụ.
-- Ví như trong một cánh đồng trồng ngũ cốc. Khi ngũ cốc mọc mầm đâm chồi, giống nào hiện ra giống ấy, không thể lẫn lộn nhau được. Trong con người cũng thế. Sự nhận biết của năm giác quan do nhiều duyên nghiệp khác nhau mà có sanh ra.
29. Nguyên nhân bất bình đẳng giữa loài người
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, người ta sanh ra trên đời, ai cũng có thân thể với đầu, trán, râu, tóc, da, mặt, tai, mũi, lưỡi v.v. như nhau. Ai cũng có tứ chi gồm hai tay hai chân không khác nhau. Nhưng vì cớ gì mà có kẻ chết yểu, người sống lâu; kẻ hay ốm đau, người thường mạnh khỏe; kẻ giàu, người nghèo; kẻ quý, người tiện; kẻ ngu dốt, người thông minh; kẻ xấu hình, người tốt tướng; kẻ nói cuội nói trăng, ngưởi thật thà như đếm v.v. và v.v. Tại sao vậy?
-- Tâu Ðại vương, chẳng có gì là lạ. Kìa xem như trái cây trong vườn. Cũng từ cây lá sanh ra, nhưng có cây trái ăn ngon, có cây trái ăn dở. Trong số đó, lại có thứ đắng, thứ ngọt, thứ chua, thứ cay, thứ chát, thứ bùi v.v. Cũng đồng thời là trái cây, tại sao chúng chẳng giống nhau?
-- Chỉ tại hột giống không đồng.
-- Tâu Ðại vương, con người cũng thế. Bởi tư niệm và nghiệp duyên mỗi người mỗi khác, cho nên căn cơ không đồng, địa vị không đồng, và hưỡng thụ cũng không đồng. Do đó mới có kẻ xấu người đẹp, kẻ sang người hèn, kẻ ngu dốt, người thông minh v.v. Theo lời Phật dạy thì chỉ vì các tạo tác lành dữ đã thực hiện trong quá khứ có sai khác mà mỗi người tự có báo ứng riêng. Trước kia làm lành thì nay được phước; trước kia làm ác thì nay gặp họa. Nhân nào sanh quả nấy; quả nào theo nhân nấy; mãy may không sai.
-- Lành thay! Lành thay!!
30. Phải sớm làm điều lành
Vua hỏi:
-- Bạch Ðại đức, như có người muốn làm điều lành thì nên làm sớm hay đợi về sau sẽ làm?
-- Tâu Ðại vương, phải làm từ trước. Càng sớm càng được nhiều lợi ích. Nếu để quá muộn thì chẳng có công hiệu gì. Ví dụ như đợi cho khi khát nước bỏng cổ, rồi Ðại vương mới chịu sai người đào giếng thì làm sao có kịp nước nhỉ ra để Ðại vương giải khát? Có phải như thế không?
-- Vâng. Phải đào giếng từ trước.
-- Con người cũng vậy đó. Ðã định làm thì nên làm sớm đi. Chần chờ không ích gì mà còn có hại. Lại ví như đợi đến khi đói, Ðại vương mới chịu sai người cày cấy gieo trồng thì làm sao có lúa kịp chín để Ðại vương dùng?
-- Vâng, phải gieo trồng từ trước.
-- Con người cũng vậy đó. Phải làm điều lành khi còn có thì giờ. Chớ nên để bị thúc bách quá gấp rồi mới chịu làm, thì nào có ích gỉ? Lại ví như đợi có giặc đến, Ðại vương mới chịu sai quân binh luyện tập ngựa voi, rèn đúc khí giới, thao dượt binh mã, thử hỏi như thế thì có kịp ứng phó với giặc không? Hay là phải lo toan sắp đặt từ trước?
-- Phải lo toan từ trước mà còn chưa chắc đã kịp.
-- Tâu Ðại vương, chính vì vậy mà Phật có dạy rằng: "Phải nên tự mình sớm nhớ nghĩ làm điều lành. Chớ đừng để chậm trễ về sau, không ích lợi gì hết."
Na-Tiên lại nói tiếp:
-- Ðừng bỏ đường lớn phẳng phiu mà đi vào đường cong queo gập ghềnh. Chớ bắt chước kẻ ngu bỏ lành theo dữ, để rồi khóc lóc nỉ non khi lâm nạn. Phàm những ai bỏ điều trung chánh, chạy theo điều vạy cong, đến chừng cái chết rình bên lưng, biết hối hận thì đã quá trễ.