XXX. PHẨM SO SÁNH CÔNG ĐỨC
48
 Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên thuyết              tịnh lự Ba-la-mật-đa, nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tịnh              lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán thiệt giới hoặc thường, hoặc vô              thường; chẳng nên quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng              các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường.              Vì sao? Vì thiệt giới và tự tánh của thiệt giới là không; vị giới,              thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên              sanh ra và tự tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm              duyên sanh ra là không. Tự tánh của thiệt giới ấy tức chẳng phải là              tự tánh; tự tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên              sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì              tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, thiệt              giới chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng              thể nắm bắt được; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên              sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia              cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có thiệt              giới v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường              kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự              Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán thiệt giới hoặc lạc,              hoặc khổ, chẳng nên quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng              các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao?              Vì thiệt giới và tự tánh của thiệt giới là không; vị giới, thiệt              thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra              và tự tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh              ra là không. Tự tánh của thiệt giới ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự              tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra ấy              cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là              tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, thiệt giới              chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm              bắt được; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra đều              chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm              bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có thiệt giới v.v... có thể              nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng              tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán thiệt giới hoặc ngã,              hoặc vô ngã; chẳng nên quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc              cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã.              Vì sao? Vì thiệt giới và tự tánh của thiệt giới là không; vị giới,              thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên              sanh ra và tự tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm              duyên sanh ra là không. Tự tánh của thiệt giới ấy tức chẳng phải là              tự tánh; tự tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên              sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì              tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, thiệt              giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể              nắm bắt được; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra              đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể              nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có thiệt giới v.v... có              thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia! Nếu ngươi có              khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán thiệt giới hoặc tịnh,              hoặc bất tịnh; chẳng nên quán vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc              cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.              Vì sao? Vì thiệt giới và tự tánh của thiệt giới là không; vị giới,              thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm duyên              sanh ra và tự tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm              duyên sanh ra là không. Tự tánh của thiệt giới ấy tức chẳng phải là              tự tánh; tự tánh của vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên              sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì              tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, thiệt              giới chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng              thể nắm bắt được; vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên              sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng              chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có thiệt giới              v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia!              Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều như thế, đó là tuyên thuyết tịnh lự              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên thuyết              tịnh lự Ba-la-mật-đa, nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu tịnh              lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán thân giới hoặc thường, hoặc vô              thường; chẳng nên quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các              thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường. Vì              sao? Vì thân giới và tự tánh của thân giới là không; xúc giới, thân              thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra và              tự tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra              là không. Tự tánh của thân giới ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự              tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra ấy              cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là              tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, thân giới              chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể              nắm bắt được; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra              đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng              thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có thân giới v.v...              có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia! Nếu              ngươi có khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán thân giới hoặc lạc, hoặc              khổ, chẳng nên quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các              thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì              thân giới và tự tánh của thân giới là không; xúc giới, thân thức              giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra và tự              tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là              không. Tự tánh của thân giới ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh              của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra ấy cũng              chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự              Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, thân giới chẳng thể              nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được;              xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra đều chẳng thể              nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì              sao? Vì trong đó, còn không có thân giới v.v... có thể nắm bắt được,              huống là có cái lạc và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự như              thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán thân giới hoặc ngã, hoặc              vô ngã; chẳng nên quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc cùng các              thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì              thân giới và tự tánh của thân giới là không; xúc giới, thân thức              giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra và tự              tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra là              không. Tự tánh của thân giới ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh              của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra ấy cũng              chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự              Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, thân giới chẳng thể              nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được;              xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra đều chẳng thể              nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được.              Vì sao? Vì trong đó còn không có thân giới v.v... có thể nắm bắt              được, huống là có cái ngã và vô ngã kia! Nếu ngươi có khả năng tu              tịnh lự như thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán thân giới hoặc tịnh,              hoặc bất tịnh; chẳng nên quán xúc giới, thân thức giới và thân xúc              cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.              Vì sao? Vì thân giới và tự tánh của thân giới là không; xúc giới,              thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên sanh              ra và tự tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên              sanh ra là không. Tự tánh của thân giới ấy tức chẳng phải là tự              tánh; tự tánh của xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên              sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì              tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, thân              giới chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng              thể nắm bắt được; xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên              sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng              chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có thân giới              v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia!              Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều như thế, đó là tuyên thuyết tịnh lự              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết tịnh lự Ba-la-mật-đa, nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu              tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán ý giới hoặc thường, hoặc vô              thường; chẳng nên quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ              do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì ý              giới và tự tánh của ý giới là không; pháp giới, ý thức giới và ý xúc              cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của pháp giới cho              đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của ý giới              ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của pháp giới cho đến các thọ              do ý xúc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng              phải là tự tánh thì tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự              Ba-la-mật-đa này, ý giới chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô              thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được; pháp giới cho đến các thọ do              ý xúc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường,              vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn              không có ý giới v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái thường              và vô thường kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự như thế là tu              tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán ý giới hoặc lạc, hoặc              khổ, chẳng nên quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do              ý xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì ý giới và tự              tánh của ý giới là không; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các              thọ do ý xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của pháp giới cho đến các              thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của ý giới ấy tức              chẳng phải là tự tánh; tự tánh của pháp giới cho đến các thọ do ý              xúc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải              là tự tánh thì tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự              Ba-la-mật-đa này, ý giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ              kia cũng chẳng thể nắm bắt được; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc              làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia              cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có ý              giới v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia! Nếu              ngươi có khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán ý giới hoặc ngã, hoặc vô              ngã; chẳng nên quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do              ý xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì ý giới và              tự tánh của ý giới là không; pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng              các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của pháp giới cho đến              các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của ý giới ấy              tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của pháp giới cho đến các thọ do              ý xúc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng              phải là tự tánh thì tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự              Ba-la-mật-đa này, ý giới chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã              kia cũng chẳng thể nắm bắt được; pháp giới cho đến các thọ do ý xúc              làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã              kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có ý              giới v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia!              Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán ý giới hoặc tịnh, hoặc              bất tịnh; chẳng nên quán pháp giới, ý thức giới và ý xúc cùng các              thọ do ý xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì              ý giới và tự tánh của ý giới là không; pháp giới, ý thức giới và ý              xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của pháp giới              cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là không. Tự tánh của ý              giới ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của pháp giới cho đến các              thọ do ý xúc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu              chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh              lự Ba-la-mật-đa này, ý giới chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất              tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được; pháp giới cho đến các thọ do ý              xúc làm duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất              tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không              có ý giới v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất              tịnh kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự              Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều như thế, đó là tuyên thuyết tịnh lự              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết tịnh lự Ba-la-mật-đa, nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu              tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán địa giới hoặc thường, hoặc vô              thường; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc              thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì địa giới và tự tánh của địa giới              là không; thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tự tánh của thủy,              hỏa, phong, không, thức giới là không. Tự tánh của địa giới ấy tức              chẳng phải là tự tánh; tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức              giới ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì              tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, địa              giới chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng              thể nắm bắt được; thủy, hỏa, phong, không, thức giới đều chẳng thể              nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt              được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có địa giới v.v... có thể nắm              bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia! Nếu ngươi có khả              năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán địa giới hoặc lạc, hoặc              khổ, chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc lạc,              hoặc khổ. Vì sao? Vì địa giới và tự tánh của địa giới là không;              thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tự tánh của thủy, hỏa, phong,              không, thức giới là không. Tự tánh của địa giới ấy tức chẳng phải là              tự tánh; tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới ấy cũng              chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự              Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, địa giới chẳng thể              nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được;              thủy, hỏa, phong, không, thức giới đều chẳng thể nắm bắt được, thì              cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó,              còn không có địa giới v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái              lạc và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh              lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán địa giới hoặc ngã, hoặc              vô ngã; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc ngã,              hoặc vô ngã. Vì sao? Vì địa giới và tự tánh của địa giới là không;              thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tự tánh của thủy, hỏa, phong,              không, thức giới là không. Tự tánh của địa giới ấy tức chẳng phải là              tự tánh; tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới ấy cũng              chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự              Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, địa giới chẳng thể              nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được;              thủy, hỏa, phong, không, thức giới đều chẳng thể nắm bắt được, thì              cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó              còn không có địa giới v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái              ngã và vô ngã kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự như thế là tu              tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán địa giới hoặc tịnh, hoặc              bất tịnh; chẳng nên quán thủy, hỏa, phong, không, thức giới hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì địa giới và tự tánh của địa giới là              không; thủy, hỏa, phong, không, thức giới và tự tánh của thủy, hỏa,              phong, không, thức giới là không. Tự tánh của địa giới ấy tức chẳng              phải là tự tánh; tự tánh của thủy, hỏa, phong, không, thức giới ấy              cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là              tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, địa giới              chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm              bắt được; thủy, hỏa, phong, không, thức giới đều chẳng thể nắm bắt              được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao?              Vì trong đó, còn không có địa giới v.v... có thể nắm bắt được, huống              là có cái tịnh và bất tịnh kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự như              thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều như thế, đó là tuyên thuyết tịnh lự              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết tịnh lự Ba-la-mật-đa, nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu              tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán vô minh hoặc thường, hoặc vô              thường; chẳng nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái,              thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não hoặc thường, hoặc vô              thường. Vì sao? Vì vô minh và tự tánh của vô minh là không; hành,              thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu,              than, khổ, ưu, não và tự tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than,              khổ, ưu, não là không. Tự tánh của vô minh ấy tức chẳng phải là tự              tánh; tự tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não ấy              cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là              tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, vô minh              chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể              nắm bắt được; hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não đều chẳng              thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm              bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có vô minh v.v... có thể              nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia! Nếu ngươi có              khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán vô minh hoặc lạc, hoặc              khổ, chẳng nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ,              hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não hoặc lạc, hoặc khổ. Vì              sao? Vì vô minh và tự tánh của vô minh là không; hành, thức, danh              sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ,              ưu, não và tự tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não              là không. Tự tánh của vô minh ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh              của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não ấy cũng chẳng phải              là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự              Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, vô minh chẳng thể              nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được;              hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não đều chẳng thể nắm bắt              được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì              trong đó, còn không có vô minh v.v... có thể nắm bắt được, huống là              có cái lạc và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự như thế là              tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán vô minh hoặc ngã, hoặc              vô ngã; chẳng nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái,              thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não hoặc ngã, hoặc vô              ngã. Vì sao? Vì vô minh và tự tánh của vô minh là không; hành, thức,              danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than,              khổ, ưu, não và tự tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu,              não là không. Tự tánh của vô minh ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự              tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não ấy cũng chẳng              phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự              Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, vô minh chẳng thể              nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được;              hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não đều chẳng thể nắm bắt              được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao?              Vì trong đó còn không có vô minh v.v... có thể nắm bắt được, huống              là có cái ngã và vô ngã kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự như              thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán vô minh hoặc tịnh, hoặc              bất tịnh; chẳng nên quán hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái,              thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não hoặc tịnh, hoặc bất              tịnh. Vì sao? Vì vô minh và tự tánh của vô minh là không; hành,              thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu,              than, khổ, ưu, não và tự tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than,              khổ, ưu, não là không. Tự tánh của vô minh ấy tức chẳng phải là tự              tánh; tự tánh của hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não ấy              cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là              tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, vô minh              chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm              bắt được; hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não đều chẳng thể              nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được.              Vì sao? Vì trong đó, còn không có vô minh v.v... có thể nắm bắt              được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia! Nếu ngươi có khả năng tu              tịnh lự như thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều như thế, đó là tuyên thuyết tịnh lự              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết tịnh lự Ba-la-mật-đa, nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu              tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bố thí Ba-la-mật-đa hoặc              thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn,              tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao?              Vì bố thí Ba-la-mật-đa và tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không;              tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa và tự              tánh của tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không. Tự tánh              của bố thí Ba-la-mật-đa ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của              tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa ấy cũng chẳng phải là tự              tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối              với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt              được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được; tịnh              giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa đều chẳng thể nắm bắt được thì cái              thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong              đó, còn không có bố thí Ba-la-mật-đa v.v... có thể nắm bắt được,              huống là có cái thường và vô thường kia! Nếu ngươi có khả năng tu              tịnh lự như thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bố thí Ba-la-mật-đa hoặc              lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự,              Bát-nhã Ba-la-mật-đa hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì bố thí              Ba-la-mật-đa và tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không; tịnh giới,              an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa và tự tánh của tịnh              giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không. Tự tánh của bố thí              Ba-la-mật-đa ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của tịnh giới cho              đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng              phải là tự tánh thì tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự              Ba-la-mật-đa này, bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được, thì              cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được; tịnh giới cho đến              Bát-nhã Ba-la-mật-đa đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ              kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có              bố thí Ba-la-mật-đa v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc              và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự              Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bố thí Ba-la-mật-đa hoặc              ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh              lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì bố thí              Ba-la-mật-đa và tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không; tịnh giới,              an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa và tự tánh của tịnh              giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không. Tự tánh của bố thí              Ba-la-mật-đa ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của tịnh giới cho              đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng              phải là tự tánh thì tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự              Ba-la-mật-đa này, bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được, thì              cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được; tịnh giới cho đến              Bát-nhã Ba-la-mật-đa đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã              kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có bố              thí Ba-la-mật-đa v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và              vô ngã kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự              Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán bố thí Ba-la-mật-đa hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn,              tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì              bố thí Ba-la-mật-đa và tự tánh của bố thí Ba-la-mật-đa là không;              tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa và tự              tánh của tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa là không. Tự tánh              của bố thí Ba-la-mật-đa ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của              tịnh giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa ấy cũng chẳng phải là tự              tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối              với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt              được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được; tịnh              giới cho đến Bát-nhã Ba-la-mật-đa đều chẳng thể nắm bắt được thì cái              tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó,              còn không có bố thí Ba-la-mật-đa v.v... có thể nắm bắt được, huống              là có cái tịnh và bất tịnh kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự như              thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều như thế, đó là tuyên thuyết tịnh lự              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết tịnh lự Ba-la-mật-đa, nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu              tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp không nội hoặc thường,              hoặc vô thường; chẳng nên quán pháp không ngoại, pháp không nội              ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa,              pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không              không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp              không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp              không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không              không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc              thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì pháp không nội và tự tánh của              pháp không nội là không; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại,              pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không              hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên              giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản              tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả              pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp              không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh và tự tánh của pháp              không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh là không. Tự tánh              của pháp không nội ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của pháp              không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh ấy cũng chẳng phải              là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự              Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, pháp không nội chẳng              thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm              bắt được; pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh đều              chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể              nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có pháp không nội              v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia!              Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp không nội hoặc lạc,              hoặc khổ, chẳng nên quán pháp không ngoại, pháp không nội ngoại,              pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không              hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên              giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản              tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả              pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp              không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc lạc, hoặc khổ. Vì              sao? Vì pháp không nội và tự tánh của pháp không nội là không; pháp              không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không lớn,              pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp              không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn, pháp              không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp              không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm              bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không              không tánh tự tánh và tự tánh của pháp không ngoại cho đến pháp              không không tánh tự tánh là không. Tự tánh của pháp không nội ấy tức              chẳng phải là tự tánh; tự tánh của pháp không ngoại cho đến pháp              không không tánh tự tánh ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng              phải là tự tánh thì tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự              Ba-la-mật-đa này, pháp không nội chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc              và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được; pháp không ngoại cho đến              pháp không không tánh tự tánh đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái              lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn              không có pháp không nội v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái              lạc và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh              lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp không nội hoặc ngã,              hoặc vô ngã; chẳng nên quán pháp không ngoại, pháp không nội ngoại,              pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không              hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên              giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản              tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả              pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp              không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc ngã, hoặc vô ngã.              Vì sao? Vì pháp không nội và tự tánh của pháp không nội là không;              pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không              lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi,              pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn,              pháp không không đổi khác, pháp không bản tánh, pháp không tự tướng,              pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể              nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không              không tánh tự tánh và tự tánh của pháp không ngoại cho đến pháp              không không tánh tự tánh là không. Tự tánh của pháp không nội ấy tức              chẳng phải là tự tánh; tự tánh của pháp không ngoại cho đến pháp              không không tánh tự tánh ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng              phải là tự tánh thì tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự              Ba-la-mật-đa này, pháp không nội chẳng thể nắm bắt được, thì cái              ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được; pháp không ngoại cho              đến pháp không không tánh tự tánh đều chẳng thể nắm bắt được, thì              cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó              còn không có pháp không nội v.v... có thể nắm bắt được, huống là có              cái ngã và vô ngã kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự như thế là              tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán pháp không nội hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên quán pháp không ngoại, pháp không nội              ngoại, pháp không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa,              pháp không hữu vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không              không biên giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp              không bản tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp              không tất cả pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không              không tánh, pháp không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì pháp không nội và tự tánh của pháp              không nội là không; pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp              không không, pháp không lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu              vi, pháp không vô vi, pháp không rốt ráo, pháp không không biên              giới, pháp không tản mạn, pháp không không đổi khác, pháp không bản              tánh, pháp không tự tướng, pháp không cộng tướng, pháp không tất cả              pháp, pháp không chẳng thể nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp              không tự tánh, pháp không không tánh tự tánh và tự tánh của pháp              không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh là không. Tự tánh              của pháp không nội ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của pháp              không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh ấy cũng chẳng phải              là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự              Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, pháp không nội chẳng              thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt              được; pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh đều              chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm              bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có pháp không nội v.v... có              thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia! Nếu ngươi có              khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều như thế, đó là tuyên thuyết tịnh lự              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết tịnh lự Ba-la-mật-đa, nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu              tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán chơn như hoặc thường, hoặc vô              thường; chẳng nên quán pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng,              tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ              pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì hoặc              thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì chơn như và tự tánh của chơn như              là không; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi              khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế,              cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì và tự tánh của pháp giới              cho đến cảnh giới bất tư nghì là không. Tự tánh của chơn như ấy tức              chẳng phải là tự tánh; tự tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất              tư nghì ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì              tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, chơn              như chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng              thể nắm bắt được; pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì đều chẳng              thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm              bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có chơn như v.v... có thể              nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia! Nếu ngươi có              khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán chơn như hoặc lạc, hoặc              khổ, chẳng nên quán pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh              chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp,              thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì hoặc lạc, hoặc              khổ. Vì sao? Vì chơn như và tự tánh của chơn như là không; pháp              giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình              đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư              không, cảnh giới bất tư nghì và tự tánh của pháp giới cho đến cảnh              giới bất tư nghì là không. Tự tánh của chơn như ấy tức chẳng phải là              tự tánh; tự tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì ấy cũng              chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự              Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, chơn như chẳng thể              nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được;              pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì đều chẳng thể nắm bắt được,              thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong              đó, còn không có chơn như v.v... có thể nắm bắt được, huống là có              cái lạc và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự như thế là tu              tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán chơn như hoặc ngã, hoặc              vô ngã; chẳng nên quán pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng,              tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ              pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì hoặc ngã,              hoặc vô ngã. Vì sao? Vì chơn như và tự tánh của chơn như là không;              pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh              bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư              không, cảnh giới bất tư nghì và tự tánh của pháp giới cho đến cảnh              giới bất tư nghì là không. Tự tánh của chơn như ấy tức chẳng phải là              tự tánh; tự tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì ấy cũng              chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự              Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, chơn như chẳng thể              nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được;              pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì đều chẳng thể nắm bắt được,              thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì              trong đó còn không có chơn như v.v... có thể nắm bắt được, huống là              có cái ngã và vô ngã kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự như thế              là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán chơn như hoặc tịnh, hoặc              bất tịnh; chẳng nên quán pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng,              tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ              pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì hoặc tịnh,              hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì chơn như và tự tánh của chơn như là không;              pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh              bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư              không, cảnh giới bất tư nghì và tự tánh của pháp giới cho đến cảnh              giới bất tư nghì là không. Tự tánh của chơn như ấy tức chẳng phải là              tự tánh; tự tánh của pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì ấy cũng              chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự              Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, chơn như chẳng thể              nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được;              pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì đều chẳng thể nắm bắt được              thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì              trong đó, còn không có chơn như v.v... có thể nắm bắt được, huống là              có cái tịnh và bất tịnh kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự như              thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều như thế, đó là tuyên thuyết tịnh lự              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.
