Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 4
Kiều  Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu  nơi tỷ giới pháp tánh, chẳng nên cầu nơi hương giới, tỷ thức giới và tỷ  xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh; chẳng nên cầu rời tỷ  giới pháp tánh, chẳng nên cầu rời hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên  sanh ra các thọ pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc tỷ giới pháp tánh, hoặc  hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh; hoặc rời  tỷ giới pháp tánh, hoặc rời hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra  các thọ pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu  cầu tất cả như thế chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng  hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng  vô đối, đều đồng nhất tuớng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca!  Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng tỷ giới pháp tánh,  chẳng hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các  thọ pháp tánh; chẳng rời tỷ giới pháp tánh, chẳng rời hương giới cho đến  tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như  thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được,  nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng tỷ giới pháp  tánh, chẳng hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp  tánh; chẳng rời tỷ giới pháp tánh, chẳng rời hương giới cho đến tỷ xúc  làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành  Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi tỷ giới pháp tánh, chẳng nên cầu  nơi hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh;  chẳng nên cầu rời tỷ giới pháp tánh, chẳng nên cầu rời hương giới cho  đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh. 
Kiều Thi Ca! Bồ  tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi thiệt giới  pháp tánh, chẳng nên cẩu nơi vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc,  thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh; chẳng nên cầu rời thiệt  giới pháp tánh, chẳng nên cầu rời vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên  sanh ra các thọ pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc thiệt giới pháp tánh, hoặc  vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh; hoặc rời  thiệt giới pháp tánh, hoặc rời vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh  ra các thọ pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa.  Nếu cầu tất cả như thế, đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng,  chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối  chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều  Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng thiệt giới  pháp tánh, chẳng vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm  duyên sanh ra các thọ pháp tánh; chẳng rời thiệt giới pháp tánh, chẳng  rời vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh. Sở vì  sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở  hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa,  chẳng thiệt giới pháp tánh, chẳng vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên  sanh ra các thọ pháp tánh; chẳng rời thiệt giới pháp tánh, chẳng rời vị  giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh. Vậy nên Bồ  tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi thiệt giới  pháp tánh, chẳng nên cầu nơi vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh  ra các thọ pháp tánh; chẳng nên cầu rời thiệt giới pháp tánh, chẳng nên  cầu rời vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh. 
Kiều  Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu  nơi thân giới pháp tánh, chẳng nên cầu nơi xúc giới, thân thức giới và  thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh; chẳng nên cầu  rời thân giới pháp tánh, chẳng nên cầu rời xúc giới cho đến thân xúc làm  duyên sanh ra các thọ pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc thân giới pháp  tánh, hoặc xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp  tánh; hoặc rời thân giới pháp tánh, hoặc rời xúc giới cho đến thân xúc  làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã  Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải  chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô  kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng.  Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa,  chẳng thân giới pháp tánh, chẳng xúc giới, thân thức giới và thân xúc,  thân xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh; chẳng rời thân giới pháp  tánh, chẳng rời xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp  tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá  được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã  Ba la mật đa, chẳng thân giới pháp tánh, chẳng xúc giới cho đến thân  xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh; chẳng rời thân giới pháp tánh,  chẳng rời xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh.  Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu  nơi thân giới pháp tánh, chẳng nên cầu nơi xúc giới cho đến thân xúc làm  duyên sanh ra các thọ pháp tánh; chẳng nên cầu rời thân giới pháp tánh,  chẳng nên cầu rời xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ  pháp tánh. 
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa, chẳng nên cầu nơi ý giới pháp tánh, chẳng nên cầu nơi pháp giới,  ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh; chẳng  nên cầu rời ý giới pháp tánh, chẳng nên cầu rời pháp giới cho đến ý xúc  làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc ý giới pháp  tánh, hoặc pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh;  hoặc rời ý giới pháp tánh, hoặc rời pháp giới cho đến ý xúc làm duyên  sanh ra các thọ pháp tánh; hoặc rời ý giới pháp tánh, hoặc rời pháp giới  cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha  tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương  ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu  kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ  gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã  Ba la mật đa, chẳng ý giới pháp tánh, chẳng pháp giới, ý thức giới và ý  xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh; chẳng rời ý giới pháp  tánh, chẳng rời pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp  tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được.  Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba  la mật đa, chẳng ý giới pháp tánh, chẳng pháp giới cho đến ý xúc làm  duyên sanh ra các thọ pháp tánh; chẳng rời ý giới pháp tánh, chẳng rời  pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh. Vậy nên Bồ  tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi ý giới  pháp tánh, chẳng nên cầu nơi pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra  các thọ pháp tánh; chẳng nên cầu rời ý giới pháp tánh, chẳng nên cầu rời  pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ pháp tánh. 
Kiều  Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu  nơi địa giới pháp tánh, chẳng nên cầu nơi thủy hỏa phong không thức giới  pháp tánh; chẳng nên cầu rời địa giới pháp tánh, chẳng nên cầu rời thủy  hỏa phong không thức giới pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc địa giới pháp  tánh, hoặc thủy hỏa phong không thức giới pháp tánh; hoặc rời địa giới  pháp tánh, hoặc rời thủy hỏa phong không thức giới pháp tánh; hoặc Bồ  tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều  chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc,  chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất  tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở  hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng địa giới pháp tánh, chẳng thủy hỏa  phong không thức giới pháp tánh; chẳng địa giới pháp tánh, chẳng thủy  hỏa phong không thức giới pháp tánh; chẳng rời địa giới pháp tánh, chẳng  rời thủy hỏa phong không thức giới pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như  thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được,  nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng địa giới pháp  tánh, chẳng thủy hỏa phong không thức giới pháp tánh; chẳng rời địa giới  pháp tánh, chẳng rời thủy hỏa phong không thức giới pháp tánh. Vậy nên  Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi địa  giới pháp tánh, chẳng nên cẩu nơi thủy hỏa phong không thức giới pháp  tánh; chẳng nên cầu rời địa giới pháp tánh, chẳng nên cầu rời thủy hỏa  phong không thức giới pháp tánh. 
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát  sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi khổ thánh đế pháp tánh,  chẳng nên cầu nơi tập diệt đạo thánh đế pháp tánh; chẳng nên cầu rời khổ  thánh đế pháp tánh, chẳng nên cầu rời tập diệt đạo thánh đế pháp tánh.  Sở vì sao? Vì hoặc khổ thánh đế pháp tánh, hoặc tập diệt đạo thánh đế  pháp tánh; hoặc rời khổ thánh đế pháp tánh, hoặc rời tập diệt đạo thánh  đế pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu  tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu  sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô  đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ  tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng khổ thánh đế pháp  tánh, chẳng tập diệt đạo thánh đế pháp tánh; chẳng rời khổ thánh đề pháp  tánh, chẳng rời tập diệt đạo thánh đế pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả  như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá  được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng khổ thánh  đế pháp tánh, chẳng tập diệt đạo thánh đế pháp tánh; chẳng rời khổ  thánh đế pháp tánh, chẳng rời tập diệt đạo thánh đế pháp tánh. Vậy nên  Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi khổ  thánh đế pháp tánh, chẳng nên cầu nơi tập diệt đạo thánh đế pháp tánh;  chẳng nên cầu rời khổ thánh đế pháp tánh, chẳng nên cầu rời khổ tập diệt  đạo thánh đế pháp tánh. 
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành  Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi vô minh pháp tánh, chẳng nên cầu  nơi hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử  sầu thán khổ ưu não pháp tánh; chẳng nên cầu rời vô minh pháp tánh,  chẳng nên cầu rời hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não pháp tánh. Sở  vì sao? Vì hoặc vô ming pháp tánh, hoặc hành cho đến lão tử sầu thán khổ  ưu não pháp tánh; hoặc rời vô minh pháp tánh, hoặc rời cho đến lão tử  sầu thán khổ ưu não pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la  mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng  tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến,  chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ  sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng  vô minh pháp tánh, chẳng hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái,  thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não pháp tánh; chẳng rời vô minh  pháp tánh, chẳng rời hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não pháp tánh.  Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi  vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật  đa, chẳng vô minh pháp tánh, chẳng hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu  não pháp tánh; chẳng rời vô minh pháp tánh, chẳng rời hành cho đến lão  tử sầu thán khổ ưu não pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát  nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi vô minh pháp tánh, chẳng nên cầu nơi  hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não pháp tánh; chẳng nên cầu rời vô  minh pháp tánh, chẳng nên cầu rời hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu  não pháp tánh. 
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba  la mật đa, chẳng nên cầu nơi nội không pháp tánh, chẳng nên cầu nơi  ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không,  hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô  biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất  thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô  tánh tự tánh không pháp tánh; chẳng nên cầu rời nội không pháp tánh,  chẳng nên cầu rời ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không pháp tánh.  Sở vì sao? Vì hoặc nội không pháp tánh, hoặc ngoại không cho đến vô tánh  tự tánh không pháp tánh; hoặc rời nội không pháp tánh, hoặc rời ngoại  không cho đến vô tánh tự tánh không pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát,  hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng  chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến  chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi  vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa, chẳng nội không pháp tánh, chẳng ngoại không, nội ngoại không  không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh  không, vô tế không, tán không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất  thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô  tánh tự tánh không pháp tánh; chẳng rời nội không pháp tánh, chẳng rời  ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất  cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá  được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nội  không pháp tánh, chẳng ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không pháp  tánh; chẳng rời nội không pháp tánh, chẳng rời ngoại không cho đến vô  tánh tự tánh không pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã  Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi nội không pháp tánh, chẳng nên cầu nơi  ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không pháp tánh; chẳng nên cầu rời  nội không pháp tánh, chẳng nên cầu rời ngoại không cho đến vô tánh tự  tánh không pháp tánh. 
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát  nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi chơn như pháp tánh, chẳng nên cầu  nơi pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng  tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư  nghì giới pháp tánh; chẳng nên cầu rời chơn như pháp tánh; chẳng nên cầu  rời chơn như pháp tánh, chẳng nên cầu rời pháp giới cho đến bất tư nghì  giới pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc chơn như pháp tánh, hoặc pháp giới  cho đến bất tư nghì giới pháp tánh; hoặc rời chơn như pháp tánh, hoặc  rời pháp giới cho đến bất tư nghì giới pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát,  hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng  chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến  chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi  vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa, chẳng chơn như pháp tánh, chẳng pháp giới, chẳng pháp tánh, bất  hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp  định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới pháp tánh;  chẳng rời chơn như pháp tánh, chẳng rời pháp giới cho đến bất tư nghì  giới pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng  khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành  Bát nhã Ba la mật đa, chẳng chơn như pháp tánh, chẳng pháp giới cho đến  bất tư nghì giới pháp tánh; chẳng rời chơn như pháp tánh, chẳng rời pháp  giới cho đến bất tư nghì giới pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở  hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi chơn như pháp tánh, chẳng  nên cầu nơi pháp giới cho đến bất tư nghì giới pháp tánh; chẳng nên cầu  rời chơn như pháp tánh, chẳng nên cầu rời pháp giới cho đến bất tư nghì  giới pháp tánh. 
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba  la mật đa, chẳng nên cầu nơi bố thí Ba la mật đa pháp tánh, chẳng nên  cầu nơi tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa  pháp tánh; chẳng nên cầu rời bố thí Ba la mật đa pháp tánh, chẳng nên  cầu rời tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa  pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc bố thí Ba la mật đa pháp tánh, hoặc tịnh  giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa pháp tánh; hoặc  rời bố thí Ba la mật đa, hoặc rời tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh  lự, bát nhã Ba la mật đa pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã  Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải  chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô  kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng.  Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa,  chẳng bố thí Ba la mật đa pháp tánh, chẳng tịnh giới, an nhẫn, tinh  tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa pháp tánh; chẳng rời bố thí Ba la  mật đa pháp tánh, chẳng rởi tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát  nhã Ba la mật đa pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô  sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha  tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng bố thí Ba la mật đa pháp tánh,  chẳng tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa pháp  tánh; chẳng rời bố thí Ba la mật đa, chẳng rời tịnh giới, an nhẫn, tinh  tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát  sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi bố thí Ba la mật đa pháp  tánh, chẳng nên cầu nơi tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã  Ba la mật đa pháp tánh; chẳng nên cầu rời bố thí Ba la mật đa pháp  tánh, chẳng nên cầu rời tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã  Ba la mật đa pháp tánh. 
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành  Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi bốn tĩnh lự pháp tánh, chẳng nên  cầu nơi bốn vô lượng, bốn vô sắc định pháp tánh; chẳng nên cầu rời bốn  tĩnh lự pháp tánh, chẳng nên cầu rời bốn vô lượng, bốn vô sắc định pháp  tánh. Sở vì sao? Vì hoặc bốn tĩnh lự pháp tánh, hoặc bốn vô lượng, bốn  vô sắc định pháp tánh; hoặc rời bốn tĩnh lự pháp tánh, hoặc rời bốn vô  lượng, bốn vô sắc định pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba  la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng  tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến,  chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ  sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng  bốn tĩnh lự pháp tánh, chẳng bốn vô lượng, bốn vô sắc định pháp tánh;  chẳng rời bốn tĩnh lự pháp tánh, chẳng rời bốn vô lượng, bốn vô sắc định  pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá  được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát  nhã Ba la mật đa, chẳng bốn tĩnh lự pháp tánh, chẳng bốn vô lượng, bốn  vô sắc định pháp tánh; chẳng rời bốn tĩnh lự pháp tánh, chẳng rời bốn vô  lượng, bốn vô sắc định pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát  nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi bốn tĩnh lự pháp tánh, chẳng nên cầu  nơi bốn vô lượng, bốn vô sắc định pháp tánh; chẳng nên cầu rời bốn tĩnh  lự pháp tánh, chẳng nên cầu rời bốn vô lượng, bốn vô sắc định pháp  tánh. 
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật  đa, chẳng nên cầu nơi tám giải thoát pháp tánh, chẳng nên cầu nơi tám  thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ pháp tánh, chẳng nên cầu rời  tám giải thoát pháp tánh, chẳng nên cầu rời tám thắng xứ, chín thứ đệ  định, mười biến xứ pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc tám giải thoát pháp  tánh, hoặc tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ pháp tánh, hoặc  rời tám giải thoát pháp tánh, hoặc rời tám thắng xứ, chín thứ đệ định,  mười biến xứ pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật  đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương  ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu  đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao?  Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng tám  giải thoát pháp tánh, chẳng tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ  pháp tánh, chẳng rời tám giải thoát pháp tánh, chẳng rời tám thắng xứ,  chín thứ đệ định, mười biến xứ pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế  đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên  Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng tám giải thoát pháp  tánh, chẳng tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ pháp tánh;  chẳng rời tám giải thoát pháp tánh, chẳng rời tám thắng xứ, chín thứ đệ  định, mười biến xứ pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã  Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi tám giải thoát pháp tánh, chẳng nên cầu  nơi tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ pháp tánh; chẳng nên  cầu rời tám giải thoát pháp tánh, chẳng nên cầu rời tám thắng xứ, chín  thứ đệ định, mười biến xứ pháp tánh. 
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha  tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi bốn niệm trụ pháp  tánh, chẳng nên cầu nơi bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực,  bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi pháp tánh; chẳng nên cầu rời bốn  niệm trụ pháp tánh, chẳng nên cầu rời bốn chánh đoạn cho đến tám thánh  đạo chi pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc bốn niệm trụ pháp tánh, hoặc bốn  chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi pháp tánh; hoặc rời bốn niệm trụ  pháp tánh, hoặc rời bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi pháp tánh;  hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế  chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc,  chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất  tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở  hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng bốn niệm trụ pháp tánh, chẳng bốn chánh  đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo  chi pháp tánh; chẳng rời bốn niệm trụ pháp tánh, chẳng rời bốn chánh  đoạn cho đến tám thánh đạo chi pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế  đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên  Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng bốn niệm trụ pháp  tánh, chẳng bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi pháp tánh; chẳng  rời bốn niệm trụ pháp tánh, chẳng rời bốn chánh đoạn cho đến tám thánh  đạo chi pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật  đa, chẳng nên cầu nơi bốn niệm trụ pháp tánh, chẳng nên cầu nơi bốn  chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi pháp tánh; chẳng nên cầu rời bốn  niệm trụ pháp tánh, chẳng nên cầu rời bốn chánh đoạn cho đến tám thánh  đạo chi pháp tánh. 
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã  Ba la mật đa, chẳng nên không cầu nơi không giải thoát môn pháp tánh,  chẳng nên cầu nơi vô tướng, vô nguyện giải thoát môn pháp tánh; chẳng  nên cầu rời không giải thoát môn pháp tánh, chẳng nên cầu rời vô tướng,  vô nguyện giải thoát môn pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc không giải thoát  môn pháp tánh, hoặc vô tướng, vô nguyện giải thoát môn pháp tánh; hoặc  rời không giải thoát môn pháp tánh, hoặc rời vô tướng, vô nguyện giải  thoát môn pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa.  Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng,  chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối  chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi  Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng không giải  thoát môn pháp tánh, chẳng vô tướng, vô nguyện giải thoát môn pháp tánh;  chẳng rời không giải thoát môn pháp tánh, chẳng rời vô tướng, vô nguyện  giải thoát môn pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô  sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha  tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng không giải thoát môn pháp tánh,  chẳng vô tướng, vô nguyện giải thoát môn pháp tánh; chẳng rời không giải  thoát môn pháp tánh, chẳng rời vô tướng, vô nguyện giải thoát môn pháp  tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên  cầu nơi không giải thoát môn pháp tánh, chẳng nên cầu nơi vô tướng, vô  nguyện giải thoát môn pháp tánh; chẳng nên cầu rời không giải thoát môn  pháp tánh, chẳng nên cầu rời vô tướng, vô nguyện giải thoát môn pháp  tánh. 
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật  đa, chẳng nên cầu nơi năm nhãn pháp tánh, chẳng nên cầu nơi sáu thần  thông pháp tánh; chẳng nên cầu rời năm nhãn pháp tánh, chẳng nên cầu rời  sáu thần thông pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc năm nhãn pháp tánh, hoặc  sáu thần thông pháp tánh; hoặc rời năm nhãn pháp tánh, hoặc rời sáu thần  thông pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu  cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng  hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng  vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca!  Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năm nhãn pháp tánh,  chẳng sáu thần thông pháp tánh; chẳng rời năm nhãn pháp tánh, chẳng rời  sáu thần thông pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô  sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha  tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng năm nhãn pháp tánh, chẳng sáu  thần thông pháp tánh; chẳng rời năm nhãn pháp tánh, chẳng rời sáu thần  thông pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa,  chẳng nên cầu nơi năm nhãn pháp tánh, chẳng nên cầu nơi sáu thần thông  pháp tánh; chẳng nên cầu rời năm nhãn pháp tánh, chẳng nên cầu rời sáu  thần thông pháp tánh. 
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát  nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi Phật mười lực pháp tánh, chẳng nên  cầu nơi bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả,  mười tám pháp Phật bất cộng pháp tánh; chẳng nên cầu rời Phật mười lực  pháp tánh, chẳng nên cầu rời bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất  cộng pháp tánh, Sở vì sao? Vì hoặc Phật mười lực pháp tánh, hoặc bốn vô  sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng pháp tánh; hoặc rời Phật mười  lực pháp tánh, hoặc rời bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất  cộng pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu  cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng  hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng  vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca!  Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng Phật mười lực pháp  tánh, chẳng bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại  xả, mười tám pháp Phật bất cộng pháp tánh; chẳng rời Phật mười lực pháp  tánh, chẳng rời bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng pháp  tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được.  Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba  la mật đa, chẳng Phật mười lực pháp tánh, chẳng bốn vô sở úy cho đến  mười tám pháp Phật bất cộng pháp tánh; chẳng rời Phật mười lực pháp  tánh, chẳng rời bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng pháp  tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên  cầu nơi Phật mười lực pháp tánh, chẳng nên cầu nơi Phật mười lực pháp  tánh, chẳng nên cầu nơi bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng  pháp tánh; chẳng nên cầu rời Phật mười lực pháp tánh, chẳng nên cầu rời  bốn vô sở úy cho đến mười tám pháp Phật bất cộng pháp tánh. 
Kiều  Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu  nơi pháp vô vong thất pháp tánh, chẳng nên cầu nơi tánh hằng trụ xả pháp  tánh; chẳng nên cầu rời pháp vô vong thất pháp tánh, chẳng nên cầu rời  tánh hằng trụ xả pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc pháp vô vong thất pháp  tánh, hoặc tánh hằng trụ xả pháp tánh; hoặc rời pháp vô vong thất pháp  tánh, hoặc rời tánh hằng trụ xả pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc  Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng  phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng  vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô  tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa, chẳng pháp vô vong thất pháp tánh, chẳng tánh hằng trụ xả pháp  tánh; chẳng rời pháp vô vong thất pháp tánh, chẳng rời tánh hằng trụ xả  pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá  được . Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát  nhã Ba la mật đa, chẳng pháp vô vong thất pháp tánh, chẳng tánh hằng trụ  xả pháp tánh; chẳng rời pháp vô vong thất pháp tánh, chẳng rời tánh  hằng trụ xả pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa, chẳng nên cầu nơi pháp vô vong thất pháp tánh, chẳng nên cầu nơi  tánh hằng trụ xả pháp tánh; chẳng nên cầu rời pháp vô vong thất pháp  tánh, chẳng nên cầu rời tánh hằng trụ xả pháp tánh. 
Kiều Thi Ca!  Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi nhất  thiết trí pháp tánh, chẳng nên cầu nơi đạo tướng trí, nhất thiết tướng  trí pháp tánh; chẳng nên cầu rời nhất thiết trí pháp tánh, chẳng nên cầu  rời đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc  nhất thiết trí pháp tánh, hoặc đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí pháp  tánh; hoặc rời nhất thiết trí pháp tánh, hoặc rời đạo tướng trí, nhất  thiết tướng trí pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật  đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương  ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu  đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao?  Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nhất  thiết trí pháp tánh, chẳng đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí pháp  tánh; chẳng rời nhất thiết trí pháp tánh, chẳng rời đạo tướng trí, nhất  thiết tướng trí pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô  sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha  tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nhất thiết trí pháp tánh, chẳng  đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí pháp tánh; chẳng rời nhất thiết trí,  chẳng rời đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí pháp tánh. Vậy nên Bồ tát  Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi nhất thiết  trí pháp tánh, chẳng nên cầu nơi đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí  pháp tánh; chẳng nên cầu rời đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí pháp  tánh. 
Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật  đa, chẳng nên cầu nơi tất cả đà la ni môn pháp tánh, chẳng nên cầu nơi  tất cả tam ma địa môn pháp tánh; chẳng nên cầu rời tất cả đà la ni môn  pháp tánh, chẳng nên cầu rời tất cả tam ma địa môn pháp tánh. Sở vì sao?  Vì hoặc tất cả đà la ni môn pháp tánh, hoặc tất cả tam ma địa môn pháp  tánh; hoặc rời tất cả đà la ni môn pháp tánh, hoặc rời tất cả tam ma địa  môn pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu  cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, chẳng  hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng  vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca!  Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng tất cả đà la ni môn  pháp tánh, chẳng tất cả tam ma địa môn pháp tánh; chẳng rời tất cả đà  la ni môn pháp tánh, chẳng rời tất cả tam ma địa môn pháp tánh. Sở vì  sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở  hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa,  chẳng tất cả đà la ni môn pháp tánh, chẳng tất cả tam ma địa môn pháp  tánh; cẳng rời tất cả đà la ni môn pháp tánh, chẳng rời tất cả tam ma  địa môn pháo tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật  đa, chẳng nên cầu nơi tất cả đà la ni môn pháp tánh, chẳng nên cầu nơi  tất cả tam ma địa môn pháp tánh; chẳng nên cầu rời tất cả đà la ni môn  pháp tánh, chẳng nên cầu rời tất cả tam ma địa môn pháp tánh. 
Kiều  Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu  nơi Dự lưu pháp tánh, chẳng nên cầu nơi Nhất lai, Bất hoàn, A la hán  pháp tánh; chẳng nên cầu rời Dự lưu pháp tánh, chẳng nên cầu rời Nhất  lai, Bất hoàn, A la hán pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc Dự lưu pháp tánh,  hoặc Nhất lai, Bất hoàn, A la hán pháp tánh; hoặc rời Dự lưu pháp tánh,  hoặc rời Nhất lai, Bất hoàn, A la hán pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát,  hoặc Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng  chẳng phải chẳng tương, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng  vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô  tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa, chẳng Dự lưu pháp tánh, chẳng Nhất lai, Bất hoàn, A la hán pháp  tánh; chẳng rời Dự lưu pháp tánh, chẳng rời Nhất lai, Bất hoàn, A la hán  pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế đều là tánh vô sở hữu chẳng khá  được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát  nhã Ba la mật đa, chẳng Dự lưu pháp tánh, chẳng Nhất lai, Bất hoàn, A la  hán pháp tánh; chẳng rời Dự lưu pháp tánh, chẳng rời Nhất lai, Bất  hoàn, A la hán pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la  mật đa, chẳng nên cầu nơi Dự lưu pháp tánh, chẳng nên cầu nơi Nhất lai,  Bất hoàn, A la hán pháp tánh; chẳng nên cầu rời Dự lưu pháp tánh, chẳng  nên cầu rời Nhất lai, Bất hoàn, A la hán pháp tánh. 
Kiều Thi  Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hánh Bát nhã Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi Dự  lưu hướng , Dự lưu quả pháp tánh, chẳng nên cầu nơi Nhất lai hướng Nhất  lai quả, Bất hoàn hướng Bất hoàn quả, A la hán hướng A la hán quả pháp  tánh; chẳng nên cầu rời Dự lưu hướng Dự lưu quả pháp tánh, chẳng nên cầu  rời Nhất lai hướng cho đến A la hán quả pháp tánh. Sở vì sao? Vì hoặc  Dự lưu hướng Dự lưu quả pháp tánh, hoặc Nhất lai hướng cho đến A la hán  quả pháp tánh; hoặc rời Dự lưu hướng Dự lưu quả pháp tánh, hoặc rời Nhất  lai hướng cho đến A la hán quả pháp tánh; hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc  Bát nhã Ba la mật đa. Nếu cầu tất cả như thế đều chẳng tương ưng chẳng  phải chẳng tương ưng, chẳng hữu sắc chẳng vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng  vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô  tướng. Vì cớ sao? Kiều Thi Ca! Bồ tát Ma ha tát sở hành bát nhã Ba la  mật đa, chẳng Dự lưu hướng Dự lưu quả pháp tánh, chẳng Nhất lai hướng  Nhất lai quả, Bất hoàn hướng Bất hoàn quả, A la hán hướng A la hán quả  pháp tánh; chẳng rời Dự lưu hướng Dự lưu quả pháp tánh, chẳng rởi Nhất  lai hướng cho đến a la hán quả pháp tánh. Sở vì sao? Vì tất cả như thế  đều là tánh vô sở hữu chẳng khá được. Bởi vô sở hữu chẳng khá được, nên  Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng Dự lưu hướng dự lưu  quả pháp tánh, chẳng Nhất lai hướng cho đến A la hán quả pháp tánh;  chẳng rời Dự lưu hướng Dự lưu quả pháp tánh, chẳng rời Nhất lai hướng  cho đến a la hán quả pháp tánh. Vậy nên Bồ tát Ma ha tát sở hành Bát nhã  Ba la mật đa, chẳng nên cầu nơi Dự lưu hướng Dự lưu quả pháp tánh,  chẳng nên cầu nơi Nhất lai hướng cho đến a la hán quả pháp tánh; chẳng  nên cầu rời Dự lưu hướng Dự lưu quả pháp tánh, chẳng nên cầu rởi Nhất  lai hướng cho đến A la hán quả pháp tánh.
