Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 24
Lại  nữa, Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa,  chẳng hành sắc khai hiển chẳng khai hiển, chẳng hành thọ tưởng hành thức  khai hiển chẳng khai hiển. Chẳng hành nhãn khai hiển chẳng khai hiển,  chẳng hành nhĩ tỷ thiệt thân ý khai hiển chẳng khai hiển. Chẳng hành sắc  khai hiển chẳng khai hiển, chẳng hành thanh hương vị xúc pháp khai hiển  chẳng khai hiển. Chẳng hành nhãn thức khai hiển chẳng khai hiển, chẳng  hành nhĩ tỷ thiệt thân ý thức khai hiển chẳng khai hiển.
Chẳng  hành sắc vắng lặng chẳng vắng lặng, chẳng hành thọ tưởng hành thức vắng  lặng chẳng vắng lặng. Chẳng hành nhãn quá vắng lặng chẳng vắng lặng,  chẳng hành nhĩ tỷ thiệt thân ý vắng lặng chẳng vắng lặng. Chẳng hành sắc  vắng lặng chẳng vắng lặng, chẳng hành thanh hương vị xúc pháp vắng lặng  chẳng vắng lặng. Chẳng hành nhãn thức vắng lặng chẳng vắng lặng, chẳng  hành nhĩ tỷ thiệt thân ý thức vắng lặng chẳng vắng lặng.
Chẳng  hành sắc bản tánh thanh tịnh chẳng thanh tịnh, chẳng hành thọ tưởng hành  thức bản tánh thanh tịnh chẳng thanh tịnh. Chẳng hành nhãn bản tánh  thanh tịnh chẳng thanh tịnh, chẳng hành nhĩ tỷ thiệt thân ý bản tánh  thanh tịnh chẳng thanh tịnh. Chẳng hành sắc bản tánh thanh tịnh chẳng  thanh tịnh, chẳng hành thanh hương vị xúc pháp bản tánh thanh tịnh chẳng  thanh tịnh. Chẳng hành nhãn thức bản tánh thanh tịnh chẳng thanh tịnh,  chẳng hành nhĩ tỷ thiệt thân ý thức bản tánh thanh tịnh chẳng thanh  tịnh.
Chẳng hành sắc bản tánh khai hiển chẳng khai hiển, chẳng  hành thọ tưởng hành thức bản tánh khai hiển chẳng khai hiển. Chẳng hành  nhãn bản tánh khai hiển chẳng khai hiển, chẳng hành nhĩ tỷ thiệt thân ý  bản tánh khai hiển chẳng khai hiển. Chẳng hành sắc bản tánh khai hiển  chẳng khai hiển, chẳng hành thanh hương vị xúc pháp bản tánh khai hiển  chẳng khai hiển. Chẳng hành nhãn thức bản tánh khai hiển chẳng khai  hiển, chẳng hành nhĩ tỷ thiệt thân ý thức bản tánh khai hiển chẳng khai  hiển.
Chẳng hành sắc bản tánh vắng lặng chẳng vắng lặng, chẳng  hành thọ tưởng hành thức bản tánh vắng lặng chẳng vắng lặng. Chẳng hành  nhãn bản tánh vắng lặng chẳng vắng lặng, chẳng hành nhĩ tỷ thiệt thân ý  bản tánh vắng lặng chẳng vắng lặng. Chẳng hành sắc bản tánh vắng lặng  chẳng vắng lặng, chẳng hành thanh hương vị xúc pháp bản tánh vắng lặng  chẳng vắng lặng. Chẳng hành nhãn thức bản tánh vắng lặng chẳng vắng  lặng, chẳng hành nhĩ tỷ thiệt thân ý thức bản tánh vắng lặng chẳng vắng  lặng.
Chẳng hành sắc bản tánh xa lìa chẳng xa lìa, chẳng hành thọ  tưởng hành thức bản tánh xa lìa chẳng xa lìa. Chẳng hành nhãn bản tánh  xa lìa chẳng xa lìa, chẳng hành nhĩ tỷ thiệt thân ý bản tánh xa lìa  chẳng xa lìa. Chẳng hành sắc bản tánh xa lìa chẳng xa lìa, chẳng hành  thanh hương vị xúc pháp bản tánh xa lìa chẳng xa lìa. Chẳng hành nhãn  thức bản tánh xa lìa chẳng xa lìa, chẳng hành nhĩ tỷ thiệt thân ý thức  bản tánh xa lìa chẳng xa lìa.
Chẳng hành sắc quá khứ vị lai hiện  tại bản tánh thanh tịnh chẳng thanh tịnh, khai hiển chẳng khai hiển,  vắng lặng chẳng vắng lặng, xa lìa chẳng xa lìa. Chẳng hành thọ tưởng  hành thức quá khứ vị lai hiện tại bản tánh thanh tịnh chẳng thanh tịnh,  khai hiển chẳng khai hiển, vắng lặng chẳng vắng lặng, xa lìa chẳng xa  lìa.
Chẳng hành nhãn quá khứ vị lai hiện tại bản tánh thanh tịnh  chẳng thanh tịnh, khai hiển chẳng khai hiển, vắng lặng chẳng vắng lặng,  xa lìa chẳng xa lìa. Chẳng hành nhĩ tỷ thiệt thân ý quá khứ vị lai hiện  tại bản tánh thanh tịnh chẳng thanh tịnh, khai hiển chẳng khai hiển,  vắng lặng chẳng vắng lặng, xa lìa chẳng xa lìa.
Chẳng hành sắc  quá khứ vị lai hiện tại bản tánh thanh tịnh chẳng thanh tịnh, khai hiển  chẳng khai hiển, vắng lặng chẳng vắng lặng, xa lìa chẳng xa lìa. Chẳng  hành thanh hương vị xúc pháp quá khứ vị lai hiện tại bản tánh thanh tịnh  chẳng thanh tịnh, khai hiển chẳng khai hiển, vắng lặng chẳng vắng lặng,  xa lìa chẳng xa lìa.
Chẳng hành nhãn thức quá khứ vị lai hiện  tại bản tánh thanh tịnh chẳng thanh tịnh, khai hiển chẳng khai hiển,  vắng lặng chẳng vắng lặng, xa lìa chẳng xa lìa. Chẳng hành nhĩ tỷ thiệt  thân ý thức quá khứ vị lai hiện tại bản tánh thanh tịnh chẳng thanh  tịnh, khai hiển chẳng khai hiển, vắng lặng chẳng vắng lặng, xa lìa chẳng  xa lìa
Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát năng hành như thế, mau được viên mãn pháp Nhất thiết trí
Lại  nữa, Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa,  chẳng ỷ chấp sắc, chẳng ỷ chấp thọ tưởng hành thức. Chẳng ỷ chấp nhãn  chẳng ỷ chấp nhĩ tỷ thiệt thân ý. Chẳng ỷ chấp sắc chẳng ỷ chấp thanh  hương vị xúc pháp. Chẳng ỷ chấp nhãn thức chẳng ỷ chấp nhĩ tỷ thiệt thân  ý thức.
Chẳng ỷ chấp sắc thanh tịnh, chẳng ỷ chấp thọ tưởng hành  thức thanh tịnh. Chẳng ỷ chấp nhãn thanh tịnh, chẳng ỷ chấp nhĩ tỷ  thiệt thân ý thanh tịnh. Chẳng ỷ chấp sắc thanh tịnh, chẳng ỷ chấp thanh  hương vị xúc pháp thanh tịnh. Chẳng ỷ chấp nhãn thức thanh tịnh, chẳng ỷ  chấp nhĩ tỷ thiệt thân ý thức thanh tịnh.
Chẳng ỷ chấp sắc sở  duyên thanh tịnh, chẳng ỷ chấp thọ tưởng hành thức sở duyên thanh tịnh.  Chẳng ỷ chấp nhãn sở duyên thanh tịnh, chẳng ỷ chấp nhĩ tỷ thiệt thân ý  sở duyên thanh tịnh. Chẳng ỷ chấp sắc sở duyên thanh tịnh, chẳng ỷ chấp  thanh hương vị xúc pháp sở duyên thanh tịnh. Chẳng ỷ chấp nhãn thức sở  duyên thanh tịnh, chẳng ỷ chấp nhĩ tỷ thiệt thân ý thức sở duyên thanh  tịnh.
Lại nữa, Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát tu hành Bát nhã Ba  la mật đa, chẳng chấp trước sắc, chẳng chấp trước thọ tưởng hành thức.  Chẳng chấp trước nhãn, chẳng chấp trước nhĩ tỷ thiệt thân ý. Chẳng chấp  trước sắc, chẳng chấp trước thanh hương vị xúc pháp. Chẳng chấp trước  nhãn thức chẳng chấp trước nhĩ tỷ thiệt thân ý thức.
Chẳng chấp  trước sắc thanh tịnh, chẳng chấp trước thọ tưởng hành thức thanh tịnh.  Chẳng chấp trước nhãn thanh tịnh, chẳng chấp trước nhĩ tỷ thiệt thân ý  thanh tịnh. Chẳng chấp trước sắc thanh tịnh, chẳng chấp trước thanh  hương vị xúc pháp thanh tịnh. Chẳng chấp trước nhãn thức thanh tịnh,  chẳng chấp trước nhĩ tỷ thiệt thân ý thức thanh tịnh.
Chẳng chấp  trước sắc sở duyên thanh tịnh, chẳng chấp trước thọ tưởng hành thức sở  duyên thanh tịnh. Chẳng chấp trước nhãn sở duyên thanh tịnh, chẳng chấp  trước nhĩ tỷ thiệt thân ý sở duyên thanh tịnh. Chẳng chấp trước sắc sở  duyên thanh tịnh, chẳng chấp trước thanh hương vị xúc pháp sở duyên  thanh tịnh. Chẳng chấp trước nhãn thức sở duyên thanh tịnh, chẳng chấp  trước nhĩ tỷ thiệt thân ý thức sở duyên thanh tịnh.
Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát năng hành được như thế mau được viên mãn pháp Nhất thiết trí
Thiện  Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát năng hành được như thế, thời là gần kề Như  Lai mười lực, bốn vô sở uý, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ đại  xả, mười tám pháp Phật bất cộng.
Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát  năng hành được như thế, thời là gần kề ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám  mươi tùy hảo, sắc thân chơn kim sáng rực vô biên, xem như rồng voi không  ai thấy đỉnh.
Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát năng hành được như  thế, thời là gần kề trí kiến vô trước vô ngại quá khứ vị lai hiện tại,  cũng là gần kề Như Lai dạy trao dạy răn chỉ dẫn, cũng là gần kề trí kiến  vô trước vô ngại quyết định nhận ký quá khứ vị lai hiện tại. 
Thiện  Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát năng hành được như thế, mau chứng tất cả  thanh tịnh Phật Pháp, chóng năng chứng được cõi Phật thanh tịnh, chóng  năng nhiếp thọ được chúng Thanh văn viên mãn, chóng năng nhiếp thọ được  chúng Bồ tát viên mãn.
Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát năng hành  được như thế, chẳng trụ sắc, chẳng trụ thọ tưởng hành thức. Chẳng trụ  nhãn, chẳng trụ nhĩ tỷ thiệt thân ý. Chẳng trụ sắc, chẳng trụ thanh  hương vị xúc pháp. Chẳng trụ nhãn thức, chẳng trụ nhĩ tỷ thiệt thân ý  thức. Chẳng trụ danh sắc, chẳng trụ điên đạo, kiến, che, ái hành. Chẳng  trụ cõi Dục, Sắc, Vô sắc. Chẳng trụ hữu tình giới, pháp giới. Chẳng trụ  địa thủy hỏa phong không thức giới, chẳng trụ ngã, hữu tình, mạng giả,  sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả,  thọ giả, tri giả, kiến giả và các tưởng kia. Chẳng trụ đoạn thường,  chẳng trụ nhiễm tịnh, chẳng trụ duyên khởi. Chẳng trụ bố thí xan tham,  trì giới, phạm giới, an nhẫn giận dữ, tinh tiến lười biếng, tĩnh lự tán  loạn, bát nhã ác huệ. Chẳng trụ niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn,  lực, giác chi, đạo chi. Chẳng trụ dứt điên đảo thảy. Chẳng trụ tĩnh lự,  giải thoát, đẳng trì, đẳng chí. Chẳng trụ minh và giải thoát, giải thoát  trí kiến. Chẳng trụ tận trí, vô sanh trí, vô tạo tác trí và vô phước  trí. Chẳng trụ chỉ quán. Chẳng trụ vô lượng thần thông. Chẳng trụ khổ  tập diệt đạo. Chẳng trụ dị sanh, Thanh văn, Độc giác, Bồ tát, Phật địa.  Chẳng trụ pháp dị sanh, Thanh văn, Độc giác, Bồ tát, Phật. Chẳng trụ  sanh tử Niết bàn. Chẳng trụ Phật trí lực, vô úy thảy. Chẳng trụ trí kiến  quá khứ vị lai hiện tại. Chẳng trụ cõi Phật viên mãn. Chẳng trụ chúng  Thanh văn viên mãn. Chẳng trụ chúng Bồ tát viên mãn. Vì cớ sao? Thiện  Dũng Mãnh! Vì tất cả pháp chẳng thể trụ vậy.
Thiện Dũng Mãnh!  Chẳng phải tất cả các pháp có nghĩa khá trụ. Sở dĩ vì sao? Vì tất cả  pháp đều không chấp tàng. Bởi không chấp tàng nên không thể trụ được.
Thiện  Dũng Mãnh! Nếu tất cả pháp có thể trụ được, nên thể chỉ ra đây khá chấp  tàng, pháp đây thường trụ, Như Lai cũng nên an trụ các pháp, chỉ ra các  pháp đây khá chấp tàng, đây khá chứa nhóm.
Thiện Dũng Mãnh! Vì  tất cả pháp chẳng thể an trụ, chẳng thể chấp tàng, chẳng thể chứa nhóm,  vậy nên không có pháp thường trụ. Do đấy Như Lai chẳng an trụ pháp, cũng  chẳng chỉ ra đây khá chấp tàng, đây khá chứa nhóm.
Thiện Dũng  Mãnh! Không có chút pháp là thật khá sanh. Vì không chút pháp thật khá  sanh, nên đều không sở trụ, nên nói các pháp không nghĩa khá trụ.
Thiện Dũng Mãnh! Vì đem không sở trụ và không chẳng trụ làm phương tiện, nên nói tất cả pháp đều không sở trụ.
Thiện  Dũng Mãnh! Không có chút pháp thể nói trụ được. Như bốn sông lớn phát  nguyên từ hồ Vô nhiệt, chưa vào biển cả quyết không nghĩa trụ. Như vậy,  các pháp cho đến không tạo các hành chưa trọn vẹn, quyết không nghĩa  trụ.
Thiện Dũng Mãnh! Không tạo hành ấy, nghĩa là đối trong đây  không trụ mà chẳng trụ. Không lưu nạn ấy, tất cả đều nương tục số mà  nói, thật không có trụ. Không lưu nạn ấy, không rốt ráo ấy, cũng không  chẳng trụ.
Thiện Dũng Mãnh! Không tạo hành ấy, nương tục số nói,  như các hữu tình thế tục đã thấy, chẳng thật có trụ. Hoặc lưu nạn ấy,  hoặc rốt ráo ấy, cũng không chẳng trụ, chẳng không tạo hành có thật trụ  ấy. Vậy nên thể nói nương tục số nói, nên tất cả pháp đều nghĩa không  trụ.
Thiện Dũng Mãnh! Như vậy, chúng Bồ tát Ma ha tát nương tất cả pháp vô trụ, phương tiện tu hành Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện  Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát năng hành được như thế chóng năng viên mãn  pháp Nhất thiết trí, gần kề Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, mau được ngồi  yên tòa diệu Bồ đề, chóng năng chứng được Nhất thiết trí trí, mau được  viên mãn trí kiến ba đời, mau được viên mãn diệu trí biết khắp tâm hành  sai khác của tất cả hữu tình vậy.
Thiện Dũng Mãnh! Nếu chúng Bồ  tát Ma ha tát muốn nhiêu ích khắp tất cả hữu tình, muốn đem của thí tất  cả hữu tình đều khiến đầy đủ, muốn đem pháp thí tất cả hữu tình đều  khiến mãn nguyện, muốn phá hoại được vỏ trứng vô minh tất cả hữu tình,  muốn trao cho khắp tất cả hữu tình Đại Trí Phật Trí, muốn thương xót  khắp tất cả hữu tình, muốn lợi vui khắp tất cả hữu tình, muốn khiến tất  cả hữu tình đầy đủ tài thí pháp thí, muốn khiến tất cả hữu tình đầy đủ  giới pháp thanh tịnh, muốn khiến tất cả hữu tình đầy đủ nhu hòa an nhẫn,  muốn khiến tất cả hữu tình đầy đủ tinh tiến mạnh mẽ, muốn khiến tất cả  hữu tình đầy đủ tĩnh lự thanh tịnh, muốn khiến tất cả hữu tình đầy đủ  bát nhã vi diệu, muốn khiến tất cả hữu tình đầy đủ giải thoát rốt ráo,  muốn khiến tất cả hữu tình đầy đủ giải thoát trí kiến, muốn khiến tất cả  hữu tình đầy đủ sanh các thú thiện, muốn khiến tất cả hữu tình đầy đủ  minh và giải thoát, muốn khiến tất cả hữu tình đầy đủ Niết bàn rốt ráo,  muốn khiến tất cả hữu tình đầy đủ như Phật diệu pháp, muốn khiến tất cả  hữu tình đầy đủ các đức viên mãn, muốn quay xe Pháp vô thượng vi diệu  tất cả thế gian Sa môn, Phạm chí, Thiên ma ngoại đạo đều không ai quay  được đúng pháp, muốn đối thế gian tuyên nói diệu pháp, muốn năng như  thật ghi Độc giác địa, muốn năng như thật ghi Thanh văn địa, muốn năng  giác phát các loại hữu tình căn lành bản nguyện; nên học Bát nhã Ba la  mật đa sâu thẳm như thế, mạnh mẽ siêng năng thường không gián đoạn, nên  nương Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế tinh siêng tu học, không  điều đoái luyến.
Thiện Dũng Mãnh! Ta trọn chẳng thấy có các pháp  nào khác năng khiến cho Bồ tát chóng mau viên mãn sở cầu Vô thượng diệu  pháp của chư Phật như Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đã nói đây. Nếu các  Bồ tát an trụ Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế, tinh siêng tu học  không lúc tạm nới, mau được viên mãn pháp Nhất thiết trí.
Thiện  Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa được đến rốt ráo,  các Bồ tát này gần kế Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, quyết định không nghi  ngờ.
Thiện Dũng Mãnh! Nếu các thiện nam tử thiện nữ nhân thảy,  kẻ nghe Bát nhã Ba la mật đa đây vui mừng tín thọ sanh thật tưởng ấy, Ta  nói loại kia năng dẫn được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề căn lành thù  thắng mau đến rốt ráo. Các thiện nam tử thiện nữ nhân này nhiếp thọ căn  lành định năng chứa nhóm được tư lương đại huệ.
Thiện Dũng Mãnh!  Nếu các Bồ tát tay cầm Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế, phương  tiện khéo léo pháp giáo tương ưng, các Bồ tát này giả sử chẳng hiện tiền  nhờ Phật trao ký, phải biết đã gần nhờ Phật trao ký, hoặc lại chẳng lâu  sẽ nhờ chư Phật hiện tiền trao ký.
Thiện Dũng Mãnh! Ví như có  người tinh siêng thọ học mười thiện nghiệp đạo đã đến rốt ráo, phải biết  người kia căn lành thành thục đã được gần kề sanh về Bắc Câu Lô. Như  vậy, Bồ tát nếu tay cầm Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đây, phải biết gần  kề sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, định không nghi ngờ.
Thiện  Dũng Mãnh! Ví như có người ưa tu ơn thí, đối các của báu không điều  đoái tiếc rít lẫn, đối các hữu tình thường dùng bố thí, ái ngữ, lợi  hành, đồng sự nhiếp thọ, trì giới, tu nhẫn, xô đè kiêu mạn. Tu hạnh như  thế đến khi rốt ráo, mau được của lớn, sanh nơi tộc cao. Như vậy, Bồ tát  nếu tay được Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đây, phải biết gần kề ngôi  Bất thối chuyển.
Thiện Dũng Mãnh! Ví như có người ưa tu thí giới,  tịnh giới an nhẫn không chẳng đầy đủ, thương xót hữu tình, khuyên trì  tịnh giới, lại năng gây làm nghiệp cảm tăng thượng, phải biết mau được  ngôi vua Chuyển luân. Như vậy. Bồ tát nếu tay được Bát nhã Ba la mật đa  sâu thẳm đây, phải biết mau ngồi tòa diệu Bồ đề.
Thiện Dũng Mãnh!  Nếu vua Chuyển Luân sắp lên ngôi cả, ở buổi sáng sớm ngày mười lăm nửa  tháng trắng, tắm gội thọ trai, rồi đến trên đại điện, lên tòa Sư tử, mặt  hướng về đông mà ngồi. Có xe báu lớn từ trên không mà đến. Phải biết  vua kia thọ ngôi Chuyển luân, chẳng bao lâu sẽ được đầy đủ bảy báu. Như  vậy, Bồ tát trong tay được Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, phải biết mau  được Nhất thiết trí trí.
Thiện Dũng Mãnh! Như loại hữu tình thành  căn lành thù thắng, thường ưa tu hành hạnh thanh bạch, tin hiểu rộng  lớn, chán ghét thân người, đầy đủ tịnh giới. Ưa muốn kinh doanh các  việc, nơi tâm đêm dài nghĩ muốn nguyện sanh lên trời để cùng người bốn  châu thường làm che hộ. Phải biết loại kia chẳng lâu được làm bốn Đại  Thiên vương, hộ cõi bốn châu. Như vậy, Bồ tát nếu đem pháp giáo tương  ưng Bát nhã Ba la mật đa thí loại hữu tình tâm không lẫn tiếc, phải biết  chẳng lâu được làm Pháp Vương, đối tất cả pháp đều được tự tại.
Thiện  Dũng Mãnh! Như loại hữu tình thành căn lành thù thắng thanh tịnh hơn  trước kẻ đã thành tựu, chỗ được của báu, trước ơn thí người, sau tự thọ  dụng; sự việc đã kinh doanh, trước vì hữu tình sau mới vì mình. Thượng  tự giữ hộ, chẳng bị phi pháp tham bất bình đẳng làm nhiễm dơ. Nơi tâm  đêm dài nguyện làm Thiên chủ, đối sở tu thiện nơi tâm vững chắc. Phải  biết loại kia chẳng lâu định sanh trời Ba mươi ba làm Thiên Đế Thích.  Như vậy, Bồ tát nếu đem pháp yếu tương ưng Bát nhã Ba la mật đa thí loại  hữu tình không điều đoái tham keo rít, phải biết chẳng lâu định làm  Pháp Vương, đối tất cả pháp được đại tự tại.
Thiện Dũng Mãnh! Ví  như có người được bốn phạm trụ, phải biết chẳng bao lâu sanh nơi Phạm  thiên. Như vậy Bồ tát nếu đem pháp yếu tương ưng Bát nhã Ba la mật đa  thí loại hữu tình không điều đoái lẫn, phải biết chẳng lạu quay xe diệu  pháp thí các hữu tình lợi ích an vui.
Thiện Dũng Mãnh! Ví như cõi  đất đến thời sắp mưa, thấy trên không trung mây dày ngậm nhuận, trời  đen tối nặng nề, giáng dần mưa lớn, ao hồ mương rãnh nơi nơi đầy rẫy,  cõi đất cao thấp trên dưới thấm nhuần. Mây dày phủ xuống, nước ngọt thấm  khắp, làm cho các thứ thuốc vật cỏ cây lùm rừng, nhánh lá hoa quả thảy  đều mậu thịnh, đất liền sông núi khí thơm bát ngát, nơi nơi đều có hoa  quả suối ao. Cõi đất bấy giờ lắm nên yêu thích. Loại người phi người  thấy vậy rồi vui mừng hớn hở, bẻ hái hoa quả, ngửi hương nếm vị. Như  vậy, Bồ tát hiện được Bát nhã Ba la mật đa tinh siêng tu học, các Bồ tát  này phải biết chẳng lâu được thấm nhuần Nhất thiết trí trí, khéo năng  tới vào Nhất thiết trí trí, sẽ năng khai hiển Nhất thiết trí trí. Do đây  thấm nhuần tất cả hữu tình, phân biệt khai chỉ Pháp bảo Vô thượng.
Thiện  Dũng Mãnh! Ví như trong cung rồng chúa Vô Nhiệt có nước sanh rồi chảy  ra bốn sông lớn, đều tới một phương đầy rẫy biển cả. Như vậy, Bồ tát  trong tay Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đây, lại năng đối trong tinh  siêng tu học, kia đều năng tuôn chảy được Đại Pháp, đem Đại Pháp thí hữu  tình đầy đủ.
Thiện Dũng Mãnh! Ví như biển cả là chỗ nương giữ  các nước, thường được nhiều nguồn chảy về nương chứa. Như vậy, Bồ tát  trong tay được Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm đây, tinh siêng tu học cho  rất thông lanh, chẳng lâu phải biết tất cả biển pháp mau lẹ phải thành  pháp khí tất cả, thường làm chỗ về tới các pháp, các pháp thế tục chẳng  thể rối động.
Thiện Dũng Mãnh! Như vừng nhật mọc lên che các ánh  sáng. Như vậy, Bồ tát sở học Bát nhã Ba la mật đa xuất hiện ra thế gian,  tất cả ngoại đạo thảy đều ẩn mất.
Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát sở học Bát nhã Ba la mật đa xuất hiện ra thế gian làm pháp soi sáng cho tất cả loại hữu tình.
Thiện  Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát xuất hiện thế gian làm căn lành soi sáng các  hữu tình, làm tịnh phước điền cho các loại hữu tình, tất cả hữu tình đều  nên cúng dường, tất cả hữu tình đều nên về tới, tất cả hữu tình đều nên  khen ngợi.
Lại nữa, Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát học được Bát  nhã Ba la mật đa, đối trong các học là học tối thắng. Kẻ học như thế  khắp làm đường tịnh Niết bàn cho hữu tình. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh!  Nếu học Bát nhã Ba la mật đa, đối trong các học đệ nhất tối thắng, là  diệu vi diệu, là thượng là vô thượng, vô đẳng vô đẳng đẳng.
Thiện  Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát học được Bát nhã Ba la mật đa, khiến tất cả  học đều đến rốt ráo, khắp thọ trì được tất cả sở học. Đối tất cả đều  năng khai thị, xô dẹp tất cả luận khác tà học.
Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát năng học Bát nhã Ba la mật đa, thời năng tu hành được hạnh các Phật, các Bồ tát ba đời.
Thiện  Dũng Mãnh! Chư Phật Thế Tôn đối sở học Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm  đây đã chánh phải học, cực khéo an trụ, vì các hữu tình đã chánh phải  thuyết Học pháp Vô thượng thanh tịnh như thế.
Thiện Dũng Mãnh! Sở học Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế vượt khỏi tất cả sở học thế gian, rất tôn rất thắng.
Thiện Dũng Mãnh! Sở học Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế là học tự nhiên, tất cả thế gian không học nào kịp được.
Thiện  Dũng Mãnh! Nếu học Bát nhã Ba la mật đa, đối trong các pháp trọn không  sở học, nghĩa là hoặc thế gian hoặc xuất thế gian, hoặc hữu vi hoặc vô  vi, hoặc hữu lậu hoặc vô lậu, hoặc hữu tội hoặc vô tội. Đối tất cả pháp  môn như thế thảy chẳng sanh chấp trước. Đối tất cả pháp vô trước mà trụ,  vì các hữu tình khai thị pháp sở học vô thượng thanh tịnh không trái  ngược. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì tất cả pháp không dính không buộc,  không có chút pháp làm dính làm buộc mà hiện tại tiền. Do đây cũng  không được nghĩa mở rảnh.
Thiện Dũng Mãnh! Sắc không dính không  buộc cũng không mở rảnh, thọ tưởng hành thức không dính không buộc cũng  không mở rảnh. Nhãn không dính không buộc cũng không mở rảnh, nhĩ tỷ  thiệt thân ý không dính không buộc cũng không mở rảnh.
Sắc không  dính không buộc cũng không mở rảnh, thanh hương vị xúc pháp không dính  không buộc cũng không mở rảnh. Nhãn thức không dính không buộc cũng  không mở rảnh, nhĩ tỷ thiệt thân ý thức không dính không buộc cũng không  mở rảnh.
Danh sắc không dính không buộc cũng không mở rảnh. Điên  đảo, kiến thú, các che, ái hành không dính không buộc cũng không mở  rảnh. Tham sân si không dính không buộc cũng không mở rảnh.
Cõi  Dục, Sắc, Vô sắc không dính không buộc cũng không mở rảnh. Hữu tình  giới, pháp giới không dính không buộc cũng không mở rảnh.
Ngã,  hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh,  nho đồng, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả và các tưởng kia không  dính không buộc cũng không mở rảnh.
Địa thủy hỏa phong không thức  giới không dính không buộc cũng không mở rảnh. Duyên khởi, nhiễm tịnh  không dính không buộc cũng không mở rảnh.
Bố thí xan tham, trì  giới phạm giới, an nhẫn giận dữ, tinh tiến lười biếng, tĩnh lự tán loạn,  bát nhã ác huệ không dính không buộc cũng không mở rảnh. Khổ tập diệt  đạo không dính không buộc cũng không mở rảnh.
Niệm trụ, chánh  đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi không dính không buộc cũng  không mở rảnh. Dứt điên đảo thảy không dính không buộc cũng không mở  rảnh.
Tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí không dính không  buộc cũng không mở rảnh. Vô lương thần thông không dính không buộc cũng  không mở rảnh. Tận trí, vô sanh trí, vô tạo tác trí và vô trước trí  không dính không buộc cũng không mở rảnh. Tận trí, vô sanh trí, vô tạo  tác trí và vô trước trí không dính không buộc cũng không mở rảnh. Minh  và giải thoát, giải thoát trí kiến không dính không buộc cũng không mở  rảnh.
Dị sanh, Thanh văn, Độc giác, Bồ tát, Phật địa không dính  không buộc cũng không mở rảnh. Pháp dị sanh, Thanh văn, Độc giác, Bồ  tát, Phật không dính không buộc cũng không mở rảnh.
Sanh tử, Niết  bàn không dính không buộc cũng không mở rảnh. Phật trí lực, vô úy thảy  không dính không buộc cũng không mở rảnh. Trí kiến quá khứ vị lai hiện  tại không dính không buộc cũng không mở rảnh.
Vì cớ sao? Thiện  Dũng Mãnh! Vì tất cả pháp dính chẳng thể được, buộc chẳng thể được. Dính  buộc đã không có, từ kia mở rảnh cũng chẳng thể được.
Thiện Dũng  Mãnh! Nói dính buộc ấy, nghĩa là đối pháp tánh chấp dính trói buộc;  pháp tánh đã không có, nên chẳng thể nói có dính có buộc. Nói mở rảnh  ấy, nghĩa là rảnh khỏi dính buộc; hai kia đã không có, nên không mở  rảnh.
Thiện Dũng Mãnh! Không mở rảnh ấy, là đối các pháp đều  không có tánh năng được mở rảnh. Nếu đối các pháp thấy được như thế, tức  nói gọi tên là Vô trước trí kiến.
Thiện Dũng Mãnh! Nói vô trước  ấy là đối trong ấy trước chẳng thể được. Vì tánh trước vô trước, tánh  trước không thật nên gọi vô trước. Vì đối trong ấy năng trước, sở trước,  do đây, vì đây, nhân đây, thuộc đây đều chẳng thể được, nên gọi vô  trước.
Thiện Dũng Mãnh! Nói không buộc ấy, nghĩa là đối trong ấy  buộc chẳng thể được. Vì tánh buộc không buộc, tánh buộc không thật, nên  gọi không buộc. Vì đối trong ấy năng buộc, sở buộc, do đây, vì đây, nhân  đây, thuộc đây đều chẳng thể được nên gọi không buộc.
Thiện Dũng Mãnh! Nếu đối các pháp không dính không buộc, làm sao đối pháp nói được mở rảnh.
Thiện Dũng Mãnh! Không dính không buộc, cũng không mở rảnh, lìa trói mát mẻ, gọi chơn giải thoát.
Thiện  Dũng Mãnh! Nếu kẻ đối các pháp không chấp dính, thời không trói buộc.  Nếu đối các pháp không trói dính, thời không mở rảnh. Xa lìa ba sự việc,  lìa buộc mát mẻ, gọi chơn giải thoát.
Thiện Dũng Mãnh! Như vậy,  Bồ tát ngộ vào các pháp không dính không buộc cũng không mở rảnh, được  chơn trí kiến tu hành Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Dũng Mãnh! Nếu  các Bồ tát năng hành được như thế, gần kề Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề,  chóng năng chứng được Nhất thiết trí trí.
Thiện Dũng Mãnh! Ta đem  vi diệu Pháp ấn Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế ấn cho chúng các  Bồ tát Ma ha tát, khiến dứt lưới nghi, tinh siêng tu học Bát nhã Ba la  mật đa sâu thẳm mau đến rốt ráo.
Thiện Dũng Mãnh! Ta nay tự cầm  lấy Pháp ấn như thế khiến trụ lâu đời lợi vui hữu tình. Sở dĩ vì sao? Vì  chúng Thanh văn của Ta không có thắng thần lực năng duy trì được Pháp  ấn vi diệu Bát nhã Ba la mật đa đến sau Ta diệt độ, thời sau phần sau  năm trăm năm sau nhiêu ích hữu tình.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Hiền  Thủ Bồ tát, Đạo Sư Bồ tát thảy năm trăm Bồ tát bậc Thượng thủ và Thiện  Dũng Mãnh Bồ tát Ma ha tát rằng: Các ngươi nên học Như Lai vô lượng vô  số trăm ngàn trăm ức muôn ức kiếp đã từng tu nhóm Bát nhã Ba la mật đa  sâu thẳm như thế mà làm thượng thủ, tuôn chảy ra Bát nhã Ba la mật đa  sâu thẳm, gây dựng ra Vô thượng Pháp tạng Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm.  Các ngươi cần nên duy trì Pháp tạng như thế, sau Ta Biết bàn thời sau  phần sau năm trăm năm sau. Vô thượng Chánh pháp sắp muốn hoại diệt, khi  thời phận bắt đầu chuyển, nên rộng vì hữu tình tuyên nói khai chỉ, khiến  kia nghe rồi được lợi vui lớn.
Khi đó, các Bồ tát nghe Phật dạy rồi, đều từ tòa đứng dậy đảnh lễ nơi chân Phật, chắp tay cung kính đồng thưa Phật rằng:
Bạch  Thế Tôn! Chúng tôi phải học Như Lai vô lượng vô số trăm ngàn trăm ức  muôn ức kiếp đã từng tu nhóm Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm mà làm thượng  thủ, tuôn chảy ra Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, gây dựng được Vô  thượng Pháp tạng Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm.
Chúng tôi phải  duy trì Pháp tạng như thế, sau Phật Niết bàn thời sau phần sau năm trăm  năm sau, Vô thượng Chánh pháp sắp muốn hoại diệt, khi mà thời phận bắt  đầu chuyển, phải rộng vì hữu tình tuyên nói khai chỉ, khiến kia nghe rồi  được lợi vui lớn.
Bạch Thế Tôn! Chính ở thời kia có khủng bố  lớn, có hiểm nạn lớn, có bạo ác lớn. Chính ở thời kia các loại hữu tình  phần nhiều trọn nên nghiệp cảm thiếu Chánh pháp, tâm tham dục nhiều,  tham bất bình đẳng và bị tham phi pháp làm ô nhiễm, keo rít ganh ghét  trói buộc nơi tâm, nhiều hung bừng bừng giận dữ, ưa lời thô ác, nịnh  cong dối gạt, vui làm phi pháp, ômg nhiều khinh dể, đấu tranh kiện cáo  chống nhau, trụ bất luật nghị, bị say đắm thèm thuồng che khuất, lười  nhác tăng lên, siêng năng thấp kém, quên mất chánh niệm, trụ biết bất  chánh, mạnh miệng mổ dài, kiêu căng khinh ngạo, ưa làm ác nghiệp, ẩn che  nội tâm, tăng tham sân si, mỏng ít căn lành, bị vỏ trứng vô minh che  tối nên có các sở hành đều thuận đẳng ma, đối thâm pháp luật hằng lòng  oán hại, với Pháp bảo tạng thường làm đại tặc, bẩm tánh tệ ác khó gần  gũi được!
Bạch Thế Tôn! Ngày nay chúng tôi quyết định duy trì  được Như Lai vô lượng vô số trăm ngàn trăm ức muôn ức kiếp căn lành đã  nhóm Vô thượng Pháp tạng như thế, làm cho hữu tình kia nhiêu ích lớn.
Bạch  Thế Tôn! Thời đại kia sẽ có số ít hữu tình đối Pháp tạng này siêng cầu  vui muốn tu học, tánh kia chất trực, không nịnh không dối, thà bỏ thân  mạng chẳng gây oán pháp, đối pháp cũng không phỉ báng chán bỏ. Các chúng  tôi cùng loại kia sẽ làm nhiêu ích, đối thâm pháp này chỉ hiện khuyên  dẫn khen gắng vui mừng khiến siêng tu học.
Bấy giờ, Thế Tôn liền  dùng thần lực hộ trì Bát nhã Ba la mật đa Pháp tạng vô thượng nhiệm mầu  sâu thẳm, khiến chúng ác ma thẳng thể hoại diệt được. Lại dùng uy lực hộ  kẻ năng thọ trì tinh tiến tu hành Pháp tạng đây, khiến lưới ma phải  rách, tự nhiên giải thoát, với sở tu hành mai đến rốt ráo.
Khi  đó, Phật mỉm cười phóng ánh sáng lớn soi khắp thế giới Tam thiên đại  thiên, trong người trên trời nơi nơi hữu tình nhờ ánh sáng Phật được  thấy lẫn nhau. Khi ấy chúng hội đây trời, rồng, dược xoa, kiện đạt  phược, a tố lạc, yết lộ trà, khẩn nại lạc, mạc hô lạc già và các thần  chúng khác đều cầm các thứ diệu hoa hương của trời dâng rải lên Thế Tôn  mà vì cúng dường, lại phát tiếng khen vịnh cao lớn rằng: Đức Như Lai rất  lạ! Sức đại uy thần hộ trì Pháp tạng và kẻ tu hành, khiến quan ác ma  chẳng thể hoại diệt, xé các lưới ma, được đại tự tại, đối sở tu hành mau  tới rốt ráo. Nếu có các thiện nam tử thiện nữ nhân thảy tịnh tín đối  pháp môn đây thọ trì đọc tụng, vì người rộng nói, chẳng còn sợ hãi các  ác ma quân. Nếu các Bồ tát đối pháp môn đây thọ trì đọc tụng, rộng vì  người nói, lại năng hàng phục được các ác ma quân, mà tất cả ác ma chẳng  thể làm lưu nạn.
Bấy giờ, Phật bảo Thiện Dũng Mãnh rằng: Như vậy như vậy, như trời thảy vừa nói.
Thiện  Dũng Mãnh! Như Lai đối pháp môn vô thượng đây vì các ác ma đã kiết  cương giới, khiến chúng ác ma có bao chài lưới đối pháp môn này chẳng  thể làm ngại.
Thiện Dũng Mãnh! Ngày nay Như Lai nương pháp môn  đây đẩy lui bấy nhiêu thế lực các ác ma. Thiện Dũng Mãnh! Ngày nay Như  Lai hộ pháp môn đây ngăn cản các ác ma khiến chẳng sanh tổn.
Thiện  Dũng Mãnh! Nếu có các thiện nam tử thiện nữ nhân thảy tịnh tín đối pháp  môn này thọ trì đọc tụng, rộng vì người nói, tất cả ác ma chẳng thể làm  rối loạn, mà năng hàng phục các ác ma oán. Nếu các Bồ tát đối pháp môn  đây thọ trì đọc tụng, rộng vì người nói, khắp năng hàng phục được tất cả  ma quân, thí các hữu tình lợi ích an vui.
Thiện Dũng Mãnh! Pháp môn như thế chẳng phải bàn tay các loại hữu tình tạp nhiễm tệ ác năng cầm tới được.
Thiện Dũng Mãnh! Pháp môn như thế chẳng phải chỗ hành địa của kẻ bị chài lưới ma bắt trói.
Thiện Dũng Mãnh! Pháp môn như thế là chỗ hành địa của kẻ tánh điều thiện cực thông huệ.
Thiện  Dũng Mãnh! Như voi ngựa cực điều thiện thông huệ, chẳng phải bậc tiểu  vương thảy mà cưỡi ngự được, nó cũng chẳng xuất hiện ra ở thời tệ ác,  duy chỉ là vị Luân vương mới thọ dụng được. Do đấy xuất hiện ở thời đại  kia, kẻ điều nhu cực thông huệ mới năng thọ dụng được pháp môn đây, nên  pháp môn này mới rơi vào tay kia.
Thiện Dũng Mãnh! Ví như Trai  Giới Long Vương, Thiện Trụ Long Vương, Ai La Phiệt Nõa Long Vương, kia  chẳng vì người chỗ thọ dụng và vì thấy vậy mà hiện ra trước, cũng lại  chẳng vì các Thiên chúng khác chỗ thọ dụng vậy mà hiện ra trước, chỉ vì  Thiên chúng điều nhu thông huệ chỗ thọ dụng nên hiện ra trước vậy. Như  Thiên Đế Thích nghĩ cùng Thiên chúng qua chỗ dạo chơi. Khi sửa sang  nghiêm giá như vậy, Long kia hiện làm tướng trạng như thế đến hiện ra  trước. Kia vì Thiên đế thảy chỗ thọ dụng vậy. Như vậy, nếu co kẻ Thiện  sĩ Vị nhân đế mới năng thọ dụng được pháp môn sâu thẳm đây, nghĩa là  năng lóng nghe thọ trì đọc tụng, vì loại hữu tình tuyên thị phân biệt.  Kia đối pháp đây làm đại trang nghiêm, năng đại lưu thông, làm đại Pháp  soi, thành đại Pháp hỷ, thọ đại Pháp lạc.
Thiện Dũng Mãnh! Nếu  đối Bát nhã Ba la mật đa pháp môn sâu thẳm, thọ trì một câu hãy được vô  lượng vô biên công đức, huống có đối kinh Đại Bát Nhã đây năng đủ thọ  trì, chuyển đọc biên chép, cúng dường lưu bố, rộng vì người nói, kia chỗ  được phước chẳng thể nghĩ bàn!
Thiện Dũng Mãnh! Duy chỉ kẻ tánh  điều nhu cực thông huệ mới năng nhiếp thọ được pháp môn như vầy. Nếu kẻ  chẳng điều nhu cực thông huệ, đối pháp sâu thẳm đây chẳng phải cảnh giới  của kia.
Thiện Dũng Mãnh! Ta vì dứt các nghi ngờ cho hữu tình nên thuyết kinh Đại Bát Nhã như đây.
Khi  thuyết pháp này vô lượng vô số Bồ tát Ma ha tát được Vô sanh pháp nhẫn.  Lại có vô biên các loại hữu tình đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng  giác. Bấy giờ Như Lai ký kia quyết định sẽ chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ  đề.
Khi Đức Bạc Già Phạm Thế Tôn thuyết kinh này rồi, Thiện Dũng  Mãnh thảy các Đại Bồ tát và bốn chúng, trời, rồng, dược xoa, kiện đạt  phược, a tố lạc, yết lộ trà, khẩn nại lạc, mạc hô lạc già, người, phi  người thảy, tất cả đại chúng nghe Phật đã thuyết đều rất vui mừng tín  thọ phụng hành.