Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 23
Bấy  giờ, Tối Thắng lại từ tòa đứng dậy, lệch che vai tả, gối hữu chấm đất,  chấp tay cung kính mà thưa Phật rằng: Như Thế Tôn nói pháp tánh bình  đẳng, sao gọi bình đẳng? Bình đẳng pháp nào nên gọi là bình đẳng? 
Phật  bảo Tối Thắng! Thiên vương phải biết: Bình đẳng quán các pháp tự tánh  vắng lặng, chẳng sanh chẳng diệt, nên gọi bình đẳng. Tất cả phiền não hư  vọng phân biệt tự tánh vắng lặng chẳng sanh chẳng diệt, nên gọi bình  đẳng. Danh tướng phân biệt tự tánh vắng lặng chẳng sanh chẳng diệt, nên  gọi bình đẳng. 
Diệt các điên đảo, chẳng khởi vin duyên nên gọi  bình đẳng. Diệt tâm năng duyên, vô minh hữu ái tức đều vắng lặng, diệt  si ái nên chẳng còn chấp đắm ngã và ngã sở, nên gọi bình đẳng. 
Chấp  ngã và ngã sở dứt trừ hẳn nên danh sắc vắng lặng, nên gọi bình đẳng.  Danh sắc dứt nên biên kiến chẳng sanh, nên gọi bình đẳng. Ðoạn thường  dứt nên thân kiến vắng lặng, nên gọi bình đẳng. 
Thiên vương phải  biết: Năng chấp sở chấp tất cả phiền não chướng thiện pháp ấy đều nương  thân kiến mà sanh. Nếu các Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm  phương tiện khéo léo năng diệt được thân kiến, tất cả phiền não và tùy  miên đều vắng lặng hẳn, khởi muốn cũng dứt. Ví như đại thọ nhổ trừ gốc  cội, nhánh nhóc lá thảy không thứ nào chẳng chết khô. Như người không  đầu, mạng căn thảy tuyệt mất. Tùy miên phiền não cũng lại như thế, nếu  dứt thân kiến các kia đều diệt hẳn. Nếu người quán được các pháp vô ngã  là năng chấp sở chấp đều vắng lặng hẳn. 
Bấy giờ, Tối Thắng bèn thưa Phật rằng: Vì sao ngã kiến khởi chướng chơn lý? 
Phật  bảo Tối Thắng: Thiên vương phải biết: Ðối năm thủ uẩn quấy bảo có ngã,  tức khởi ngã kiến. Pháp chơn thật tự tánh bình đẳng không có chấp năng  sở, ngã kiến trái nhau, nên gọi là chướng. 
Thiên vương phải  biết: Ngã kiến như thế chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai,  đều không chỗ trụ, gọi là vắng lặng, tức là bình đẳng. Xa lìa ngã kiến,  thông suốt bình đẳng, gọi chơn thật không. Quán sát không đây, không  tướng không nguyện, tự tánh vắng lặng, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng lấy  chẳng đắm, xa lìa ngã kiến nên gọi bình đẳng. 
Thiên vương phải  biết: Nói là ngã ấy không đến không đi, không có chơn thật, hư dối phân  biệt; pháp từ dối sanh cũng là hư dối. Nếu các Bồ tát hành Bát nhã Ba la  mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo quán pháp như thế xa lìa hư dối,  vậy nên gọi là vắng lặng bình đẳng. 
Thiên vương phải biết: Năng  chấp sở chấp gọi là phực cháy, lìa gọi vắng lặng. Nếu các Bồ tát hành  Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo, năng như thật biết  được năng chấp sở chấp diệt các phiền não. Vì tăng thiện pháp, dứt chấp  năng sở và các phiền não, chẳng thấy khá sanh, chẳng thấy khá diệt nên  gọi bình đẳng. Tu tất cả các thứ Ba la mật đa, xa lìa ma chướng, chẳng  thấy khá tu, chẳng thấy khá lìa, nên gọi bình đẳng. Bồ tát thường xuyên  Bồ đề phần pháp, chẳng khởi tác ý Thanh văn Ðộc Giác, đối Bồ đề phần  Thanh văn Ðộc Giác chẳng thấy tướng khác, nên gọi bình đẳng. Duyên Nhất  thiết trí tâm chẳng ngưng nghỉ, thường trụ không hạnh, do sức đại bi  chẳng bỏ hữu tình, nên gọi bình đẳng. 
Thiên vương phải biết: Nếu  các Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo đối  tất cả pháp tâm duyên tự tại: Tâm duyên vô tướng mà tu Bồ đề, chẳng thấy  vô tướng và Bồ đề khác nhau, nên gọi bình đẳng. Tâm duyên vô nguyện  chẳng bỏ ba cõi, chẳng thấy vô nguyện và ba cõi khác nhau nên gọi bình  đẳng. 
Quán thân bất tịnh, tâm trụ thanh tịnh. Quán hạnh vô  thường, tâm duyên sanh tử mà chẳng chán bỏ. Quán khổ hữu tình, trụ vui  Niết bàn. Quán pháp vô ngã đối loại hữu tình khởi tâm đại từ, thường vì  hữu tình nói thuốc bất tịnh. 
Chẳng thấy bệnh tham thường nói đại  từ, chẳng thấy bệnh sân thường nói duyên khởi, chẳng thấy bệnh si vì kẻ  đủ ba bệnh nói thuốc vô thường, chẳng thấy ba bệnh và vô thường khác  nhau. 
Như vậy, Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương  tiện khéo léo đối tất cả pháp tâm duyên tự tại: Duyên pháp lìa tham vì  hóa Thanh văn. Duyên pháp lìa sân vì hóa Ðộc Giác. Duyên pháp lìa si vì  hóa Bồ tát. 
Duyên tất cả sắc, nguyện được diệu sắc thanh tịnh  Như Lai, vì vô sở đắc vậy. Duyên tất cả tiếng, vì được tiếng tăm nhiệm  mầu chư Phật, vì vô sở đắc vậy. Duyên tất cả hương, nguyện được giới  hương thanh tịnh chư Phật, vì vô sở đắc vậy. Duyên tất cả vị, nguyện  được tướng Ðại trượng phu đệ nhất trong mùi vị Như Lai, vì vô sở đắc  vậy. Duyên tất cả pháp, nguyện được tâm vắng lặng Như Lai, vì vô sở đắc  vậy. 
Duyên các bố thí, vì được trọn nên thân Phật tướng hảo.  Duyên các tịnh giới, vì được nghiêm tịnh cõi Phật viên mãn. Duyên các an  nhẫn, nguyện được tiếng Ðại phạm âm chư Phật và được thân tịnh quang  minh chư Phật. Duyên các tinh tiến, vì độ hữu tình thường không gián  đoạn. Duyên các tĩnh lự, vì muốn trọn nên thần thông rộng lớn. Duyên các  Bát nhã, vì dứt tất cả vọng kiến phiền não. 
Duyên các Ðại từ  bình đẳng vô ngại, vì các hữu tình đều được an vui. Duyên các Ðại bi, vì  hộ Chánh pháp cứu vớt hữu tình khổ lớn sanh tử. Duyên các Ðại hỷ, vì  được thuyết pháp vô ngại tự tại, hữu tình vui muốn. Duyên các Ðại xả, vì  chẳng chấp thấy phiền não theo ngủ ràng buộc hữu tình. 
Thiên  vương phải biết: Nếu các Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm  phương tiện khéo léo chẳng thấy hai việc gọi hạnh bình đẳng. 
Duyên  bốn nhiếp pháp vì hóa hữu tình. Duyên lỗi rít ganh, vì xả của cải tu  hạnh bố thí. Duyên lỗi phá giới, vì trụ tịnh giới. Duyên lỗi giận dữ, vì  được an nhẫn. Duyên lỗi tán loạn, vì được thắng định vắng lặng Như Lai.  Duyên lỗi ác huệ, vì nên vô ngại trí huệ Như Lai. Duyên pháp Nhị thừa,  vì muốn trọn nên Vô thượng Ðại thừa. 
Duyên các ác thú, vì muốn  cứu vớt tất cả hữu tình. Duyên các thiện thú, vì muốn khiến biết các quả  người trời đều phải bại hoại. Duyên các hữu tình, vì cho rõ suốt đều  không bền chắc, chỉ có hư dối. 
Duyên nhớ theo Phật, vì được trọn  nên thắng định giúp đạo. Duyên nhớ theo Pháp, vì được thông suốt Mật  tạng các pháp. Duyên nhớ theo Tăng, vì chúng hòa hợp, tâm không quay  lui. Duyên nhớ theo Xả, vì không yêu đắm. Duyên nhớ theo Giới, vì được  tịnh giới. Duyên nhớ theo Trời, vì thành Bồ đề được các trời khen ngợi. 
Duyên  tướng tự thân vì được thân Phật. Duyên tướng lời mình vì được lời Phật.  Duyên tướng ý mình vì được tâm bình đẳng chư Phật. Duyên pháp hữu vi vì  thành Phật trí. Duyên pháp vô vi vì được vắng lặng. 
Thiên vương  phải biết: Nếu các Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương  tiện khéo léo, không có luống qua một tâm một hạnh mà chẳng hồi hướng về  Nhất thiết trí. Bồ tát như thế hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm  phương tiện khéo léo, dù khắp duyên pháp mà được chẳng đắm, vậy nên gọi  là phương tiện khéo léo, quán tất cả pháp không chẳng hướng tới nơi Ðại  Bồ đề. 
Ví như thế giới Tam thiên đại thiên sanh ra các vật không  chẳng đều vì hữu tình thọ dụng. Như vậy, Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật  đa sâu thẳm phương tiện khéo léo sở duyên cảnh giới không chẳng nhiêu  ích hướng tới Bồ đề. Ví như các sắc không có chẳng nhơn nơi bốn đại  chủng. Như vậy, Bồ tát sở duyên cảnh giới không có một pháp chẳng tới Bồ  đề. 
Vì cớ sao? Vì Bồ tát tu hành đều nhơn duyên ngoài mà được  thành lập. Nghĩa là các Bồ tát nhơn kẻ rít ganh, thành tựu bố thí Ba la  mật đa. Nhơn kẻ bội ơn, thành tựu tịnh giới Ba la mật đa. Nhơn kẻ ác  tánh, thành tựu an nhẫn Ba la mật đa. Nhơn kẻ lười biếng, thành tựu tinh  tiến Ba la mật đa. Nhơn kẻ tán loạn, thành tựu tĩnh lự Ba la mật đa.  Nhơn kẻ ngu si, thành tựu Bát nhã Ba la mật đa. 
Nếu các hữu tình  làm tổn hại Bồ tát, Bồ tát nhơn kia đè dứt giận dữ. Bồ tát nếu thấy kẻ  tu hành thiện pháp hướng Bồ đề là sanh tâm con mình. Bồ tát như thế khen  chẳng sanh mừng, chê chẳng sanh giận. Thấy kẻ không vui khởi lòng đại  từ, thấy kẻ có khổ khởi lòng đại bi, thấy kẻ có vui khởi lòng đại hỷ,  thấy kẻ không khổ khởi lòng đại xả. Nhân kẻ khó giáo hóa phát chỉ Xa ma  tha. Nhơn kẻ dễ giáo hóa phát quán Tỳ bát xá na. Nhơn kẻ tín hành khởi  trí biết ơn. 
Nếu thấy hữu tình ác ngoại duyên mạnh, thiện ngoại  duyên yếu, thời siêng giữ hộ. Nếu thấy kẻ sức của nhơn có mạnh mẽ, thời  dùng các thứ phương tiện khiến thọ giáo pháp. Nếu thấy hữu tình trí huệ  khai ngộ, thời vì tuyên nói pháp yếu thẳm sâu. Nếu thấy hữu tình nói  rộng mới ngộ được, thời vì thứ lớp tuyên nói các pháp. Nếu các hữu tình  chấp đắm văn tự, vì nói cú nghĩa khiến được khai hiểu. Nếu đã học chỉ vì  nói diệu quán, nếu đã học quán vì nói tịch chỉ. Nếu chấp trì giới vì  nói địa ngục, trì giới không chấp thời chẳng nói chi. Nếu chấp văn huệ  vì nói tư, tu. Nếu chấp đẳng trì vì nói Bát nhã. 
Nếu có kẻ ưa  muốn chỗ vắng vẻ, tức vì kia nói pháp tâm xa lìa. Nếu có kẻ muốn nghe  công đức Phật, tức vì kia nói Thánh trí vô thượng. Vì kẻ tham dục nói  pháp bất tịnh, vì kẻ giận dữ nói pháp từ bi, vì kẻ ngu si nói pháp duyên  khởi, vì kẻ đẳng phần nói các thứ pháp hoặc nói bất tịnh, hoặc nói từ  bi, hoặc nói duyên khởi. 
Kẻ đã điều phục vì nói tịnh giới, thắng  định, diệu huệ. Kẻ cần vào Phật thừa mà thọ hóa, vì thứ lớp nói Ba la  mật đa. Kẻ nên dùng đè nén mà thọ hóa, trước bẻ lời lẽ kia, sau vì nói  pháp. Kẻ nên dùng các thứ lời lẽ mà thọ hóa, tức vì kia nói nhân duyên  thí dụ khiến được mở hiểu. Kẻ cần đem thâm pháp mà thọ hóa, vì nói Bát  nhã Ba la mật đa phương tiện khéo léo không ngã không pháp. 
Kẻ  mê các kiến vì nói pháp không. Kẻ nhiều tìm tòi vì nói vô tướng. Kẻ đắm  hữu vi vì nói vô nguyện. Kẻ mê các uẩn vì nói như huyễn. Kẻ mê các giới  vì nói vô tánh. Kẻ mê các xứ vì nói như mộng. 
Kẻ say cõi Dục vì  nói lửa cháy. Kẻ đắm cõi Sắc vì nói hành khổ. Kẻ đắm cõi Vô sắc vì nói  các hạnh vô thường. Hữu tình khó hóa vì khen giống Thánh. Hữu tình dễ  hóa vì nói tĩnh lự và vô lượng tâm. Nếu kẻ nghe sanh trời mà thọ hóa, vì  nói vui khoái. 
Kẻ nhân pháp Thanh văn mà thọ hóa, vì nói thánh  đế. Kẻ nhân pháp Ðộc Giác mà thọ hóa, vì nói duyên khởi. Kẻ nhân pháp Bồ  tát mà thọ hóa, vì nói pháp tịnh tâm đại từ bi. 
Bồ tát tu hành  vì nói phước huệ. Bồ tát chẳng lui vì nói tịnh độ. Bồ tát còn buộc một  đời vì nói nghiêm tòa Bồ đề. Kẻ nên đem Phật thuyết mà thọ hóa, vì kia  thứ lớp nối nhau mà nói. 
Thiên vương phải biết: Bồ tát như thế  tu hạnh thanh tịnh Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo  được các tự tại thuyết pháp lợi ích, không có luống qua. 
Khi  thuyết Bồ tát được pháp tự tại này, ba vạn trời người đều phát tâm Vô  thượng Chánh đẳng giác, năm ngàn Bồ tát được Vô sanh nhẫn. 
Bấy  giờ, Thế Tôn liền bèn mỉm cười. Pháp thường các Phật khi hiện mỉm cười,  các thứ sắc quanh từ diện môn phóng ra xanh vàng đỏ trắng tía sắc gương,  soi khắp mười phương vô biên thế giới, hiện việc hiếm có, về lại chỗ  Phật quanh hữu ba vòng vào trong đảnh Phật. 
Khi ấy, Xá Lợi Tử  xem tướng lành đây lòng ôm do dự, liền từ tòa dậy, lệch che vai tả, gối  hữu chấm đất, chấp tay cung kính mà thưa Phật rằng; Bạch Thế Tôn! Vì  nhân duyên nào hiện tướng lành đây? 
Bấy giờ, Phật bảo Xá Lợi Tử  rằng: Trời Tối Thắng đây đã từng quá khứ vô lượng vô số vô biên đại kiếp  ở chỗ các Phật tu hành tất cả Ba la mật đa, vì các Bồ tát thủ hộ Bát  nhã Ba la mật đa. Do nhân duyên đây, nay được gặp Ta thưa hỏi lãnh thọ  Bát nhã Ba la mật đa. 
Ở đời vị lai, lại trải qua vô lượng vô số  đại kiếp tu tập tư lương Vô thượng Bồ đề, nhiên hậu chứng được sở cầu Vô  thượng Chánh đẳng Bồ đề, mười hiệu đầy đủ. Phật tên Công Ðức Trang  Nghiêm, cõi tên Tối Cực Nghiêm Tịnh, kiếp tên Thanh Tịnh. 
Cõi ấy  giàu vui, nhân chúng phồn thịnh, thuần Bồ tát Tăng, không Thanh văn  chúng. Ðất liền cõi kia bảy báu hiệp thành, các báu trang nghiêm, bằng  phẳng như bàn tay, hương hoa cỏ mềm mà trau dồi đó. Không các núi gò,  núi đồi chông gai. Phan phướn lọng hoa các thứ trang nghiêm. Có đô thành  lớn tên là Nan Phục. Lưới the bảy báu phủ trùm nơi trên, dây vàng giảng  bủa, gác treo chuông vàng. Ngày đêm sáu thời trên không tấu những nhạc  trời và rải các thứ hương hoa trời thơm đẹp. 
Nhân chúng cõi ấy  sung sướng hưởng vui, xinh đẹp hơn cung trời tha hóa kia. Người trời đi  lại chẳng cách ngại nhau, không ba ác thú và danh Nhị thừa, hữu tình cõi  kia chỉ cầu Phật trí. Phật ấy hằng vì các Ðại Bồ tát tuyên nói các thứ  pháp yếu thanh tịnh. Vô lượng vô biên quyến thuộc Bồ tát không chấp tà  kiến, phá giới, tà mạng, cũng không các kẻ mù điếc câm ngọng gù lưng và  căn khuyết thảy các việc xấu ác. Ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp  trang nghiêm nơi thân. Như Lai cõi kia thọ lượng tám mươi tiểu kiếp, các  chúng người trời không kẻ chết yểu. Phật có vô lượng công đức như thế,  nếu muốn thuyết pháp, trước phóng quang minh, các chúng Bồ tát gặp quang  ấy rồi tức biết Thế Tôn sắp muốn thuyết pháp, chúng ta ngày nay nên  phải qua nghe. 
Khi đó trời vì Phật trải tòa Sư tử. Lượng tòa cao  rộng trăm do tuần, trang nghiêm các báu, cúng dường vô lượng. Thế Tôn  thăng tòa vì chúng thuyết pháp. Các Bồ tát kia thông minh căn lợi, một  nghe lãnh ngộ, lìa ngã ngã sở; đồ dùng uống ăn ứng theo nghĩ tức có. 
Khi  Phật nói pháp trao ký cho Tối Thắng, năm vạn trời người vui mừng hết  lòng, đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác, đều nguyện đời sau sanh  cõi Phật kia. Bấy giờ, Tối Thắng nghe Phật đã nói, vui mừng nhảy nhót  được chưa từng có, bay lên hư không cao bảy cây đà la. 
Khi đó  cõi Tam thiên sáu thứ biến động, các kỹ nhạc trời chẳng đánh tự kêu, rải  nhiều hoa trời để cúng dường Phật và Ðại Bồ tát, Tối Thắng thiên vương.  Khi ấy, Thiên vương kia từ không mà xuống, lễ Phật hai chân, lui ngồi  một phía.
Khi  ấy, Xá Lợi Tử hỏi Tối Thắng rằng: Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa  sâu thẳm phương tiện khéo léo thông suốt pháp tánh, bấy giờ tức nên ngồi  tòa Bồ đề, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp độ  chúng hữu tình. Vì duyên nào trước hiện khổ hạnh sáu năm, hàng phục  thiên ma, sau thành Chánh giác? 
Tối Thắng đáp rằng: Ðại đức!  Phải biết Bồ tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo  léo thông suốt pháp tánh, thật không khổ hạnh, vì hàng phục ngoại đạo  nên thị hiện đó thôi. Mà thiên ma kia là chúa cõi Dục, bẩm tánh điều  thiện thật chẳng nên hoại, vì hữu tình kia nên thị hiện hàng phục. 
Nghĩa  là các ngoại đạo tự xưng năng tu được khổ hạnh số một, vậy nên Bồ tát  thị hiện năng tu khổ hạnh hơn kia. Là các hữu tình hoặc thấy Bồ tát đứng  co một chân, hoặc thấy Bồ tát đứng giơ hai tay lên, hoặc thấy Bồ tát  đứng sững mà xem mặt trời, hoặc thấy Bồ tát nướng thân trên năm thứ lửa  nóng, hoặc thấy Bồ tát treo ngược tấm thân. 
Hoặc thấy Bồ tát nằm  trên chông gai, hoặc nằm trên đống phân trâu, hoặc nằm nơi đá, hoặc lại  nằm đất, hoặc nằm nơi ván, hoặc nằm trên chiếc chày, hoặc nằm trên đống  đất tro. 
Hoặc thấy Bồ tát chỉ mặc áo bằng tấm ván, hoặc mặc áo  cỏ gai, hoặc mặc áo cỏ, hoặc mặc vỏ cây, hoặc mặc áo cỏ tranh, hoặc lại  trần hình, hoặc diện hướng mặt trời mà chuyển theo mặt trời. 
Hoặc  thấy Bồ tát chỉ ăn hạt cỏ đắng, hoặc lại ăn bắp, hoặc ăn gốc cỏ, hoặc  ăn lá cây, hoặc hoa hoăc quả, hoặc ăn thuốc thự dự trên núi, hoặc khoai  nước hoặc ngó sen, hoặc đậu hoặc lúa, hoặc mè hoặc gạo, hoặc sáu ngày  một ăn, hoặc uống nước qua ngày, hoặc nơi một ngày ăn một giọt tô, hoặc  một giọt mật, hoặc một giọt sữa, hoặc không ăn gì cả, hoặc thường ngủ  mê. 
Hiện các thứ khổ hạnh như thế thảy lâu trong sáu năm không  thiếu sót một điều. Nhưng thật Bồ tát không khổ hạnh ấy, hữu tình độ  được mà tự thấy có thế thôi. Khi Bồ tát hiện khổ hạnh như thế có sáu  mươi muôn ức các chúng trời người nhơn thấy việc đây an trụ Tam thừa.  Lại có trời người do sức căn lành đời trước rất muốn Ðại thừa, thời thấy  Bồ tát ngồi tòa đài bảy báu, thân tâm chẳng động, vui mặt ngậm cười,  vào thắng đẳng trì, thời gian lâu sáu năm mới từ định khởi. Có chúng  trời người rất mến Ðại thừa muốn lóng nghe pháp, thời thấy Bồ tát ngồi  vững thuyết pháp lâu đến sáu năm. 
Ðại đức! Phải biết Bồ tát như  thế phương tiện khéo léo hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm năng hàng  thiên ma, phục các ngoại đạo, đại bi hóa độ tất cả hữu tình. Ðã qua sáu  năm, từ định mà khởi, thuận theo pháp đời đến sông Vô cấu tắm rửa xong  rồi, đứng nơi bìa sông. Có nàng chăn bò nặn sữa trăm bò đem cho một bò  uống, lại nặn sữa bò này dùng làm cháo sữa phụng dâng Bồ tát. 
Lại  có sáu ức trời, rồng, dược xoa, kiện đạt phược thảy đều đem các thứ  uống ăn thơm ngon mà đến phụng kiến, đồng thanh thưa rằng: Cúi xin Ðại  sĩ Chánh sĩ thọ nhận cúng dường uống ăn chúng tôi! Bồ tát thương xót  thảy đều vì nhận. 
Khi đó nàng chăn bò, trời, rồng, dược xoa,  kiện đạt phược thảy chẳng thấy lẫn nhau, đều thấy Bồ tát riêng nhận mình  cúng. Lúc ấy có vô lượng các trời người thảy nhân thấy nhận cúng đều  ngộ đạo. Vậy nên, Bồ tát vì đó mà thị hiện. Bồ tát bấy giờ thật chẳng  tắm rửa, cũng chẳng nhận cúng người trời thảy kia. 
Ðại đức! Phải  biết Bồ tát như thế hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo  léo thị hiện khi đi đến tòa Bồ đề có trời ở đất tên là Diệu Ðịa cùng  chúng thiên thần quét dọn quanh khắp, dùng nước thơm rưới, đem hoa đẹp  rải. 
Khi đó thế giới Tam thiên đại thiên đây bốn Ðại thiên vương lãnh Thiên chúng mình mưa hoa trời đẹp cúng dường Bồ tát. 
Thiên chủ Ðế Thích, Thiên vương Thời Phận lãnh Thiên chúng mình trụ giữa hư không tấu tiếng thiên nhạc khen ngợi Bồ tát. 
Thiên  vương Hỷ Túc lãnh Thiên chúng mình đem lưới bảy báu giăng phủ thế giới.  Bốn góc lưới kia treo chuông vàng tía, đều mưa nhiều báu cúng dường Bồ  tát. 
Thiên vương Thiện Hóa lãnh Thiên chúng mình đem lưới vàng  tía giăng phủ thế giới, đánh các thiên nhạc, rưới các thứ hoa cúng dường  Bồ tát. 
Thiên vương Tự Tại lãnh Thiên chúng mình, các rồng,  dược xoa, kiện đạt phược thảy đều đem các thứ đồ cúng thượng diệu cúng  dường Bồ tát. 
Thiên vương Ðại Phạm chủ cõi Kham Nhẫn đã thấy Bồ  tát đến tòa Bồ đề, liền bảo tất cả chúng Phạm thiên rằng: "Các ngươi  phải biết: Nay Bồ tát đây áo giáp mũ trụ vững vàng mà tự trang nghiêm.  Chẳng trái bản thệ, tâm không nhàm mỏi, các hạnh Bồ tát đều đã đầy đủ,  thông suốt vô lượng pháp giáo hóa hữu tình. Các bậc Bồ tát đều được tự  tại, đối các hữu tình nơi tâm thanh tịnh, khéo biết tất cả căn tánh sai  khác, thông suốt bí mật tạng Như Lai. Vượt hiểu biết sự nghiệp tất cả  ma, nhóm các cội căn lành chẳng đợi duyên ngoài. Ðược tất cả Như Lai  chung cùng hộ niệm. khắp vì hàm thức mở cửa giải thoát. Ðại tướng Ðạo sư  dẹp địch ma quân. Ở cõi Ðại thiên độc xưng dũng mãnh, giỏi thí thuốc  Pháp, làm thầy thuốc chúa. Ðỉnh rưới giải thoát, thọ ngôi Pháp Vương,  phóng sáng trí huệ soi khắp tất cả. Tám pháp chẳng nhiễm, ví như hoa  sen. Các môn tổng trì không chẳng thông suốt, sâu rộng khó lường giống  như biển cả. Yên vững chẳng lay như núi Diệu Cao. Trí huệ thanh tịnh  không các bẩn đục. Trong ngoài sáng sạch như ngọc mạt ni. Ðối các pháp  tướng đều được tự tại. Phạm hạnh thanh bạch đã đến rốt ráo. 
Bồ  tát như thế hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo, vì  độ hữu tình đến tòa Bồ đề, ngồi tréo lật bàn chân, hàng phục ma oán. Vì  thành mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải và mười tám pháp Phật bất  cộng thảy, vô lượng vô biên công đức chư Phật, quay xe Ðại pháp, tác  rống Sư tử, đem Pháp thí khắp tất cả hữu tình, mỗi tùy sở nghi đều được  đầy đủ. Vì các hữu tình làm mắt Pháp thanh tịnh, đem pháp Vô thượng hàng  phục ngoại đạo. Muốn chỉ cho chư Phật trọn nên bản nguyện, đối tất cả  pháp mà được tự tại. Các ngươi nên qua đến cúng dường Bồ tát". 
Ðại  đức! Phải biết Bồ tát như thế hành phương tiện khéo léo thị hiện khi đi  đến tòa Bồ đề, tướng ngàn quầng bánh xe ở dưới hai bàn chân đều phóng  vô lượng ánh sáng nhiệm mầu soi khắp địa ngục, bàng sanh, quỉ giới. Hữu  tình trong ấy kẻ gặp sáng đây tức đều lìa khổ, thân tâm an vui. 
Bấy  giờ, trong cung rồng có rồng chúa lớn tên Ca Lý Ca, gặp ánh sáng đây  rồi sanh vui mừng lớn, bảo các rồng rằng: "Ánh sáng nhiệm mầu đây đến  soi chúng ta khiến bọn chúng ta thân tâm an vui. Tôi ở thuở xưa từng  thấy sáng đây, khi đó có Như Lai xuất hưng nơi đời. Nay đã có ánh sáng  nhiệm mầu đây định biết thế gian có Phật xuất hiện. Nên cùng nghiêm sắm  các thứ hương hoa, các của ngọc đẹp, phan phướn lọng hoa, làm các đồ kỷ  nhạc, đi đến cúng dường". Sau đấy rồng chúa đem các quyến thuộc mang cầm  đồ cúng, dấy khắp vầng mây lớn, giáng rưới trận mưa thơm, đi đến Bồ  tát, đánh các kỹ nhạc, thi bày cúng dường, quanh hữu Bồ tát mà khen ngợi  rằng: 
Ánh sáng nhiệm mầu khiến khắp vui mừng, quyết định hơn  hết, Phật ra không nghi. Các thứ ngọc quí trang nghiêm, khắp đất sanh ra  cỏ cây đều biến thành báu. Sông hồ đều lặng không tiếng sóng gió, so  đây định biết Phật ra nơi đời. Thích, Phạm, nhật nguyệt ánh sáng chẳng  hiện, ác thú thanh tịnh Phật ra không nghi. Ví như có người nhỏ lạc cha  mẹ, tuổi đã lớn khôn, bỗng nhiên được lại, vui mừng nhảy nhót chẳng thể  tự dằn; tất cả thế gian thấy Phật hiện ra đều vui mừng chung cũng lại  như thế. Quá khứ chúng ta từng cúng dường chư Phật, nay gặp Pháp vương  Sư tử trong người, vậy thời đời chúng ta sanh ra đây chẳng bỏ qua luống  uổng". 
Ðại đức! Phải biết Bồ tát như thế hành Bát nhã Ba la mật  đa sâu thẳm phương tiện khéo léo, dưới cội Bồ đề nhận trải tòa cỏ, quanh  hữu bảy vòng, chính niệm ngồi vững. Hữu tình thấp kém thấy tướng như  thế. Các Ðại Bồ tát thấy có tám vạn bốn ngàn Thiên tử riêng mỗi trải một  tòa Sư tử lớn. Các tòa Sư tử các báu hiệp thành, lưới the bảy báu giăng  phủ lên trên, mỗi ở bốn góc lưới treo chuông vàng đẹp, phan phướn lọng  tua chỗ chỗ bày la liệt. Bồ tát khắp trên tám vạn bốn ngàn tòa Sư tử đây  đều mỗi ngồi yên, mà các Thiên tử chẳng thấy lẫn nhau, đều bảo Bồ tát  riêng ngồi tòa mình, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vì nhân  duyên này rất sanh vui mừng, đối Vô thượng giác đều được chẳng quay lui.  
Ðại đức! Phải biết Bồ tát như thế hành Bát nhã Ba la mật đa sâu  thẳm phương tiện khéo léo, tướng lông giữa mày phóng ánh sáng lớn soi  khắp thế giới Tam thiên đại thiên, cung điện các ma đều mất uy sáng. 
Khi  ấy, các ma vương đồng khởi nghĩ này: Vì duyên cớ nào có ánh sáng đây  chói che uy sáng cung điện chúng ta, đâu chẳng phải Bồ tát ngồi tòa Bồ  đề sắp chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề? Nghĩ rồi chung xem mới thấy Bồ  tát ngồi tòa Kim cương dưới cội Bồ đề. Thấy rồi kinh sợ, triệu tập ma  quân vô lượng trăm ngàn các thứ hình mạo khác nhau, cầm nhiều đồ kỹ  năng, nhiều thứ tràng phan, thét ra các thứ tiếng, năng khiến kẻ nghe  những lỗ chân lông đều chảy ra máu. Bấy giờ, Bồ tát dùng sức đại bi,  khiến chúng ma quân chẳng thể ra tiếng. Ðấy gọi Bồ tát hành Bát nhã Ba  la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo. 
Ðại đức! Phải biết Bồ  tát như thế hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo nghĩ  nhớ quá khứ vô lượng ức kiếp tinh tiến tu hành bố thí, tịnh giới, an  nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã, từ bi hỷ xả, niệm trụ, chánh đoạn,  thần túc, căn, lực, nhánh giác, nhánh đạo, tịch chỉ diệu quán, ba minh  tám giải đều viên mãn. Nhớ rồi liền đưa bàn tay hữu sắc vàng tự rờ trên  đảnh cho đến khắp thân, nói lời như vầy: "Ta muốn cứu vớt các khổ cho  hữu tình mà khởi Ðại bi". 
Khi các ma vương và bọn quyến thuộc  nghe tiếng Bồ tát nói, tức đều nhào lộn đầu! Bấy giờ, Bồ tát dùng sức  đại bi khiến các chúng ma nghe tiếng trên không: "Các ngươi nên quy y,  năng cho vô úy, cứu hộ tất cả Ðại Tiên tịnh giới". Ma chúa và bè lũ nghe  tiếng ấy rồi, vẫn còn lăn lộn nằm trên đất, nói lời như vầy: Cúi xin  Ðại Tiên cứu hộ mạng tôi. Khi đó Bồ tát nương Bát nhã Ba la mật đa sâu  thẳm phương tiện khéo léo phóng ánh sáng lớn, kia có kẻ gặp đều lìa sợ  hãi. Ma vương và bè lũ nhìn thấy thần biến đây vừa sợ run vừa vui mừng  hai việc lộn lòng. 
Ðại đức! Phải biết Bồ tát như thế hành Bát  nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo, khiến các hữu tình chỗ  thấy mỗi khác. Là hoặc có thấy hàng ma như thế, hoặc có hữu tình chẳng  thấy việc ấy, hoặc thấy Bồ tát chỉ ngồi tòa cỏ, hoặc thấy Bồ tát ngự  trên đài Sư tử, hoặc thấy Bồ tát ngồi trên mặt đất, hoặc thấy ngồi tòa  Sư tử trên không. Thấy cội Bồ đề tướng nó cũng khác, nghĩa là hoặc thấy  đấy cội tất bát la, hoặc có thấy đấy là cội vẻ trời tròn, hoặc thấy cội  này các báu hiệp thành, hoặc thấy cội đây cao bảy cây đà la, hoặc thấy  cội ấy lượng tám muôn bốn ngàn do tuần, có tòa Sư tử lượng bốn muôn hai  ngàn do tuần ở dưới cội này, Bồ tát ngồi đó. Hoặc thấy Bồ tát dạo đi  trong không, hoặc thấy ngồi nơi dưới cội Bồ đề. Bồ tát như thế hành Bát  nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo, thị hiện các thứ thần  thông biến hóa độ các hữu tình. 
Ðại đức! Phải biết Bồ tát như  thế hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo ngồi tòa Bồ  đề, có vô lượng vô số vô biên Bồ tát ở mười phương đều như Căng già sa  cõi thảy đều đến nhóm, trụ giữa hư không, phát các thứ tiếng an ủi Bồ  tát khiến thân an vui, tâm sanh mừng rỡ: "Lành thay, Ðại sĩ! Dũng mãnh  tinh tiến, mau chóng thành cát tường rộng lớn, tâm như kim cương, chớ  sanh kinh sợ. Thần thông du dạo lợi vui hữu tình. Năng một sát na chứng  Nhất thiết trí. Bồ tát như thế ngự tòa Bồ đề, ma đến rối loạn đều chẳng  sanh giận. Tâm một sát na phương tiện khéo léo năng cùng tương ưng lý  thú Bát nhã Ba la mật đa đã đến rốt ráo, thông suốt tất cả khiến giác sở  tri". 
Ðại đức! Phải biết Bồ tát như thế hành Bát nhã Ba la mật  đa sâu thẳm phương tiện khéo léo ngồi tòa Bồ đề, có bao chư Phật mười  phương đều như Căng già sa cõi, khác miệng đồng tiếng khen rằng: "Hay  thay, hay thay! Ðại sĩ mới năng thông suốt được trí Tự Nhiên, trí Vô  Ngại, trí Bình Ðẳng, trí Vô Sư, Ðại Bi trang nghiêm. 
Ðại đức!  Phải biết Bồ tát như thế hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện  khéo léo năng làm được các thứ thị hiện như thế. Các loại hữu tình hoặc  thấy Bồ tát nay được Bồ đề. Hoặc thấy Bồ tát thành Phật đã lâu. Hoặc có  chỉ thấy bốn Ðại thiên vương trong một thế giới đều phụng dâng bát. Hoặc  lại có thấy bốn Ðại thiên vương mười phương cõi đều như cát Căng già  đều phụng dâng bát. Bồ tát bấy giờ, vì hữu tình nên tổng nhận các bát  chồng xấp trong bàn tay, lấy tay đè ấn khiến hiện thành một cái bát. Các  bốn Thiên vương đều chẳng thấy lẫn nhau, đều bảo Thế Tôn riêng nhận bát  ta. 
Bấy giờ, bèn có sáu vạn Thiên tử nương nguyện lực đời trước  đến trước hiến cúng. Kia ở quá khứ khởi nguyện này rằng: "Nếu Bồ tát  này khi chánh thành Phật, nguyện thọ cúng dường đầu tiên của chúng  tôi!". 
Khi thuyết pháp đây ba vạn Bồ tát được Vô sanh nhẫn. Lại  có ba vạn sáu ngàn Bồ tát đối Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề được chẳng quay  lui. Tám vạn người trời xa trần lìa bẩn, sanh mắt tịnh pháp. Vô lượng  vô biên các loại hữu tình đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác. 
Ðại  đức phải biết: Bấy giờ Bồ tát nương Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm  phương tiện khéo léo, sắp muốn quay xe Ðại pháp. Kế Phạm vương chủ trì  cõi Kham Nhẫn kịp thời liền cùng sáu mươi tám vạn các chúng Phạm thiên  đi đến chỗ Phật đảnh lễ hai chân Phật, xếp tay cung kính quanh hữu bảy  vòng khởi ba phen thỉnh rằng: 
"Cúi xin Ðại Bi thương xót chúng tôi quay xe Ðại Pháp! 
Cúi xin Ðại Bi thương xót chúng tôi quay xe Ðại Pháp! 
Cúi xin Ðại Bi thương xót chúng tôi quay xe Ðại Pháp!" 
Ðã  ba thỉnh rồi, tức bèn hóa làm tòa Sư tử lớn. Lượng tòa ấy cao rộng bốn  vạn hai ngàn do tuần, các thứ trang nghiêm vững vàng yên ổn. 
Khi  ấy, mười phương cõi đều có vô lượng Thiên vương, Ðế Thích đều vì Như  Lai trải tòa Sư tử, lượng và trang nghiêm cũng lại như thế. Bồ tát bấy  giờ hiện sức thần thông chư Thiên kia đều thấy Bồ tát ngồi trên tòa mình  mà quay xe Pháp. Bồ tát đã ngồi tòa Sư tử đây, mới vào môn tam ma địa  Vô biên cảnh, phóng ánh sáng lớn soi mười phương phía thế giới đều ngang  như cát Căng già. Lại khiến các cõi kia sáu thứ biến động, hữu tình  trong ấy tạm ngưng các khổ, thân tâm an vui, cũng tạm xa lìa tham sân si  thảy các pháp ác bất thiện, đem lòng từ hướng nhau in như mẹ con. 
Khi  đó thế giới Tam thiên đại thiên đây chẳng có xen hở như một lỗ lông,  trời, rồng, dược xoa, kiện đạt phược thảy, a tố lạc, yết lộ trà, khẩn  nại lạc, mạt hô lạc già, người phi người thảy đầy rẫy nơi trong. Hoặc có  hữu tình kẻ nên nghe khổ pháp mà thọ hóa, nghe Phật nói khổ. Kẻ nên  nghe vô ngã, vắng lặng, xa lìa, vô thường, không pháp mà thọ hóa, cũng  lại như thế. 
Kẻ nên nghe như huyễn mà thọ hóa, nghe nói như  huyễn. Kẻ nên nghe pháp như mộng, vang, tượng, bóng sáng, ánh nắng, biến  hóa, thành tầm hương mà thọ hóa cũng lại như thế. Kẻ nên nghe không, vô  tướng, vô nguyện giải thoát môn mà thọ hóa, nghe Phật nói không, vô  tướng, vô nguyện. 
Khi ấy, loại hữu tình hoặc nghe Như Lai nói  tất cả pháp sanh từ nhân duyên, hoặc nghe nói uẩn, hoặc nghe nói giới,  hoặc nghe nói xứ. Hoặc nghe nói khổ, hoặc nghe nói tập, hoặc nghe nói  diệt, hoặc nghe nói đạo. Hoặc có nghe nói niệm trụ, chánh đoạn, thần  túc, căn, lực, nhánh giác, nhánh đạo. Hoặc nghe nói tịch chỉ, diệu quán.  Hoặc có nghe nói các pháp Thanh văn, hoặc có nghe nói các pháp Ðộc  Giác, hoặc có nghe nói các pháp Bồ tát. Bồ tát như thế hành Bát nhã Ba  la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo thị hiện các thứ tướng quay xe  Pháp theo căn tánh các hữu tình sai khác đều được lợi vui, hết lòng mừng  rỡ. 
Khi ấy, Xá Lợi Tử gọi Tối Thắng rằng: Thiên vương! Bồ tát  hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo, có bao cảnh  giới rất là sâu thẳm khó nghĩ khó bàn, khó biết khó vào? 
Tối  Thắng thưa rằng: Ðại đức! Bồ tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm  phương tiện khéo léo, thắng sự công đức vô lượng vô biên, tôi nay đã nói  trăm phần ngàn phần cho đến cực số phần chẳng được một phần. Duy có Như  Lai mới năng nói hết được. tôi nay đã nói chút phần kia đó đều nương  sức uy thần Như Lai. 
Vì cớ sao? Vì cảnh giới chư Phật chẳng thể  nghĩ bàn, chúng các Bồ tát còn buộc một đời nói công đức kia hãy chẳng  thể hết, huống các Bồ tát. 
Ðại đức! Phải biết cảnh giới chư Phật vắng lặng lìa lời nói, vô phân biệt trí và hậu sở đắc trí mới có thể hết được. 
Ðại  đức phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha tát muốn được chứng vào cảnh giới chư  Phật, nên học Bát nhã Ba la mật đa phương tiện khéo léo, rốt ráo thông  đạt tam ma địa Kiện hành, tam ma địa Như huyễn, tam ma địa Kim cương dụ,  tam ma địa Kim cương luân, tam ma địa Vô động huệ, tam ma địa Khắp  thông suốt, tam ma địa Chẳng duyên cảnh giới, tam ma địa Sư tử tự tại,  tam ma địa Tam ma địa vương, tam ma địa Công đức trang nghiêm, tam ma  địa Huệ vắng lặng, tam ma địa Vượt khỏi khắp, tam ma địa Không nhiễm  đắm, tam ma địa Huệ trang nghiêm vương, tam ma địa Vô đẳng đẳng, tam ma  địa Ðẳng học, tam ma địa Chánh giác, tam ma địa Ðẹp ý, tam ma địa Vui  mừng, tam ma địa Thanh tịnh, tam ma địa Lửa ngọn, tam ma địa Sáng rực,  tam ma địa Khó thắng, tam ma địa Thường hiện tiền, tam ma địa Chẳng hòa  hợp, tam ma địa Vô sanh, tam ma địa Thông đạt, tam ma địa Tối Thắng, tam  ma địa Vượt khỏi cảnh ma, tam ma địa Tất cả trí huệ, tam ma địa Tướng  cờ, tam ma địa Ðại bi, tam ma địa An vui, tam ma địa Ái niệm và tam ma  địa Chẳng thấy pháp thảy. 
Ðại đức phải biết: Nếu Bồ tát Ma ha  tát năng học được Bát nhã Ba la mật đa phương tiện khéo léo, bèn năng  rốt ráo thông suốt được vô lượng vô biên Căng già sa số môn tam ma địa  đây thảy, mới năng chứng vào được cảnh giới chư Phật, nơi tâm yên ổn  không đều sợ hãi, như Sư tử chúa chẳng sợ cầm thú. 
Vì cớ sao?  Nếu Bồ tát Ma ha tát tu các tam ma địa như thế thảy, hễ có sở hành đều  không run sợ, chẳng thấy trước mặt có một oán địch. Vì cớ sao? 
Ngài  Xá Lợi Tử! Bồ tát Ma ha tát này hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm  phương tiện khéo léo tâm không sở duyên, cũng không sở trụ. Ví như có  người sanh cõi Vô sắc sống tám vạn đại kiếp, chỉ có một thức không có  chỗ trụ, cũng không sở duyên. Bồ tát như thế hành Bát nhã Ba la mật đa  sâu thẳm phương tiện khéo léo tâm không sở duyên cũng không sở trụ. 
Vì  cớ sao? Các Bồ tát này tâm chẳng hành chỗ không hành, tâm chẳng tưởng  chỗ không tưởng, tâm chẳng duyên chỗ không duyên, tâm chẳng đắm chỗ  không đắm, tâm chẳng loạn chỗ không loạn, tâm không cao thấp, tâm không  trái thuận, không buồn mừng, không phân biệt, lìa phân biệt, lìa chỉ Xa  ma tha quán Tỳ bát xá na, tâm chẳng theo trí, tâm chẳng tự trụ cũng  chẳng trụ đâu. Chẳng nương trụ mắt, chẳng nương trụ tai mũi lưỡi thân ý.  Chẳng nương trụ sắc, chẳng nương trụ thanh hương vị xúc pháp. Tâm chẳng  ở trong, cũng chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, tâm chẳng duyên pháp,  cũng chẳng duyên trí, chẳng trụ ba đời, chẳng trụ lìa ba đời. 
Ðại  đức! Phải biết các Bồ tát này hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương  tiện khéo léo chẳng lấy một pháp mà đối các pháp trí kiến vô ngại. Vì  tâm hành tịnh nên thấy tất cả pháp thảy đều không bẩn. Chẳng lấy thấy  tướng, thấy không phân biệt, lìa các hý luận. 
Ðại đức! Phải biết  các Bồ tát này hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo,  chẳng tương ưng cùng tất cả nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn,  Phật nhãn, chẳng phải chẳng tương ưng. Cũng lại chẳng tương ưng cùng  tất cả thiên nhĩ, tha tâm, túc trụ, thần cảnh, lậu tận các trí, cũng  chẳng phải chẳng tương ưng. 
Ðại đức phải biết: Bát nhã Ba la mật  đa sâu thẳm phương tiện khéo léo cùng tất cả pháp đều chẳng tương ưng,  chẳng phải chẳng tương ưng. Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật  đa sâu thẳm phương tiện khéo léo, đối tất cả pháp được trí bình đẳng,  năng quán tâm hành tất cả hữu tình, tất cả nhiễm tịnh đều như thật biết.  Ðối Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải và mười tám pháp Phật  bất cộng thảy vô lượng vô biên công đức chư Phật đều chẳng mất nhớ. 
Các  Bồ tát Ma ha tát này hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện  khéo léo tâm không công dụng, đạt tất cả pháp không tâm ý thức, thường ở  tịch định, chẳng khởi tịch định mà giáo hóa hữu tình, thi tác Phật sự  thường chẳng nghỉ ngưng. Ðối các Phật pháp được trí vô ngại, tâm không  nhiễm đắm, ví như hóa Phật hóa làm Như Lai. Như Lai hóa ra không tâm ý  thức, không thân không thân nghiệp, không ngữ không ngữ nghiệp, không ý  không ý nghiệp mà năng thi tác được tất cả Phật sự nhiêu ích hữu tình.  Vì cớ sao? Vì thần lực Phật vậy. 
Bồ tát như thế hành Bát nhã Ba  la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo hóa làm ra đó, không thân không  thân nghiệp, không ngữ không ngữ nghiệp, không ý không ý nghiệp, tâm  không công dụng, thường làm Phật sự nhiêu ích hữu tình. Vì cớ sao? 
Xá  Lợi Tử! Các Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương  tiện khéo léo, thông suốt các pháp đều như mộng thảy, tâm không phân  biệt, mà các hữu tình hằng nghe Phật pháp. 
Ðại đức! Phải biết  Các Bồ tát này có bao trí huệ chẳng trụ hữu vi, chẳng trụ vô vi, chẳng  trụ các uẩn và các giới xứ, chẳng trụ trong ngoài giữa hai bên, chẳng  trụ thiện ác và thế xuất thế, chẳng trụ nhiễm tịnh, hữu lậu vô lậu, hữu  vi vô vi, chẳng trụ ba đời và lìa ba đời, chẳng trụ hư không, trạch  chẳng trạch diệt. 
Các Bồ tát này hành Bát nhã Ba la mật đa sâu  thẳm phương tiện khéo léo, mặc dù thường là tâm không chỗ trụ như thế mà  năng thông suốt được tánh tướng các pháp, dùng trí vô ngại tâm vô công  dụng vì các hữu tình tuyên nói các pháp, thường ở vắng lặng mà việc giáo  hóa hữu tình không có ngưng nghỉ. 
Các Bồ tát này nguyện lực đời  trước mạnh, tâm không công dụng, vì người nói pháp. Các Bồ tát này do  Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm phương tiện khéo léo thường không hãi sợ.  Vì cớ sao? Vì Thần cầm kim cương, hoặc đi hoặc đứng hoặc ngồi hoặc nằm  hằng thường theo dõi mà giữ hộ vậy. 
Ðại đức phải biết: Nếu Bồ  tát Ma ha tát nghe thuyết Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm như thế tâm  chẳng kinh sợ không ngờ không nghi, phải biết đã được nhận ký Bồ đề. 
Vì  cớ sao? Vì tín thọ Bát nhã Ba la mật đa phương tiện khéo léo gần cảnh  giới Phật. Nhờ nhất tâm đây tức năng thông suốt được tất cả Phật Pháp.  Vì thông suốt Phật Pháp nên lợi vui hữu tình, chẳng thấy hữu tình cùng  Phật Pháp có khác. Vì cớ sao? Vì hữu tình Phật Pháp lý không hai vậy.
