GIẢI THÍCH: PHẨM CHÚC LỤY THỨ 90
KINH: Bấy giờ Phật bảo A-nan: Ý ông nghĩ sao, Phật là đại sư của ông chăng? Ông là đệ tử của Phật chăng?
A-nan thưa: Bạch đức Thế Tôn, Phật là đại sư của con. Tu-già-đà (sugata) là đại sư của con, con là đệ tử của Phật.
Phật dạy: Như vậy, như vậy, Ta là đại sư của ông, ông là đệ tử  của Ta. Như những việc đệ tử cần làm ông đã làm xong. Này A-nan, ông  dùng nghiệp từ của thân, nghiệp từ của miệng, nghiệp từ của ý mà cúng  dường cung cấp cho Như Lai, thường làm đúng ý Như Lai, không có trái  lỗi. Này A-nan, thân Như Lai hiện tại ông yêu kính cúng dường cung cấp,  tâm ông thường thanh tịnh, sau khi Như Lai diệt độ, hết thảy sự ái kính  cúng dường cung cấp nên ái kính cúng dường Bát-nhã ba-la-mật. Cho đến  lần thứ hai, thứ ba Như Lai lấy Bát-nhã ba-la-mật phó chúc cho ông. Này  A-nan, ông chớ quên mất, chớ là người tối hậu làm dứt giống Phật. Này  A-nan, tùy theo bao nhiêu
 
* Trang 717 *

nhiêu  lâu Bát-nhã ba-la-mật trú ở đời, nên biết bấy nhiêu lâu có Phật trú ở  đời thuyết pháp. Này A-nan, nếu có người chép Bát-nhã ba-la-mật, thọ  trì, đọc tụng, nhớ nghĩ đúng, rộng vì người nói, nên cung kính, tôn  trọng tán thán, hoa hương phan lọng, áo báu, đèn đuốc mỗi mỗi cúng dường  người ấy, nên biết người ấy không lìa thấy Phật, không lìa nghe pháp,  thường gần gũi Phật.
Phật nói Bát-nhã ba-la-mật xong, các Bồ-tát Di-lặc v.v... và  Huệ mạng Tu-bồ-đề, Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-diếp,  Phú-lâu-na Di-đa-la-ni-tử, Ma-ha Câu-hy-la, Ma-ha Ca-chiên-diên, A-nan  v.v... cùng hết thảy đại chúng và hết thảy thế gian trời, người,  Càn-thát-bà, A-tu-la nghe Phật thuyết đều rất hoan hỉ v.v...
LUẬN: Hỏi: Phật đã dứt tâm ưa đắm pháp, cho đến trí Nhất thiết  chủng, Niết-bàn, còn không chấp trước, không thủ tướng, cớ sao nay dùng  mỗi mỗi nhân duyên phó chúc pháp ấy, in tuồng như ưa đắm pháp?
Đáp: Chư Phật có tâm đại từ bi, từ khi mới phát tâm lại đây  cho đến khi vào cửa Niết-bàn, thường không rời bỏ, ở giữa đôi cây Ta-la  dùng sức tam-muội Kim-cang vì chúng sinh mà làm nát thân như mè, gạo để  lại làm lợi ích, huống gì kinh pháp có nhiều lợi ích mà không phó chúc?
Lại, A-nan là người chưa lìa dục, chưa biết hết uy lực quả báo của Bát-nhã ba-la-mật có nhiều lợi ích, vì 
 
* Trang 718 *

thế ân cần phó  chúc rằng: Ông nên khéo gìn giữ, không để quên mất. Vì vậy nên Phật tuy  đối với hết thảy pháp không có thương ghét, tướng thường tịch diệt mà  phó chúc Bát-nhã ấy.
Hỏi: A-nan là người Thanh văn, cớ gì Phật đem Bát-nhã ba-la-mật phó chúc mà không phó chúc cho các đại Bồ-tát như Di-lặc v.v...?
Đáp: Có người nói: A-nan thường hầu hai bên Phật, cúng dường  sự cần dùng, được Đà-la-ni Văn trì. Nghe rồi nhớ giữ, một lần nghe nhớ  mãi không quên. Đã là em chú bác của Phật, lại có nhiều bè bạn tiếng tăm  rộng khắp, bốn chúng nương nhờ, là vị thầy thứ ba theo Phật chuyển bánh  xe pháp. Phật biết Xá-lợi-phất thọ mạng ngắn ngủi, diệt độ sớm nên  không phó chúc.
Lại, A-nan là thầy của 500 A-la-hán có đủ sáu thần thông, ba minh, cọng giải thoát.[1]  A-nan đã có nhiều lợi ích như vậy, nên phó chúc. Các đại Bồ-tát như  Di-lặc v.v... sau khi Phật diệt độ mỗi mỗi phân tán, theo quốc độ thích  ứng hóa độ chúng sinh. Di-lặc trở lại trên trời Đâu-suất; Tỳ-ma-la-cật,  Văn-thù-sư-lợi cũng đi đến chỗ chúng sinh thích ứng để hóa độ. Phật lại  do vì các vị Bồ-tát có sức hiểu sâu Bát-nhã ba-la-mật nên không cần phải  nhọc nhằn phó chúc. A-nan là người Thanh văn, theo pháp Tiểu thừa, thế  nên Phật ân cần phó chúc.
Hỏi: Nếu như vậy, thời kinh Pháp Hoa (Saddharmapuṇḍarīka sūtra) và các kinh Phương Đẳng (vaipulya) khác cớ sao lại phó chúc cho các Bồ-tát Hỷ Vương v.v...? 
 
[1] Đại trí độ luận,  quyển 29: Có hai thứ Tam muội: 1. Thuộc phần tuệ giải thoát, 2. Thuộc  phần cọng giải thoát. Thuộc phần tuệ giải thoát thì không thể vào thiền  định, chỉ nói đó là tam-muội trong Vị đáo địa. Trong đây nói tam-muội  thuộc phần cọng giải thoát thì đủ có thiền định, giải thoát, tam-muội. 
 
 
 
* Trang 719 *

Đáp: Có  người nói: Khi ấy Phật thuyết pháp sâu xa khó tin, người Thanh-văn  không ở tại đó. Lại như Phật thuyết kinh Giải thoát không thể nghĩ nghì,  500 A-la-hán ở bên Phật mà không nghe được; hoặc có khi nghe được mà  không thể ứng dụng; thế nên phó chúc cho các Bồ-tát.
Hỏi: Lại có pháp gì sâu xa hơn Bát-nhã mà đem Bát-nhã phó chúc cho A-nan, còn các kinh khác phó chúc cho Bồ-tát?
Đáp: Bát-nhã chẳng phải là pháp bí mật; mà các kinh Pháp Hoa  v.v... nói A-la-hán được thọ ký, chắc chắn làm Phật, đại Bồ-tát vẫn có  thể thọ trì, ứng dụng; thí như thầy thuốc giỏi có thể dùng chất độc làm  thuốc.
* Lại nữa, như trước nói: Bát-nhã có hai,[1]  một là Bát-nhã nói chung cho Thanh-văn nghe, hai là chỉ nói cho mười  phương đại Bồ-tát trú trong thập địa nghe, chẳng phải cửu địa nghe,  huống nữa là Bồ-tát mới phát tâm! Lại có kinh Bồ-tát cửu địa nghe được  cho đến sơ địa nghe được, mỗi mỗi không đồng nhau. Tướng chung của  Bát-nhã ba-la-mật là một mà sâu cạn có khác, thế nên đem phó chúc cho  A-nan, không lỗi.
Hỏi: Trước đây thấy trong phẩm A-sơ Phật[2] đã phó chúc, nay còn phó chúc, vậy có gì sai khác?
Đáp: Đạo Bồ-tát có hai: Một là đạo Bát-nhã ba-la-mật, hai là  đạo phương tiện. Trước phó chúc là nói thể tướng Bát-nhã ba-la-mật xong,[3] nay là nói khiến cho chúng sinh được phương tiện Bát-nhã ấy xong mà phó 
 
[1] Xem Đại trí độ luận, quyển 41, 72, 84, 100. 
[2] Tham khảo Đại phẩm Bát-nhã kinh, quyển 20, phẩm Chúc lụy thứ 66; Phóng quang Bát-nhã kinh, quyển 15, phẩm Chúc lụy thứ 67; Đạo hành Bát-nhã kinh, quyển 9, phẩm  Lụy giáo thứ 25; Đại minh độ kinh, quyển 5, phẩm  Lụy giáo thứ 25; Tiểu phẩm Bát-nhã kinh, quyển 3, phẩm Kiến A-súc Phật  thứ 25. 
[3] Xem Đại trí độ luận, quyển 43, 54. 
 
 
 
* Trang 720 *

chúc; vì thế nên sau khi thấy Phật A-súc, tiếp nói phẩm Âu-hòa.[1]  Trong Bát-nhã ba-la-mật tuy có phương tiện, phương tiện tuy có Bát-nhã,  mà tùy theo sự thọ dụng nhiều nên gọi tên. Bát-nhã và phương tiện, bản  thể là một, vì chỗ dùng hơi khác cho nên nói riêng. Thí như thợ vàng vì  phương tiện khéo léo nên lấy vàng làm các vật khác nhau, tuy đều là vàng  mà tên gọi có mỗi mỗi khác. Bồ-tát được thật tướng Bát-nhã ba-la-mật  ấy, nghĩa là hết thảy pháp tính không, tướng tịch diệt, không có sở hữu,  tức là muốn diệt độ. Vì sức phương tiện nên không thủ chứng Niết-bàn.  Khi ấy nghĩ rằng, hết thảy pháp tính không, Niết-bàn cũng không. Ta nay  đối với công đức Bồ-tát chưa đầy đủ nên không nên thủ chứng; khi công  đức đầy đủ mới có thể thủ chứng. Khi ấy Bồ-tát dùng sức phương tiện vượt  qua địa vị Nhị thừa mà vào Bồ-tát vị. Trú trong Bồ-tát vị biết pháp sâu  xa vi diệu không có văn tự mà dẫn đường cho chúng sinh; ấy gọi là  phương tiện.
* Lại nữa, có phương tiện là Bồ-tát biết hết thảy pháp rốt ráo tính  không, không có sở hữu mà có thể trở lại khởi lên pháp lành, hành sáu  Ba-la-mật, không theo không; hoặc có thể sinh bốn việc là hoặc nghi,  hoặc tà kiến, hoặc vào Niết-bàn, hoặc làm Phật. Vì Bát-nhã có sự phân  biệt như vậy, nếu có thể trừ tà nghi, không vào Niết-bàn, ấy là phương  tiện. Có người nói: Bát-nhã ba-la-mật có nhiều lợi ích, tối thắng đối  với kho châu báu lớn. Phật biết sau khi diệt độ có nhiều giặc oán muốn  hủy hoại Bát-nhã nên ở mỗi mỗi phẩm đều phó chúc còn không có lỗi, huống  nữa là chỉ phó chúc hai lần. 
 
[1] Tham khảo T. 46: Đại trí độ luận sớ (大智度論疏), quyển 24, tr. 912c4-13. 
 
 
 
* Trang 721 *

Hỏi: Nếu phó chúc, cớ gì ân cần, trịnh trọng như vậy?
Đáp: Vì theo pháp thế tục mà dẫn đường cho chúng sinh. Thí như  chủ khách buôn muốn đi xa đến nước khác, tuy đem tài bảo phó chúc cho  con mà riêng ngọc báu tốt đẹp, giá trị lớn mới ân cần phó chúc riêng, vì  người con kia chưa biết rõ giá trị quý trọng của châu báu đẹp ấy. Những  người khác vì thấy người chủ khách buôn là người biết giá trị của châu  báu mà ân cần phó chúc nên chắc chắn biết thứ đó quý, còn nếu nghe người  con kia khen ngợi giá trị châu báu thời không tin; Phật cũng như vậy.
* Lại nữa, nếu giữa chúng khác và người khác mà khen ngợi Bát-nhã, phó  chúc Bát-nhã thời người ta chê Phật tự khen ngợi tán thán pháp mình, nên  sinh nghi mà không tin, còn đối với đệ tử phó chúc thời không có chê  bai.
Lại có người nói: Ở phẩm trên Phật nói tướng tịch diệt không có hí luận  là Nhất thiết trí, trong đó không có pháp quyết định có thể thủ đắc,  thời người ta cho là không quý; nay ân cần phó chúc thời biết Phật không  đắm trước pháp không. Giữa hết thảy chúng sinh, người ái niệm Bát-nhã  không ai hơn Phật. Phật biết Bát-nhã có ơn sâu nên quý trọng Bát-nhã mà  ân cần phó chúc.
Có người nói: Phật muốn hiện trung đạo nên phó chúc: Trước nói các pháp  không để ngăn bên chấp hữu, nay ân cần phó chúc thời phá bên chấp  không; ấy là 
 
* Trang 722 *

trung đạo. Đối  với người cho rằng Phật có tâm tham, ưa đắm pháp ấy, thời Phật đã dùng  các nhân duyên nói Bát-nhã ba-la-mật tướng không; đối với người cho Phật  rơi vào đoạn diệt nên Phật ân cần phó chúc. Như vậy là xa lìa hai bên.
Hỏi: Phật đã biết A-nan là đêï tử, cớ gì còn hỏi A-nan rằng, ông là đệ tử của Như Lai chăng? Như Lai là thầy của ông chăng?
Đáp: Phật có người đệ tử ác là Tu-na-lị-đa-la. Nhờ có chút ít  nhân duyên nên làm đệ tử Phật. Vì muốn ở nơi Phật học cách bắn cung,  Phật không nói cho, nên liền trở lại nói với Phật rằng: Tôi chẳng phải  đệ tử Phật. Lại như Tu-thi-ma vì muốn trộm pháp nên làm đệ tử. Như vậy  là hạng đệ tử chỉ trên danh tự.
Lại, ngoại đạo cho A-nan bất đắc dĩ mà ở bên Phật. A-nan đã từng làm đệ  tử ngoại đạo, mặc áo cỏ, cầu thần tiên, nay vì Phật là thân tộc nên tôn  trọng, cung cấp, hầu hạ. Do những việc như vậy nên ở giữa đại chúng  Phật hỏi A-nan: Ông là đệ tử Như Lai chăng? Nếu nói là chơn đệ tử thời  nên theo lời dạy bảo của Như Lai. Thế nên A-nan vì muốn khiến người khác  tin, nên đáp lại với Phật. Phật bảo A-nan: Việc người đệ tử nên làm ông  đã làm đầy đủ. Phép của đệ tử là đem thân, miệng, ý lành mà cung cấp  cho thầy. Có đệ tử tâm tốt mà thân miệng không xứng; có đệ tử nghiệp  thân miệng tốt mà tâm không xứng. Như đệ tử đem tâm lành, rất ưa mến  thầy, thân miệng tương xứng, không tiếc thân mạng, không ngại khó nhọc,  tự bỏ tâm mình,
 
* Trang 723 *

theo lời dạy bảo  của thầy, A-nan có đủ các việc ấy, nên Phật bảo A-nan: Nay ông hiện tại  cung kính Như Lai, sau khi Như Lai diệt độ, hãy cung kính Bát-nhã cũng  như vậy.
Hỏi: Bát-nhã là thầy của chư Phật, vì sao A-nan không cung kính thầy của Phật mà cung kính Phật?
Đáp: A-nan tuy chứng đạo quả thứ nhất, song vì lậu hoặc chưa  hết nên không biết sâu Pháp bảo như Phật đã biết. Thế nên Phật bảo  A-nan: Ông cung kính Bát-nhã tức là cung kính Như Lai.
* Lại nữa, chúng sinh thấy Phật có 32 tướng, 80 vẻ đẹp tùy hình, ánh  sáng một trượng, thân kim sắc, nhiều người ái kính, còn Bát-nhã  ba-la-mật thời vi diệu, sâu xa, không hình, không sắc, chỉ người trí mới  biết được. Thân Phật tướng tốt, người trí kẻ ngu đều thấy, đều không  nhàm đủ, thế nên Phật đem thân ví dụ Bát-nhã. Khi Phật ở đời có thể tự  ngăn ma, vì vậy mà Phật bảo A-nan: Sau khi Như Lai diệt độ, hãy khéo gìn  giữ Bát-nhã.
Hỏi: Phó chúc một lần là đủ, cớ gì đến ba lần?
Đáp: Phật rất ưa mến Bát-nhã ba-la-mật, nên ba lần phó chúc.
Hỏi: Nếu rất ưa mến, sao giới hạn ba lần thôi?
Đáp: Thường thời pháp của chư Phật nói không quá ba. Nếu nói  quá ba mà không theo thời thần cầm Kim cương đánh nát. Lại, ý của thần  cầm Kim cương là 
 
* Trang 724 *

nếu quá ba lần không theo, thời là người nghịch, hãy nên diệt đi. Thế nên Phật hỏi không quá ba.
* Lại nữa, nói một lần thời còn chậm, còn nói quá ba lần thời rất gấp; giống như người phàm phu tham trước.
* Lại nữa, tâm người lãnh thọ có ba hạng: Hạng độn căn phải nói đến ba  lần mới sinh tâm thiện. A-nan tuy là lợi căn nhưng tâm còn Thanh văn,  chỉ cầu độ một mình, thế nên bảo ba lần. Sở dĩ phó chúc là vì không để  pháp diệt tận. Ông nên giáo hóa đệ tử, đệ tử lại giáo hóa người khác,  triển chuyển giáo hóa nhau; thí như một ngọn đèn lại thắp lên các ngọn  đèn khác; ánh sáng triển chuyển nhiều ra.
Chớ làm người tối hậu dứt giống Phật, là người đời có con, nếu không  người thừa kế thời gọi là dứt giống, rất đáng hổ thẹn. Phật lấy thí dụ  này bảo A-nan rằng, ông chớ làm giống Bát-nhã tuyệt dứt ngay nơi thân  ông.
Hỏi: Như phẩm trước[1]  thuyết minh Bát-nhã ba-la-mật, dù nói cũng không thêm, không nói cũng  không bớt, vì tướng rốt ráo tịch diệt, nay cớ gì nói chớ để diệt mất?  Thí như hư không, ai diệt mất được?
Đáp: Bát-nhã ba-la-mật tuy tịch diệt, tướng không sinh không  diệt, như hư không không thể hí luận; nhưng văn tự ngữ ngôn chép quyển  kinh Bát-nhã ba-la-mật, vì người khác nói, Bát-nhã trong đây là từ trong  nhân mà nói quả. Người phàm phu nghe Bát-nhã ba-la-mật vi diệu liền  sinh tâm chấp trước, thủ tướng Bát-nhã 
 
[1] Xem Đại trí độ luận, quyển 65, 74, 77.  
 
 
 
* Trang 725 *

ba-la-mật, phân  biệt các pháp là lành, là chẳng lành, là thế gian, là Niết-bàn v.v... Vì  phân biệt nên đối với pháp sinh tâm chấp trước, tâm chấp trước nên đấu  tranh, đấu tranh nên gây tội nghiệp; người như vậy gọi là diệt Bát-nhã  ba-la-mật.
Phật bảo A-nan: Ông nên như tướng Bát-nhã ba-la-mật, chớ chấp trước văn  tự ngữ ngôn mà giáo hóa chúng sinh; ấy gọi là không làm diệt mất. Này  A-nan, tùy theo bao lâu thời gian Bát-nhã ở đời thời biết bấy nhiêu thời  gian Phật ở đời, như trong kinh đây Phật nói rộng. Phật ân cần phó chúc  cho chúng sinh, ở hội chúng có người sinh nghi, thế nên Phật nói nhân  duyên của sự phó chúc là: Hễ có Bát-nhã ở đời thời là Phật ở đời, vì  sao? Vì Bát-nhã ba-la-mật là mẹ của chư Phật. Chư Phật lấy pháp làm  thầy, mà pháp tức là Bát-nhã ba-la-mật. Nếu thầy ở đời, mẹ ở đời thời  không gọi là mất lợi, vì sao? Vì lợi ích vốn tồn tại. Vì vậy nên nói  Bát-nhã ba-la-mật ở đời thời như Phật ở đời.
Lại, Pháp bảo không lìa Phật bảo. Bồ-tát có 32 tướng, 80 vẻ đẹp tùy  hình không gọi là Phật, mà có được Pháp bảo mới gọi là Phật. Pháp bảo  tức là Bát-nhã ba-la-mật; như người theo Phật được lợi ích cho đến được  giải thoát Niết-bàn. Như người đối với Bát-nhã có thể tin, thực hành,  cũng do pháp ba thừa mà vào Niết-bàn; thế nên nói Bát-nhã ở đời như Phật  ở đời nói Pháp không khác. Này A-nan, nếu người nghe lãnh thọ, viết  chép, giữ gìn, nên biết người ấy không rời sự thấy Phật, nghe Pháp, gần  gũi Phật.
 
 
* Trang 726 *

Hỏi:  Người có tội nặng, ba nghiệp bất thiện thành tựu mà nghe, lãnh thọ, viết  chép, giữ gìn Bát-nhã, cớ sao người ấy được không xa lìa Phật, nghe  Pháp, gần gũi Phật?
Đáp: Việc ấy như đã đáp ở trong phẩm trước.[1]  Người nghe Pháp có hai hạng: Một là hạng người chỉ nghe mà không thể  tín thọ, thực hành; hai là hạng người nghe mà tín thọ, phụng hành. Như  đệ tử không nghe, không tín thọ, thực hành lời thầy; ấy gọi là không  nghe. Nếu nhất tâm lắng nghe, tín thọ, phụng hành, chán thế gian, ưa  Niết-bàn, lìa Tiểu thừa, ưa thích Đại thừa; nghe, lãnh thọ như vâïy gọi  là thật nghe; tụng, đọc cũng như vậy. Nhớ nghĩ đúng theo như ý Phật, xa  lìa hai bên, hành trung đạo, đúng như chỗ được nghe, thọ trì và hiểu  nghĩa Bát-nhã, vì người khác giảng nói, cung kính, tôn trọng, cúng  dường, tán thán, hoa hương, lúc mới đầu còn mỏng ít, cho đến nhớ nghĩ  đúng, vì người khác nói, tâm kia càng sâu dày, công đức càng nhiều, bền  chắc, không lay động.
Nếu nghe thầy dạy, hoặc thấy quyển kinh mà cúng dường hương hoa là, nếu  người trí biết công đức của Bát-nhã mà cúng dường thời được phước đức  dày, còn người không biết mà cúng dường thời được phước đức mỏng ít.  Phước đức thuần hậu là dù chuyển đổi thân cũng không lìa sự thấy Phật,  nghe Pháp, gần gũi Phật.
Phước đức mỏng ít là không nói rằng chuyển đổi thân, được ba phước báo,  trả hết tội rồi lâu về sau cũng chắc chắn được làm Phật. Trong đây Phật  tổng quát nói 
 
[1] Đại trí độ luận, quyển 63: Hoûi: Nếu không tin Bát-nhã bị đọa địa ngục (naraka), tin thời được làm Phật. Nếu người phạm năm tội nghịch (pañcānantarya), phá giới (duḥśīla), tà kiến (mithyā-dṛṣṭi), lười biếng (kausīdya), mà tin Bát-nhã, người ấy có được thành Phật không? Lại có người trì giới (śīla), tinh tấn (vīrya), mà không tin Bát-nhã, tại sao đọa địa ngục?
Đáp : Phá Bát-nhã có hai cách: Bát-nhã chính miệng  Phật nói ra, đệ tử tụng tập, chép thành kinh quyển, người ngu báng bổ  rằng: Đó chẳng phải Phật nói, mà là Ma hoặc Ma dân nói, và là thủ bút  của người tà kiến chấp đoạn diệt, trang nghiêm miệng lưỡi nói ra; hoặc  cho rằng tuy là Phật nói song trong đó nơi nơi người khác thêm thắt vào,  hoặc có người tâm chấp trước phân biệt, chấp thủ tướng mà nói Bát-nhã  ba-la-mật, miệng tuy nói không, mà tâm đắm hữu. Trong các người phỉ báng  ấy, người hủy phá đầu bị đọa vào đại địa ngục, vì không hiểu được ý  Bát-nhã của thánh nhân nói; người hủy phá thứ hai là người tâm chấp  trước nghị luận (upadeśa) nên không gọi là hủy phá Bát-nhã; như ông Điều Đạt (Devadatta)  làm thân Phật chảy máu, mà thầy thuốc Kỳ Vực[1]cũng làm thân Phật chảy  máu, tuy đồng làm chảy máu, mà tâm khác nhau, nên một người mắc tội, một  người được phước. Như vẽ tượng Phật, một người vì thấy tượng không đẹp  nên phá để vẽ lại, một người vì ác tâm nên phá, do tâm khác nhau nên một  người được phước, một người mắc tội. Người phá Bát-nhã ba-la-mật cũng  như vậy. 
 
 
 
* Trang 727 *

phước đức thuần  hậu, mỏng ít dần dần đều sẽ thấy mười phương Phật, nghe Phật nói Pháp,  dần dần đầy đủ sáu Ba-la-mật, đều được làm Phật. Phật dùng Phật nhãn  thấy Bát-nhã ba-la-mật có sự lợi ích lớn cho chúng sinh như vậy nên ân  cần phó chúc.
Hỏi: Các đại A-la-hán ấy đã thủ chứng thật tế, không còn lo mừng, vì mừng chút ít còn không có, huống nữa là vui mừng lớn?
Đáp: Các đại A-la-hán tuy xa lìa tham dục của ba cõi, mà vì  chưa được Nhất thiết trí nên đối với pháp sâu xa còn hồ nghi không rõ  ràng. Đây đối với Bát-nhã ba-la-mật hiểu biết rõ ràng, dứt trừ nghi hoặc  kia, thế nên vui mừng lớn.
* Lại nữa, các đại đệ tử ấy đã thủ chứng thật tế. thật tế tức là không,  không có tướng, không có lượng, không có phân biêït. Phật đối với pháp  tịch diệt ấy mỗi mỗi phân biệt danh tự, ngữ ngôn, thí dụ, nói rộng mà  cũng không phá hoại pháp tính, lại không trái với thế gian. Các A-la-hán  vì chứng được pháp ấy nên vui mừng lớn. Phật khéo nói pháp tịch diệt  không, vô tướng, vô lượng ấy, đại chúng tuy chưa sạch hết lậu hoặc, mà  vì có sức tin sâu, nên cũng vui mừng lớn, nói rằng pháp ấy có thể dứt  hết khổ sinh tử cho chúng ta, khiến được Phật đạo. Có vô lượng nhân  duyên như vậy nên đại chúng đều hoan hỉ.
Hỏi: Nếu Phật phó chúc cho A-nan Bát-nhã ba-la-mật ấy, sau khi Phật Niết-bàn, A-nan cùng với Đại Ca-
 
* Trang 728 *

diếp kết tập Kinh tạng, cớ gì trong ấy không nói đến Bát-nhã ?
Đáp: Vì Đại thừa sâu xa, khó tin, khó hiểu, khó hành. Lúc Phật  ở đời, có các Tỳ-kheo nghe pháp Đại thừa do không tin không hiểu nên từ  chỗ ngồi đứng dậy bỏ đi, huống nữa là sau khi Phật diệt độ! Thế nên  không nói.
* Lại nữa, ba tạng (trīṇi piṭakāni) chính thức có ba mươi vạn  bài kệ và chín trăm sáu mươi vạn lời. Pháp Đại thừa rất nhiều, vô lượng  vô hạn, như phẩm Bát-nhã ba-la-mật trong đây có hai mươi hai ngàn bài  kệ. Phẩm Đại Bát-nhã có mười ngàn bài kệ, ở chỗ các vua rồng, vua  A-tu-la và trong các cung trời, Bát-nhã có ngàn vạn ức bài kệ, vì sao?  Vì chư thiên, rồng, quỷ, thần, mạng sống lâu dài, có sức biết nhớ mạnh.  Người đời nay thọ mạng ngắn ngủi, sức biết nhớ mỏng, tiểu phẩm Bát-nhã  còn không thể tụng đọc, huống gì nhiều? Các đại Bồ-tát biết Bát-nhã  ba-la-mật vô lượng vô hạn, vì sao? Vì Phật chẳng phải chỉ một thân nói  Bát-nhã, mà trong vô lượng đời hoặc biến hóa vô số thân nói Bát-nhã, nên  có vô lượng.
Lại, kinh Giải thoát không thể nghĩ nghì có mười vạn bài kệ, kinh chư Phật bổn khởi,[1] kinh Mây,[2] kinh Mây lớn,[3] mỗi mỗi có mười vạn bài kệ.[4] Kinh Pháp Hoa, kinh Hoa thủ,[5] kinh Đại bi, kinh Phương tiện, kinh Vua rồng hỏi,[6]  kinh Vua A-tu-la hỏi, các kinh lớn ấy vô lượng vô biên, như châu báu  trong biển lớn, làm sao có thể đưa hết vào ba tạng? Vật nhỏ có thể ở  trong vật lớn, mà 
 
[1] T. 3: Tu hành bản khởi kinh (修行本起經), quyển 1, tr. 461a3-6. 
[2] T. 16: Bảo vân kinh (寶雲經), tr. 209a2-5; T. 16: Đại thừa bảo vân kinh (大乘寶雲經), tr. 241a2-5. 
[3] T. 19: Đại phương đẳng đại vân kinh (大方等大雲經), tr. 500c2-6; T. 12: Đại phương đẳng vô tưởng kinh (大方等無想經), tr. 1077c12-16. 
[4] Xem Đại trí độ luận, quyển 33, 38, 46. 
[5] T. 16: Phật thuyết hoa thủ kinh (佛說華手經), tr. 127a2-5. 
[6] T. 15: Phật thuyết hải long vương kinh (佛說海龍王經), tr. 131c7-11. 
 
 
 
* Trang 729 *

mà vật lớn thời  không thể ở trong vật nhỏ? Nếu muốn hỏi thời nên hỏi rằng, vì cớ gì Tiểu  thừa không ở trong Đại thừa mà Đại thừa có thể hàm chứa luôn cả Tiểu  thừa? Thế nên ông không nên hỏi như vậy.
* Lại nữa, có người nói: Như Đại Ca-diếp đem các Tỳ-kheo vào trong núi  Kỳ-xà-quật kết tập ba tạng. Sau khi Phật diệt độ, các đại Bồ-tát như  Văn-thù-sư-lợi, Di-lặc v.v... cũng đem A-nan để kết tâïp kinh Đại thừa.  Lại, A-nan biết trù lượng ý chí nghiệp lực lớn nhỏ của chúng sinh. Thế  nên không ở giữa hàng Thanh-văn nói pháp Đại thừa, vì sợ nói thời lầm  loạn không thành tựu được. Phật pháp chỉ có một vị, đó là vị giải thoát  hết khổ. Vị giải thoát ấy có hai: Môït là chỉ giải thoát tự thân, hai là  giải thoát chung hết thảy chúng sinh. Tuy cùng cầu một cửa giải thoát  mà có tự lợi và lợi người khác nhau, thế nên có Đại thừa, Tiểu thừa sai  khác. Vì hai hạng người ấy nên miệng Phật nói ra đều dùng văn tự ngữ  ngôn chia làm hai thứ. Ba tạng là pháp Thanh văn, Ma-ha-diễn là pháp Đại  thừa.
* Lại nữa, lúc Phật ở đời không có danh từ ba tạng, chỉ có Tỳ-kheo thọ  trì Tu-đa-la, Tỳ-kheo thọ trì Tỳ-ni, Tỳ-kheo thọ trì Ma-đa-la-ca (luận  sư).
Tu-đa-la (sūtra) là kinh trong bốn A-hàm (Agama), kinh trong Ma-ha diễn. Tu-đa-la có hai phần: Môït là Tu-đa-la trong bốn A-hàm, hai là kinh Ma-ha-diễn, gọi là Đại thừa (Mahāyāna). Tu-đa-la vào hai phần, vừa Đại thừa, vừa Tiểu thừa: 250 giới, như thị ngữ v.v... gọi là Tu-đa-la. 
 
* Trang 730 *

Tỳ-ni là nhân  Tỳ-kheo tạo tội, Phật kiết giới, dạy việc nên làm, không nên làm, làm  việc ấy mắc tội ấy, lược nói có tám mươi bộ, cũng có hai phần: Một là  Tỳ-ni ở nước Ma-tu-la, chứa A-ba-đà-na bản sinh, có tám mươi bộ; hai là  Tỳ-ni ở nước Kế-tân, trừ bản sinh A-ba-đà-na, chỉ lấy việc thiết yếu làm  mười bộ, có tám mươi bộ Tỳ-bà-sa giải thích. Thế nên biết kinh Đại  Bát-nhã ba-la-mật ở trong Tu-đa-la kinh, vì kinh lớn và vì sự việc khác  cho nên nói riêng. Thế nên không tập vào trong ba tạng.
(Hết cuốn 100 theo bản Hán)
_____________
Chùa Từ Đàm, dịch xong chiều 08-01-2001
(PL. 2544 - 14.12 năm Canh Thìn)
   THÍCH THIỆN SIÊU
 
 
* Trang 731 *
