Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (7)


Xem mục lục

2.1. Cơ sở tư tưởng

Nguồn gốc tín ngưỡng A Di Đà xuất phát hiển nhiên là từ Ấn độ. Nhưng không phải kinh điển nào lưu hành ở Ấn độ cũng đề cập đến A Di Đà.

Sự thực, một bộ phận lớn những kinh điển ấy đã hoàn toàn im lặng, không nói gì đến đức Phật A Di Đà, một số khác thì chỉ nói phớt qua, trong khi đề cập những vấn đề tổng quát liên quan đến niệm Phật.

Thí dụ, trong Đại Tạng Kinh 15, số hiệu 0643, Phật Thuyết Quán Phật Tam Muội Hải Kinh 9[1], Đông Tấn Phật Đà Bạt Đà La dịch, kể chuyện ba tỳ kheo cùng lễ bái tướng bạch hào của Phật Không Vương mà thành Phật, trong đó một vị đã trở thành Phật A Di Đà.

Truyện này cùng với truyện tỳ kheo Pháp Tạng, truyện vua Vô Tránh Niệm và truyện mười sáu vương tử cấu tạo nên nhóm truyện giải thích quá trình thành đạo của Phật A Di Đà, mà thuật ngữ thường gọi là A Di Đà thành đạo nhân quả.

Một bộ phận thứ ba bao gồm các kinh điển đã đề cập đến đức Phật A Di Đà trong một chừng mực nào đó, nhưng sau này đã có một ảnh hưởng sâu rộng trong giới Tịnh độ giáo.

Cuối cùng là nhóm kinh điển làm cơ bản cho tín ngưỡng A Di Đà. Chúng bao gồm ba bộ kinh thường được gọi là tịnh độ tam bộ kinh, tức là: các kinh A Di Đà, Quán vô lượng thọ và Vôlượng thọ.

Trong đoạn bàn vềtín ngưỡng A Di Đà tại Ấn độ ở đây, chúng ta sẽ không bàn đến nhóm kinh điển cuối cùng vừa nói, mà sẽ tập trung vào các kinh điển nhóm thư ba, chủ yếu là các kinh Hoa nghiêm, Pháp hoa và Bát nhã cùng các trước tác của các luận sư mà các nhà Tịnh độ giáo về sau thừa nhận là những người tiên phong.

2.2. Văn học Bát-nhã, Đại Trí Độ Luận và Trung Quán Luận

Trong các kinh điển Bát nhã, tư tưởng tịnh độ tuy được giới thiệu rộng rãi, nhưng đó chủ yếu là cõi tịnh độ của đức A Súc ở phương đông, chứ không phải thế giới Cực Lạc của Phật A Di Đà ở phương tây.

Nguyên điển Sanskrit, Ma ha bát nhã ba la mật kinh[2], để trả lờicâu hỏi Bồ tát thực hành Bát nhã ba la mật, thì sau khi chết ở đâu vãng sinh ở đây, hay sau khi chết ở đây thì vãng sinh ở đâu, đã viết:

ग़ो भगवन बोधिसत्त्वो महासत्त्वोऽनेन प्रज्ञापारमिताविथरेण विहरति स कुतश च्युत इहोपपद्यते । इतो वा च्युतह कुत्रोपपत्स्यते (.....) सन्ति शारिपुत्र बोधिसत्त्वाहः महासत्त्वाः सण्णामं अभिज्ञानामं लाभिनस ते ताभिर अभिज्ञाभिर  विक्रोडन्तो बुद्धक्षेत्रेण बुद्धक्षेत्रमं समंक्रामन्ति येषु बुद्धक्षेत्रेष्व अमितम आयुहः॥ (Yo bhagavan bodhisattvo mahāsattvo'nena prajñāpāramitāvithareṇa viharati sa kutaś cyuta ihopapadyate / ito vā cyutah kutropapatsyate (.....) santi śāriputra bodhisattvāḥ mahāsattvāḥ saṇṇā abhijñānālābhinas te tābhir abhijñābhir  vikroḍanto buddhaketreṇa buddhaketra sakrāmanti yeu buddhaketrev amitam āyuḥ//)[3]

“Có những Bồ tát đã chứng đắc sáu thần thông, bằng các thần thông ấy họ du hành vượt qua một quốc độ Phật này đến một quốc độ Phật khác, mà trong các quốc độ Phật ấy tuổi thọ là vô lượng…”

Đoạn văn này, như thế, tuy không nói rõ là đức Phật A Di Đà, nhưng nói đến những cõi Phật có tuổi thọvô lượng, do vậy cũng ám chỉ xa gần đến đức Phật ấy.

Thêm vào đó, nó lại đề cập đến phạm trù vãng sinh.

Giải thích phạm trù vãng sinh của Đại Bát Nhã nói ở trên, Đại Tạng Kinh 25, số hiệu 1509, Đại Trí Độ Luận 38[4], phẩm Vãng Sinh, Long Thọ Bồ Tát tạo, Hậu Tần Cưu Ma La Thập dịch, viết: “Nói đến những thứ vãng sinh, Phật pháp không chấp có, không chấp không, có không cũng không chấp, chẳng có chẳng không cũng không chấp, không chấp cũng không chấp. Như vậy người ta không gặp phải những thắc mắc”.

Rồi dẫn hai bài tụng từ Trung luận để minh giải. Một từ chương Quán Pháp thứ mười tám của म्ऊलमध्यमककारिका Mūlamadhyamakakārikā, bản Tây Tạng tương đương là Dbu-ma tsa-baḥi tshig-leḥur byas-pa śes-rab ces-bya-ba nói rằng:

“षर्वमं तथ्यमं न वा तथ्यमं च्ऐतत यम एव च ।

न्ऐवातथ्यण न्ऐव थयम एतद बुद्धानु शासनम्॥[5]

Sarvaṃ tathyaṃ na vā tathyaṃ caitat yam eva ca /

naivātathyaṇ naiva thayam etad buddhānu śāsanam

"Tất cả là thật là không thật, cũng thật, cũng không thật, cũng không thật cũng không không thật, đó là lời dạy của đức Phật" [6].

Và một từ chương Quán Niết Bàn thứ hai mươi lăm:

णिर्वाणस्य च या कोटिह कोटिह सम्सरणस्यच​।

नतयोर अन्तरमं किमंचित सुसूक्स्मम अपिविद्यते

Nirvāṇasya ca yā koṭih koṭih samsaraṇasyaca/

natayor antaraṃ kiṃcit susūksmam apividyate[7]

“Biên giới của Niết Bàn là biên giới của sinh tử, giữa hai biên giới  ấy không có một mảy may tách rời”[8].

Qua hai bài tụng này, Đại trí luận đã xác nhận biên giới của sinh tử chính là biên giới của Niết bàn, nên nội dung của vãng sinh là rốt ráo trống vắng.

Nhưng cũng vì tính rốt ráo trống vắng đó nên nó không phủ nhận nhân duyên của nghiệp sinh tử, do đó mà nói có vãng sinh. Lý giải vãng sinh như thế, tác giả Đại trí luận đã đặt nền mống cho thuyết thân Phật tức thân ta của Trần Thái Tôn, thuyết vãng sinh tức thành Phật của Thân Loan, thuyết tịnh uế bất nhị của Liễu Âm, v.v... sau này.

Nói chung, văn hệ Bát nhã tuy không đưa ra lý giải rõ ràng về đức Phật A Di Đà, nhưng đã là bước đầu đặt nền tảng cho những thành tựu về sau kết tinh trong tư tưởng Long Thọ với thuyết dị hành.

2.3. Văn hệ Pháp Hoa

Song song với văn hệBát nhã là văn hệ Pháp hoa. Trong văn hệ này, quá khứ cũng như bản nguyện đức Phật A Di Đà đã được mô tả một cách công nhiên.

Về quá khứ của đức Phật ấy, Đại Tạng Kinh 09, số hiệu 0262, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh 3, Diêu Tần Cưu Ma La Thập dịch, phẩm Hóa thành dụ[9]; Số hiệu 263, Chính pháp hoa kinh 4, phẩm Vãng cổ[10], Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch; số hiệu 264, Thiệm phẩm diệu pháp liên hoa kinh 3, phẩm Hóa thành dụ[11], Tùy Xà Na Quật Đa cộng Cấp Đa dịch; và Nguyên điển Sanskrit kinh Pháp Hoa सद्धर्मपुण्डरीकसूत्रम् phẩm 7. Tiền sử ७ पूर्वयोगपरिवर्तः। (7 pūrvayogaparivartaḥ)[12], và bản Tây Tạng དམ་པའི་ཆོས་པད་མ་དཀར་པོ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ། Dam-paḥi chos pad-ma dkar-po shes-bya-ba theg-pa chen-poḥi mdo thuộc tạng Peking No 0781, và Derge No 0113[13], phẩm སྔོན་གྱི་སྦྱོར་བའི་ལེའུ་བདུན་པ་ནི། kể chuyện Ngài là một trong mười sáu vị vương tử của đức Phật Đại Thông Trí Thắng, đã từng thọ trì giảng dạy kinh Pháp hoa, và sau đó thành Phật có hiệu là A Di Đà ở thế giới phương tây.

Quan điểm Pháp hoa ở đây là kết nạp tín ngưỡng A Di Đà vào tư tưởng nhất thừa, theo đó sự xuất hiện và giáo hóa của đức Phật Thích Ca, Phật A Di Đà cùng các đức Phật ở thế giới khác là tùy theo căn cơ của chúng sinh, để làm những nhà hướng đạo dẫn họ qua sa mạc của sinh tử hiểm nghèo.

Theo tư tưởng Pháp Hoa, Thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà cũng như thế giới của các vị Phật khác, chỉ là những ốc đảo ngọc ngà, mà kinh gọi là महारत्नद्वीप​ mahāratnadvīpa; gây ấn tượng an ổn cho tất cả, trước những hiểm nguy của sa mạc. Nhưng đó chỉ là nơi an nghỉ tạm thời. Nhà hướng đạo cuối cùng sẽ dẫn tất cả đến đích như bài kệ kết thúc phẩm ấy đã viết:

एतादृशी देशन नायकानां

विश्रामहेतोः प्रवदन्ति निर्वृतिम्।

विश्रान्त ज्ञात्वान च निर्वृतीये

सर्वज्ञज्ञाने उपनेन्ति सर्वान्॥१०९॥

etādṛśī deśana nāyakānāṃ

viśrāmahetoḥ pravadanti nirvṛtim|

viśrānta jñātvāna ca nirvṛtīye

sarvajñajñāne upanenti sarvān||109||[14]

“Sự giáo hóa của các bậc Đạo sư là như thế. Các Ngài nói đến sự tịch diệt là để mọi chúng sinh an nghỉ. Khi biết rằng chúng đã đi đến chỗ tịch diệt vốn không phải là nơi an nghỉ cuối cùng, các Ngài dẫn tất cả vào Nhất thiết trí"

Trong tư tưởng Pháp hoa, thế giới Cực lạc như thế chỉ là một hóa thành, một nơi an nghỉ tạm thời.  Tuy vậy, phẩm Tiền sử của Dược Vương thuộc Nguyên điển Sanskrit kinh Pháp Hoa सद्धर्मपुण्डरीकसूत्रम्, phẩm २२ भैषज्यराजपूर्वयोगपरिवर्तः। 22 bhaiṣajyarājapūrvayogaparivartaḥ, tương đương với bản dịch Tây Tạng དམ་པའི་ཆོས་པད་མ་དཀར་པོ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ། Dam-paḥi chos pad-ma dkar-po shes-bya-ba, phẩm 22. སྨན་གྱི་རྒྱལ་པོའི་སྔོན་གྱི་སྦྱོར་བའི་ལེའུ་ཉི་ཤུ་རྩ་གཉིས་པ་ནི།; Bản Hán: Đại Tạng Kinh 09, Diệu pháp liên hoa kinh 6 phẩm Dược Vương bồ tát bản sự[15], Chính pháp hoa kinh 9, phẩm Dược Vương bồ tát[16], và Thiệm phẩm Diệu pháp liên hoa kinh 6, phẩm Dược Vương bồ tát bản sự[17], lại đề cập đến sự vãng sinh về thế giới Cực Lạc của những người trì tụng kinh ấy, ngay cả những người nữ. Kinh viết như sau:

“यः कश्चिन्नक्षत्रराजसंकुसुमिताभिज्ञ इमं भैषज्यराजपूर्वयोगपरिवर्तं पश्चिमायां पञ्चाशत्यां श्रुत्वा मातृग्रामः प्रतिपत्स्यते स खल्वतश्च्युतः सुखावत्यां लोकधातावुपपत्स्यते यस्यां स भगवानमितायुस्तथागतोऽर्हन सम्यक्संबुद्धो बोधिसत्त्वगणपरिवृतस्तिष्ठति ध्रियते यापयति। स तस्यां पद्मगर्भे सिंहासने निषण्ण उपपत्स्यते। (yaḥ kaścinnakṣatrarājasaṃkusumitābhijña imaṃ bhaiṣajyarājapūrvayogaparivartaṃ paścimāyāṃ pañcāśatyāṃ śrutvā mātṛgrāmaḥ pratipatsyate sa khalvataścyutaḥ sukhāvatyāṃ lokadhātāvupapatsyate yasyāṃ sa bhagavānamitāyustathāgato'rhan samyaksaṃbuddho bodhisattvagaṇaparivṛtastiṣṭhati dhriyate yāpayati| sa tasyāṃ padmagarbhe siṃhāsane niṣaṇṇa upapatsyate)

“Sau khi Như Lai diệt độ năm trăm năm, nếu có người nữ nghe kinh điển này, đúng nhưlời tu hành, thì khi mệnh chung ở đây, liền vãng sinh qua thế giới An lạc, trụ xứ của đức Phật A Di Đà, có các chúng đại Bồ tát vây quanh, mà sinh ra trên tòa báu hoa sen”

Ở đây, sự tu hành theo kinh Pháp hoa được coi như một hỗ trợ đắc lực cho ước nguyện vãng sinh. Tư tưởng nhất thừa như thế được kết hợp chặt chẽ với tín ngưỡng A Di Đà.

Đến phẩm Phổ Môn, là phẩm thứ hai tư, bản Sanskrit Kinh Pháp Hoa, tựa đề २४ समन्तमुखपरिवर्तः 24 samantamukhaparivartaḥ, tương đương với phẩm 24. དམ་པའི་ཆོས་པད་མ་དཀར་པོ་ལས། སྤྱན་རས་གཟིགས་དབང་ཕྱུག་གི་རྣམ་པར་འཕྲུལ་པ་བསྟན་པ་ཀུན་ནས་སྒོའི་ལེའུ་ཉི་ཤུ་རྩེ་བཞི་པ་ནི། của bản Tây Tạng, có năm bài chỉnh cú ca ngợi đức Phật A Di Đà và nói rõ vị trí của Bồ tát Quán ThếÂm đối với đức Phật ấy. Các bản dịch chữ Hán không có năm bài kệ này. Duy chỉ có bản Sanskrit सद्धर्मपुण्डरीकसूत्रम् và bản dịch Tây Tạng དམ་པའི་ཆོས་པད་མ་དཀར་པོ་ཞེས་བྱ་བ་ཐེག་པ་ཆེན་པོའི་མདོ། Dam-paḥi chos pad-ma dkar-po shes-bya-ba là thấy chúng xuất hiện.

Nội dung năm bài chỉnh cú như sau:

*Sanskrit Devanagari

स्थित दक्षिणवामतस्तथा

वीजयन्त अमिताभनायकम्।

मायोपमता समाधिना

सर्वक्षेत्रे जिन गत्व पूजिषु॥२९॥

दिशि पश्चिमतः सुखाकरा

लोकधातु विरजा सुखावती।

यत्र एष अमिताभनायकः

संप्रति तिष्ठति सत्त्वसारथिः॥३०॥

न च इस्त्रिण तत्र संभवो

नापि च मैथुनधर्म सर्वशः।

उपपादुक ते जिनोरसाः

पद्मगर्भेषु निषण्ण निर्मलाः॥३१॥

सो चैव अमिताभनायकः

पद्मगर्भे विरजे मनोरमे।

सिंहासनि संनिषण्णको

शालरजो व यथा विराजते॥३२॥

सोऽपि तथा लोकनायको

यस्य नास्ति त्रिभवेस्मि सादृशः।

यन्मे पुण्य स्तवित्व संचितं

क्षिप्र भोमि यथ त्वं नरोत्तम॥३३॥[18]

 

Phiên âm Latin

sthita dakṣiṇavāmatastathā

vījayanta amitābhanāyakam|

māyopamatā samādhinā

sarvakṣetre jina gatva pūjiṣu||29||

diśi paścimataḥ sukhākarā

lokadhātu virajā sukhāvatī|

yatra eṣa amitābhanāyakaḥ

saṃprati tiṣṭhati sattvasārathiḥ||30||

na ca istriṇa tatra saṃbhavo

nāpi ca maithunadharma sarvaśaḥ|

upapāduka te jinorasāḥ

padmagarbheṣu niṣaṇṇa nirmalāḥ||31||

so caiva amitābhanāyakaḥ

padmagarbhe viraje manorame|

siṃhāsani saṃniṣaṇṇako

śālarajo va yathā virājate||32||

so'pi tathā lokanāyako

yasya nāsti tribhavesmi sādṛśaḥ|

yanme puṇya stavitva saṃcitaṃ

kṣipra bhomi yatha tvaṃ narottama||33|| iti||[19]

 

Bản Tây Tạng

(29) འདྲེན་པ་སྣང་བ་མཐའ་ཡས་གཡས་གཡོན་ནས། །

བསིལ་ཡབ་ཐོགས་ཏེ་དེ་བཞིན་གཡོབ་ཅིང་འདུག །

སྒྱུ་མ་ལྟ་བུའི་ཏིང་ངེ་འཛིན་གྱིས་ཀྱང༏ །

ཞིང་རྣམས་ཀུན་ཏུ་སོང་ནས་རྒྱལ་བ་མཆོད། །

(30) ནུབ་ཀྱི་ཕྱོགས་ན་བདེ་བའི་འབྱུང་གནས་ཏེ། །

རྡུལ་བྲལ་འཇིག་རྟེན་ཁམས་འདི་བདེ་བ་ཅན། །

དེ་ན་སེམས་ཅན་ཁ་ལོ་སྒྱུར་བ་ཡི། །

འདྲེན་པ་ཚེ་མཐའ་ཡས་པའང་ད་ལྟར་བཞུགས། །

(31) དེར་ནི་བུད་མེད་རྣམས་ཀྱང་མི་འབྱུང་སྟེ། །

རྣམ་པ་ཀུན་ཏུ་གཡེམ་པའི་ཆོས་མེད་དོ། །

རྒྱལ་བའི་སྲས་པོ་དེ་དག་བརྫུས་ཏེ་སྐྱེ། །

དྲི་མ་མེད་པའི་པད་མའི་སྙིང་པོར་འདུག །

(32) འདྲེན་པ་ཚེ་མཐའ་ཡས་པ་དེ་ཉིད་ཀྱང༏ །

པད་མའི་སྙིང་པོ་དྲི་མེད་དགའ་བ་ལ། །

སེང་གེའི་ཁྲི་ལ་རབ་ཏུ་བཞུགས་པ་ཡང༏ །

སཱ་ལའི་རྒྱལ་པོ་ལྟ་བུར་རྣམ་པར་མཛེས། །

(33) འཇིག་རྟེན་འདྲེན་པ་འདི་ཡང་དེ་བཞིན་ཏེ། །

སྲིད་པ་གསུམ་ན་དེ་འདྲ་ཡོང་མེད་དོ། །

གང་གིས་སྤྱན་རས་གཟིགས་དབང་མིང་ཐོས་པ། །

དེ་ཡི་བསོད་ནམས་དག་ནི་ཟད་མི་འགྱུར། །[20]

Bản dịch Sanskrit Anh của Kern

29. At one time standing to the right, at another to the left of the Chief Amitabha, whom he is fanning, he, by dint of meditation, like a phantom, in all regions honours the Gina.

 

30. In the west, where the pure world Sukhâkara is situated, there the Chief Amitabha, the tamer of men, has his fixed abode.

 

31. There no women are to be found; there sexual intercourse is absolutely unknown; there the sons of Gina, on springing into existence by apparitional birth, are sitting in the undefiled cups of lotuses.

 

32. And the Chief Amitâbha himself is seated on a throne in the pure and nice cup of a lotus, and shines as the Sâla-king.

 

33. The Leader of the world, whose store of merit has been praised, has no equal in the triple world. O supreme of men, let us soon become like thee![21]

Như vậy đối chiếu bản Sanskrit-Tây Tạng-Anh chúng ta có nội dung năm bài chỉnh cú này như sau: "Bồ tát Quán Thế Âm có khi đứng bên phải có khi đứng bên trái đức đạo sư Vô Lượng Quang mà hầu quạt, đồng thời bằng tam muội như huyễn, phụng sự đấng Tối Thắng ấy trong tất cảmọi quốc độ. Ở phương Tây có cõi Cực lạc thế giới hoan lạc vô nhiễm, có đức Đạo sư Vô Lượng Quang, vị Điều ngự của chúng sinh, an trú và tồn tại. Ở đó không có người nữ sinh ra, và cũng hoàn toàn không có sự dâm dục; những người con của đấng Tối Thắng hóa sinh ngồi giữa lòng hoa sen không cấu nhiễm. Và chính đức đạo sư Vô Lượng Quang ngồi trên tòa sư tử bằng hoa sen thuần khiết khả ái, rạng ngời sáng chói như Sa-la vương. Đấng Đạo sư của thế gian như thế, trong ba cõi không aisánh bằng. Kính đấng Siêu nhân! Sau khi tán dương tụ phước đức của Ngài, mong cho con chóng được như Ngài".

Và sự kiện năm bài chỉnh cú này vắng mặt trong các bản dịch chữ Hán Kinh Pháp Hoa, mà bản cuối cùng là thuộc Đại Tạng Kinh 09, số hiệu 264 của Xà Na Cấp Đa dịch[22], vào năm 601, thuộc; mà chỉ xuất hiện trong bản Sanskrit và bản dịch Tây Tạng, chứng tỏ từ thế kỷ thứ bảy về sau việc kết liên Bồ tát QuánThế Âm với đức Phật A Di Đà đã trở thành một yêu cầu trong tín ngưỡng A Di Đà ở Ấn Độ.

Tất nhiên, không thể dựa hoàn toàn vào sự vắng mặt trong những bản dịch chữ Hán, mà khẳng quyết năm bài chỉnh cú ấy ra đời sau bản dịch của Xà Na Cấp Đa, bởi vì, có thể các bản dịch chữ Hán đã y cứ vào các truyền bản khác với truyền bản Sanskrit: सद्धर्मपुण्डरीकसूत्रम् hiện tìm được.

Hơn nữa, trong Đại Tạng Kinh, số hiệu 0362, Phật Thuyết A Di Đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật Đàn Quá Độ Nhân Đạo Kinh[23], 2 quyển, do Ngô Chi Khiêm dịch giữa những năm 223-253, đã thấy xuất hiện đức Quán Thế Âm và Đại Thế Chí như hai Bồ tát thị giả đức Phật A Di Đà và sẽ kếvị đức Phật này ở thế giới Cực Lạc.

Cho nên, sự kết liên đức Quán Thê Âm với đức Phật A Di Đà trong đoạn văn dẫn trên của kinh Pháp hoa và bản Sanskrit chỉ là một sự tiếp thu, nếu quả có sự tiếp thu, một truyền thống tín ngưỡng có từ trước rồi.

Vậy thì từ cơ sở tư tưởng nhất thừa, tín ngưỡng A Di Đà xuất hiện như một trợ lực thiết yếu cho những hành giả đi về quả vị giác ngộ tối thượng. Khía cạnh trợlực này nổi bật khá rõ nét trong mối quan hệ của Phật A Di Đà với hai vị Bồ tát Dược Vương và Quán Thế Âm. Một vị như là một người bạn đường thiết yếu trong những nỗi thống khổ của bệnh tật, và một vị trong những tai họa bất trắc của cuộc đời.

Nói tóm lại, có một nỗ lực lý giải tín ngưỡng A Di Đà trong kinh Pháp hoa và qui định vị trí và vai trò của tín ngưỡng này trong toàn bộ hệ thống tư tưởng nhất thừa của nó.

2.4. Văn hệ Hoa Nghiêm

Nếu kinh Pháp hoa coi thế giới Cực lạc như một hóa thành, một nơi an nghỉ tạm thời, thì những mô tả về thế giới ấy trong kinh Hoa nghiêm cũng không có gì độc đáo lắm.

Một mặt nếu về không gian, thế giới Cực lạc có những hàng cây báu, có ao sen bảy báu với lòng ao rải bằng cát vàng, tràn đầy nước trong có tám đặc tính, có những loài chim hót tiếng líu lo như nhạc trời, có tiếng gió thổi qua các hàng cây phát ra những âm thanh vi diệu v.v..., thì những mô tả này cũng thấy xuất hiện nơi khu vườn Phổ trang nghiêm của bà Hưu Xả, mà trong Kinh Hoa Nghiêm bản Sanskrit hiện có là ङण्डव्यूह सूत्रम gaṇḍavyūhasūtram[24] và Đại Tạng Kinh 09, số hiệu 0278, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh 47[25], bản 60 quyển, Đông Tấn Phật Đà Bạt Đà La dịch; Đại Tạng Kinh 10, số hiệu 0279, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh 63[26], bản 80 quyển, Đường Thật Xoa Nan Đà dịch, và Đại Tạng Kinh 10, số hiệu 0293, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh 7[27], bản 40 quyển, Đường Bát Nhã dịch ghi nhận.

Mặt khác về thời gian thì số lượng thời gian của thếgiới Cực lạc chỉ được quan niệm dài hơn thế giới Ta bà, còn so với các thế giới khác thì nó quá ngắn. Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh 45 (bản 80) phẩm Thọ lượng và Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh 29 (bản 60) phẩm Thọ mạng, Đại Tạng Kinh 10, số hiệu 0289, Hiển Vô Biên Phật Độ Công Đức Kinh, 1 quyển, Đường Huyền Trang dịch và số hiệu 0290, Phật Thuyết Giảo Lượng Nhất Thiết Phật Sát Công Đức Kinh, 1 quyển, Tống Pháp Hiền dịch…nói nếu lấy thời gian ở thế giới Ta bà của Phật Thích Ca làm chuẩn, thì một kiếp của cõi này chỉ dài bằng một ngày một đêm ở thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà, rồi một kiếp của thế giới Cực lạc chỉ dài bằng một ngày một đêm của thế giới Ca sa tràng của Phật Kim Cang Kiên. Con số thời gian dài nhất của thế giới trong số mười thế giới được kể đến trong phẩm ấy là của thế giới Kính quang của Phật Nguyệt Trí. Nhưng thời gian của thế giới Kính Quang cũng chưa đáng kể nếu so với thời gian của thế giới Liên hoa của Phật Hiền Thắng.

Như vậy, với những xác định đơn vị thời gian vừa thấy, việc nói đức Phật A Di Đà có tuổi thọ vô lượng cũng chưa xác định được như một nét đặc thù về phương diện thời gian.

Tuy vậy, ước nguyện vãng sinh về thế giới Cực Lạc ấy vẫn được nhấn mạnh trong phẩm 56 Phổ Hiền Hành Nguyện, của Kinh ङण्डव्यूह सूत्रम gaṇḍavyūhasūtram bản Sanskrit với nhan đề: समन्तभद्रचर्याप्रणिधानम् samantabhadracaryāpraṇidhānam, phần này không có trong các bản dịch Hán của Kinh Hoa Nghiêm thuộc Đại Tạng Kinh 09, số hiệu 0278, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, bản 60 quyển, Đông Tấn Phật Đà Bạt Đà La dịch; số hiệu 0279, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, bản 80 quyển, Đường Thật Xoa Nan Đà dịch mà chỉ có trong phần cuối của Đại Tạng Kinh 10, số hiệu 0293, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh 40, bản 40 quyển, Đường Bát Nhã dịch và bản dịch Tây Tạng སྡོང་པོ་བཀོད་པ། sdong po bkod pa

Ước nguyện vãng sinh ở đây được quan niệm như một hỗ trợ đắc lực để thành tựu những đại nguyện của Phổ Hiền:

“कालक्रियां च अहं करमाणो

आवरणान विनिवर्तिय सर्वान्।

संमुख पश्यिय तं अमिताभं

तं च सुखावतिक्षेत्र व्रजेयम्॥५७॥

kālakriyāṃ ca ahaṃ karamāṇo

āvaraṇān vinivartiya sarvān|

saṃmukha paśyiya taṃ amitābhaṃ

taṃ ca sukhāvatikṣetra vrajeyam||57||[28]

Nguyện khi tôi lâm chung,

Mọi chướng ngại đều được tiêu trừ,

Tôi đi về quốc độ Cực Lạc

Và thấy tận mặt đức Phật A Di Đà"

Đối chiếu với bản Tây Tạng chúng ta có như sau:

པད སཱཏཱཀུ མེནིནྒྒལ

སེམོག སེགལ ནོད ཏེརྶིནྒྐིརྐན

དེནྒནདེམིཀཱིནསཡ དཔཏམེལིཧཏབུདྡྷ ཅཧཡ ཏནྤ བཏས

དནདཔཏཔེརྒི ཀེ སུརྒ ཀེབཧགཱཱིནསེམྤུརྣ[29].

Ước mong khi tôi lâm chung,

Tránh xa tất cả các chướng ngại,

Trước mắt thấy được đức Vô Lượng Quang

Và vãng sinh về cõi Cực lạc của Ngài.

Đối chiếu với bản Hán Đại Tạng Kinh 10, số hiệu 0293, Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh 40, bản 40 quyển, Đường Bát Nhã dịch:

願我臨欲命終時,

盡除一切諸障礙,

面見彼佛阿彌陀,

即得往生安樂剎。[30]

Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời,

Tận trừ nhất thiết chư chướng ngại,

Diện kiến bỉ Phật A-di-đà,

Tức đắc vãng sanh an lạc sát.

Và đoạn tiếp sau trong bài kệ này thuộc phẩm समन्तभद्रचर्याप्रणिधानम् samantabhadracaryāpraṇidhānam kinh nói tiếp năm bài chỉnh cú sau:

Sanskrit Devanagari

तत्र गतस्य इमि प्रणिधाना

आमुखि सर्वि भवेय्यु समग्रा।

तांश्च अहं परिपूर्य अशेषान्

सत्त्वहितं करि यावत लोके॥५८॥

तहि जिनमण्डलि शोभनि रम्ये

पद्मवरे रुचिरे उपपन्नः।

व्याकरणं अहु तत्र लभेय्या

संमुखतो अभिताभजिनस्य॥५९॥

व्याकरणं प्रतिलभ्य त तस्मिन्

निर्मितकोटिशतेभिरनेकैः।

सत्त्वहितानि बहून्यहु कुर्यां

दिक्षुदशस्वपि बुद्धिबलेन॥६०॥

भद्रचरिप्रणिधान पठित्वा

यत्कुशलं मयि संचितु किंचित्।

एकक्षणेन समृध्यतु सर्वं

तेन जगस्य शुभं प्रणिधानम्॥६१॥

भद्रचरिं परिणाम्य यदाप्तं

पुण्यमनन्तमतीव विशिष्टम्।

तेन जगद्व्यसनौघनिमग्नं

यात्वमिताभपुरिं वरमेव॥६२॥[31]

Phiên âm la-tin

tatra gatasya imi praṇidhānā

āmukhi sarvi bhaveyyu samagrā|

tāṃśca ahaṃ paripūrya aśeṣān

sattvahitaṃ kari yāvata loke||58||

tahi jinamaṇḍali śobhani ramye

padmavare rucire upapannaḥ|

vyākaraṇaṃ ahu tatra labheyyā

saṃmukhato abhitābhajinasya||59||

vyākaraṇaṃ pratilabhya ta tasmin

nirmitakoṭiśatebhiranekaiḥ|

sattvahitāni bahūnyahu kuryāṃ

dikṣu daśasvapi buddhibalena||60||

bhadracaripraṇidhāna paṭhitvā

yatkuśalaṃ mayi saṃcitu kiṃcit|

ekakṣaṇena samṛdhyatu sarvaṃ

tena jagasya śubhaṃ praṇidhānam||61||

bhadracariṃ pariṇāmya yadāptaṃ

puṇyamanantamatīva viśiṣṭam|

tena jagadvyasanaughanimagnaṃ

yātvamitābhapuriṃ varameva||62||

“Khi vãng sinh về đó rồi, tất cả những bản nguyện này lúc ấy được hiện tiền, và sau khi hoàn thành chúng trọn vẹn tôi xin làm lợi ích cho chúng sinh ở thế gian. Ở đó tại đạo tràng sáng chói đầy hoan lạc của đấng Tối Thắng, tôi sinh ra trong đóa sen hồng tuyệt diệu, tiếp nhận sựthọký trước sựcó mặt của đấng tối thắng Vô Lượng Quang. Sau khi tiếp nhận được sự thọ ký ở đó, bằng vô số trăm ức triệu hóa thân, tôi có thể làm những điều lợi ích cho chúng sinh trong cả mười phương bằng sức mạnh của giác ngộ. Sau khi tụng đọc bản nguyện của Phổ Hiền, bất cứ tốt lành nào mà tôi đã chứa nhóm được, từng sát na mong cho tất cả thành tựu, do đó mà bản nguyện sáng ngời đối với thế gian được thành tựu. Sau khi đã thành thục hành vi của Phổ Hiền, với vô biên phước đức thù thắng đã đạt được, mong cho thếgian đang chìm đắm trong giòng lũ của bất hạnh, đi về quốc độ tuyệt vời của đức Vô Lượng Quang”.

Ước nguyện vãng sinh của Phổ Hiền như thế thật tha thiết và cảm động, nên về sau đặc biệt ởTrung Quốc đã có một ảnh hưởng rất lớn lao. Chính một bài chỉnh cú trên đã trở thành kinh nhật tụng của các nhà Tịnh độ giáo.

Dẫu vậy, ý nghĩa vãng sinh không được đơn thuần quan niệm như một hành vi chuyển động trong không gian. Trái lại, vãng sinh được lý giải trên cơ sở tư tưởng duy tâm của chính kinh Hoa nghiêm.

Bản Sanskrit, phẩm thứ 8.  मुक्तकः muktakaḥ, của Kinh ङण्डव्यूह gaṇḍavyūha, kể rằng: Khi Thiện Tài đồng tử đến tham bái trưởng giả Giải Thoát ở Trụ lâm được dạy cho môn giải thoát của Như Lai có tên Vô Trước Trang Nghiêm. Sau khi giới thiệu cho thấy vô lượng cõi Phật có thể được thăm viếng, vô lượng hành vi sự nghiệp của các đức Phật được chứng kiến bằng vào khả năng của Vô Trước Trang Nghiêm, vị trưởng giả ấy nói:

“न च ते तथागता इहागच्छन्ति, न चाहं तत्र गच्छामि। यस्यां च वेलायामिच्छामि, तस्यां वेलायां सुखावत्यां लोकधातावमिताभं तथागतं पश्यामि। चन्दनवत्यां लोकधातौ वज्राभं तथागतं पश्यामि।…। सोऽहं कुलपुत्र न कुतश्चिदागमनतां तथागतानां प्रजानन्, न क्वचिद्गमनतां स्वकायस्य प्रजानन्, स्वप्नोपमविज्ञप्तिं च तथागतानां प्रजानन्, स्वप्नसमविचारविज्ञप्तिं स्वचित्तस्य प्रजानन्, प्रतिभाससमविज्ञप्तिं च तथागतानां प्रजानन्, अच्छोदकभाजनविज्ञप्तिं च स्वचित्तस्य प्रजानन्, मायाकृतरूपविज्ञप्तिं च तथागतानां प्रजानन्, मायोपमविज्ञप्तिं च स्वचित्तस्य प्रजानन्, प्रतिश्रुत्कागिरिघोषानुरवणतां च तथागतघोषस्य प्रजानन्, प्रतिश्रुत्कासमविज्ञप्तिं च स्वचित्तस्य प्रजानन्, एवमनुगच्छामि एवमनुस्मरामि स्वचित्ताधिष्ठानं बोधिसत्त्वानां सर्वबुद्धधर्म इति (na ca te tathāgatā ihāgacchanti, na cāhaṃ tatra gacchāmi| yasyāṃ ca velāyāmicchāmi, tasyāṃ velāyāṃ sukhāvatyāṃ lokadhātāvamitābhaṃ tathāgataṃ paśyāmi| candanavatyāṃ lokadhātau vajrābhaṃ tathāgataṃ paśyāmi|….so'haṃ kulaputra na kutaścidāgamanatāṃ tathāgatānāṃ prajānan, na kvacidgamanatāṃ svakāyasya prajānan, svapnopamavijñaptiṃ ca tathāgatānāṃ prajānan, svapnasamavicāravijñaptiṃ svacittasya prajānan, pratibhāsasamavijñaptiṃ ca tathāgatānāṃ prajānan, acchodakabhājanavijñaptiṃ ca svacittasya prajānan, māyākṛtarūpavijñaptiṃ ca tathāgatānāṃ prajānan, māyopamavijñaptiṃ ca svacittasya prajānan, pratiśrutkāgirighoṣānuravaṇatāṃ ca tathāgataghoṣasya prajānan, pratiśrutkāsamavijñaptiṃ ca svacittasya prajānan, evamanugacchāmi evamanusmarāmi svacittādhiṣṭhānaṃ bodhisattvānāṃ sarvabuddhadharma iti….)[32]

“Các đức NhưLai ấy không đi đến đây, và ta cũng không đi đến đó. Khi nào ta muốn thì khi ấy ta liền thấy Như Lai Vô Lượng Quang ở thế giới Cực Lạc (...) Này thiện nam tử, chính ta không quan niệm các NhưLai từ đâu đến đây, hay tự thân ta đi đến đâu. Ta quan niệm sựnhận thức vềcác Như Lai là như mộng, hành vi và nhận thức của tự tâm là như mộng. Ta quan niệm sự nhận thức vềcác đức NhưLai là ảnh tượng vàsựnhận thức của tự tâm là như nước ở trong mình. Ta quan niệm sự nhận thức vềcác đức Như Lai là như huyễn hóa và nhận thức của tự tâm là như huyễn thuật. Ta quan niệm âm hưởng của các Như Lai như tiếng vang trong hốc núi và nhận thức của tự tâm như tiếng vang. Ta quan sát như vậy, ta suy niệm như vậy rằng hết thảy Phật pháp của các Bồ tát đều do tự tâm, sự thanh tịnh của hết thảy chư Phật đều do tự tâm ..."

Giải thích pháp môn Vô trước trang nghiêm như thế, Hoa nghiêm kinh đã đặt cơ sở cho thuyết tự tính Di Đà duy tâm tịnh độ, từ đó xác nhận nội dung vãng sinh chính là ở bản thân con người chứ không đâu xa.

Điều này hoàn toàn nhất trí với quan điểm vãng sinh của văn hệ Bát Nhã, tóm tắt trong tuyên bố nổi tiếng của Long Thọ ở Trung luận: "Biên giới của Niết bàn cũng là biên giới của sinh tử".

Xem mục lục