1. Tổ sư nói: Tây Thiên đệ ngũ thế Tổ sư, tức Đề-đa-ca tôn giả, nói bài kệ phú pháp cho Di-cha-ca tôn giả làm đệ lục thế Tổ rằng:
Suốt thông vốn không tâm,
Không pháp không chẳng pháp,
Ngộ rồi đồng chưa ngộ,
Không tâm cũng không pháp. Thông đạt bổn vô tâm,
Vô pháp vô phi pháp,
Ngộ liễu đồng vị ngộ,
Vô tâm diệc vô pháp.
Ý nói cái tâm nó phi có hình sắc lớn nhỏ gì, mà tức pháp tức tâm, cũng pháp phi pháp, tâm phi tâm, vì là chân không bất không, diệu hữu phi hữu. Người được minh tâm kiến tánh rồi, cũng như khi chưa ngộ, vì bất tăng bất giảm, Thánh cũng tâm ấy, phàm cũng tâm ấy chớ phi Thánh mà tăng cái gì, phàm giảm cái gì, chỉ giác ngộ là Thánh, mê muội là phàm, nên nói “Ngộ liễu đồng vị ngộ, vô tâm diệc vô pháp”. Cổ nhân phụ kệ rằng “Ngộ liễu hoàn đồng vị ngộ thì, phương thị ni cô vị nữ nhi, thuận nghịch tung hoành trí, vãng lai tam giới chứng Bồ-đề”.
2. Ngộ rồi đồng chưa ngộ: Cái tâm pháp đã nói như trên, hễ được giác ngộ là Phật mà còn đương mê là chúng sanh. Nhưng đâu phải giác ngộ rồi có thêm cái gì, còn đương mê bị bớt cái chi, nên nói “Ngộ rồi đồng chưa ngộ”. Đức Lục Tổ nói “Bồ-đề bổn vô thụ, minh cảnh diệc phi đài, bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai”. Tâm kinh nói “…Vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố…”.
3. Họ Tư Ma: Họ đôi là dùng hai chữ làm họ. Nhà Châu thuở vua Tuyên, cha ông Trình Bá Hưu là chức quan Tư Mã, có công lớn, vua ban cho họ quan là Tư Mã thị. Họ đôi như Chung Li, Khổng Minh, Hạ Hầu…
4. Đầu-đà: Du-già Luận Ký cuốn 6 nói “Đọc chính Đổ-đa, dịch là tu trị”. Hành pháp này để phủi giũ ba món tham trước là y phục, ẩm thực và chỗ ở. Người tục bảo Tăng sĩ đi hành cước, khất thực là tu hạnh đầu-đà cũng gọi là hành giả…
5. Thủ tọa (chức vị): Là ngồi đầu dòng giữa hội tọa. Tăng sử lược trung nói “Thủ tọa tức là Thượng tọa, ở nơi đầu pháp tịch, ngồi trên chúng tăng, nên kêu là thủ tọa”. Tùy địa vị có nhiều chức: 1-Tam giống áo thủ tọa (đời Đường, vua Tuyên Tôn tặng thưởng). 2-Giảng giáo thủ tọa (đời Đại Tống quan tặng). Trong thiền môn có những: 3-Tiền đường thủ tọa, 4-Hậu đường thủ tọa, 5-Lạp tam thủ tọa, 6-Danh đức thủ tọa, 7-Khước lai thủ tọa. Tổ Đình Sự Uyển cuốn 8 nói “Thủ tọa tức là vị Thượng tọa từ xưa. Phạm ngữ Tất-thế-da, đây rằng Thượng tọa… xưa nay lập chức vị đây, đều lựa dùng người có tuổi tác, đức hạnh cao độ đảm nhận…”
6. Điển tọa: Là chức vị chủ các việc cho đại chúng như giường, chỗ ngồi, cơm cháo… Luật Tăng-kỳ quyển 6 nói “Phật trú nơi thành Xá-vệ, bấy giờ có Tỳ-kheo tên là Đà-phiêu-ma-la-tử, chúng tăng đưa lên làm chức điển tọa, chủ hay chín việc: 1-Chủ thứ lớp phân phú sàng tòa. 2-Chủ thứ lớp sai đi mời họp nghị. 3-Chủ thứ lớp phân chia phòng xá. 4-Chủ thứ lớp chia y phục thập vật. 5-Chủ thứ lớp chia hoa hương. 6-Chủ thứ lớp chia quả phẩm. 7-Chủ thứ lớp biết ấm lạnh. 8-Chủ thứ lớp chia các thứ bánh. 9-Chủ hay tùy ý cử lên người biết việc. Thế, là chúng tăng cho làm chức điển tri cửu sự”. Điển là chủ hay giữ. Truyền Đăng Lục chép rằng Ngài Linh Hựu khi ở dưới pháp hội của Tổ Bách Trượng, được làm chức điển tọa… Xét, nhà Thích gọi điển tọa, như nhà cư sĩ gọi tư trù (chủ việc nhà khói). Đại phàm, các tăng chúng trong các tự viện, lệ thường phân ra làm Đông tự, Tây tự, những chức mà hay về các việc thô sơ, đều thuộc về Đông tự, như điển tọa… – Ngũ Đăng Hội Nguơn chép Ông Tuyết Phong làm chức Phạn đầu nơi Động Sơn; ông Khánh Chư làm chức Mễ đầu ở nơi Qui Sơn; ông Đạo Khuông làm chức Thông đầu ở nơi Chiêu Khánh; ông Quán Khê làm chức Viên đầu ở Mạt sơn; ông Thiệu Viễn làm chức Điền đầu ở nơi Thạch môn; ông Trí Thông làm chức Trực tuế ở nơi Qui sơn; ông Hiểu Thông làm chức Đăng đầu ở nơi Vân Cư; ông Kê Sơn làm chức Sài đầu ở nơi Đầu Tử; ông Nghĩa Hoài làm chức Thủy đầu ở nơi Túy Phong; ngài Phật Tâm làm Tịnh đầu ở nơi Hải Ấn. Các chức vụ trên, đều thuộc về Đông tự. Mà cái danh Điển tọa rất rõ nơi đời. Đông tự, Tây tự tức Đông đường, Tây đường.
7. Tượng lật: Tên một thứ trái cây (cây keo su), hột như hột su già, năm mất mùa, người ta hái trái ăn đỡ đói, năm được mùa, hái trái cho heo ăn. Tượng bì thọ tức keo su, quí hơn vàng, vì ngày nay người ta chế tạo vật dụng quá tiện lợi mọi điều. Lật: có trái, ăn được, tục gọi là trái chôm chôm.
8. Nhập thất: Pháp Thiền qui bảo rằng kẻ đệ tử nào tham học đã lâu, mới được vào tịnh thất của thầy để tham hỏi đạo, là khám xét đệ tử đã đắc phần, phi người tham học đã lâu thì chẳng cho vào. Ở về thời xưa, đến cơ duyên mới làm pháp nầy, chẳng có cái Thiền qui riêng; đến các Tổ như Mã Tổ, Bách Trượng về sau, mới riêng lập cái Thiền qui định ngày mà làm. Đời gọi là đắc Sư pháp là đệ tử đã nhập thất. Song người nhập thất đấy, cũng chưa chắc được hết sư pháp. Tổ Đình Sự Uyển cuốn 8 chép, Tổ sư truyền rằng “Đức Ngũ Tổ đại sư đến nửa đêm, bí mật sai thị giả đến nhà giã gạo mời ông Lư Hành Giả vào thất, Tổ truyền y pháp cho làm Đệ Lục Tổ… Sách Sắc Tu Thanh Qui Nhập Thất chép “Cái điều nhập thất là nhà Thiền khám xét kẻ học giả, sách phát chỗ chưa đến, nghiền nát chỗ luống dối cống cao, trị cái chỗ thiên trọng.” Hưng Thiền Hộ Quốc Luận nói “Nhập thất là gặp ngày nào mà Hòa thượng thầy được rảnh rỗi, mới lập cái nghi nầy”, đó là một việc của Thiền tông. Lại, pháp tu, bên Chân Ngôn Tông, vào cái thất quán đảnh, làm chịu pháp quán đảnh, gọi là nhập thất đệ tử.
9. Năm Thái Trung thứ 7: Tức là Đại Trung, niên hiệu của vua Tuyên Tông nhà Đường, năm Đại Trung thứ bảy, nhằm dương lịch 847.
10. Tuổi tăng lạp: Từ năm thụ Tỳ-kheo giới về sau, cứ mỗi năm đều cấm túc an cư ba tháng mùa hạ, hễ tu được một hạ, gọi là một tuổi, mấy hạ là mấy tuổi. Rằm tháng tư nhập hạ, rằm tháng bảy ra hạ, tháng bảy là lạp ngoạt của nhà Tăng, kêu là pháp lạp, tăng lạp. Lạp là tên của cuộc tế lễ; tức tế lạp; nhà Tần, nhà Hán đều lấy tháng 12 âm lịch làm tháng lạp để tế lễ, người thế thường lấy tháng cuối năm tức tháng 12 làm tuổi.
11. Tự biết: Là cái trí túc mạng thông. Luận Câu Xá nói “Túc trú tùy niệm trí chứng thông, là cái sức thần thông tự tại hiểu biết những sanh mạng và hành sự suốt các đời khác của mình, như biết những việc tự ngày qua về trước của đời hiện tại…
12. Trực chỉ Thiền: Là pháp Thiền nầy chỉ ngay cái tâm của người, để người kiến tánh thành Phật, chứ không dùng đến ngữ ngôn văn tự. Thiền pháp có hai: a-Như Lai Thiền: Trong kinh, luận từng nói đến, đời Tần, ngài Cưu-ma-la-thập ban đầu truyền ra, đến ngài Thiên Thai rất là tường tất. b-Tổ sư Thiền: Tức trực chỉ Thiền, ngoài kinh luận (giáo ngoại biệt truyền) Tổ trước Tổ sau đem tự tâm ấn tâm cho nhau; đời Ngụy đức Đạt-ma ban đầu truyền ra. Phật ở trên hội Linh Sơn, cầm một hoa sen đưa ra trước mặt tứ chúng, cả trăm vạn người và trời mà không ai hiểu ý Phật, chỉ có ông Ma-ha Ca-diếp chúm chím cười, vì lãnh hội được ý chỉ của Phật, nên Phật đem diệu tâm Niết-bàn truyền cho Ca-diếp làm Sơ Tổ. Đấy, niêm hoa vi tiếu mà truyền trao tâm ấn mà thôi, chứ chẳng dùng đến ngữ ngôn văn tự, nên gọi là Trực Chỉ Thiền, vì “bất lập văn tự giáo ngoại biệt truyền”. Ngài Thái Hư định nghĩa rằng “Lấy chỗ truyền mà lập tông, là Thiền tông bất y văn tự, tuyệt vô kinh điển, xích lỏa lỏa duy chính thị vụ”.
13. Hoa Lâm Hòa thượng: Ngài thủ tọa, sau đến trụ trì chùa Hoa Lâm, nên gọi là Hoa Lâm Hòa thượng; Ngài có đức cảm hóa hai con Đại hổ và Tiểu hổ, đặt pháp danh là Đại Không và Tiểu Không…
14. Nghiệp: Là người đời, ai cũng có chẳng nhiều thì ít giữa mười thiện nghiêp, mười ác nghiệp, hễ nghiệp lành thì nó dẫn đến tam thiện đạo là, thiên đạo, nhân đạo và A-tu-la đạo, vì hữu lậu thiện mà phân ra có thượng, trung và hạ. Còn nghiệp ác thì nó lôi tới tam ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, vì có thượng ác, trung ác và hạ ác. Sách gọi là lục đạo luân hồi.
15. Vô minh hoặc: Là một trong ba hoặc của Thiên Thai lâp ra. Người bị nó ngăn che không thấy được lý trung đạo. Bồ-tát bên Biệt giáo từ bực Sơ địa bắt đầu đoạn trừ hoặc này; Bồ-tát bên Viên giáo từ bực Sơ trụ bắt đầu dứt cái hoặc này, đều để dứt từ phần hoặc chứng từ phần lý trung đạo. Tuy kêu là Hoặc, phiền não, lậu, cấu, kiết, dù tên có lạ chứ cũng đồng thể là Hoặc cả. Thiên Thai Tông gồm tất cả vọng hoặc phân làm ba loại: 1.Kiến tư hoặc, 2.Trần sa hoặc, 3.Vô minh hoặc, lại tên là chướng trung đạo hoặc, vì nó ngăn che cái lý thực tướng trung đạo, nó khác với cái si hoặc trong tư hoặc, vì si hoặc kia nó làm ngăn che cái không lý, nên gọi là “Chi Mạt vô minh”; còn cái hoặc đây là nó làm mê mờ cái lý thể căn bản, nên gọi là “Căn Bản vô minh”. Đoạn được mười hai phẩm vô minh đây; tức là quả Phật của Biệt giáo. Đoạn được bốn mươi hai phẩm vô minh đây, tức là quả Phật của Viên giáo.
16. Khổ thụ: Tự lãnh nạp lấy cái cảnh trái với ý muốn mà sanh khởi ra cái cảm tưởng chịu khổ não. Thụ là lãnh nạp lấy ngoại cảnh đưa đến, cảnh ngộ có ba trạng thái là, thuận tình, nghịch tình và phi thuận phi nghịch. Thụ có ba: 1-Khổ thụ: như trên, 2-Lạc thụ: Lãnh nạp lấy cái thuận tình mà phát khởi ra cái cảm chịu thích sướng, 3-Bất khổ bất lạc thụ: lại gọi là xả thụ, lãnh nạp lấy cái cảnh trung bình là không thích không thuận không nghịch mà, cùng xả lìa cái cảnh khổ và vui, nghĩa là không khổ không vui.
17. Bịnh ái kiến: Chấp trước nơi người mà sanh khởi cái ý thức thương yêu. Kinh Duy-Ma phẩm Vấn Tật nói “Đối với chúng sanh, nếu sanh lòng ái kiến đại bi thì, lập tức phải xả ly”. Ngài La-thập chú giải rằng “Thấy có người mà lòng sanh quan niệm ái trước, nhân đó nảy cái tâm sở bi thương, gọi là ái kiến đại bi; Lại, ái và kiến là hai món phiền não, lòng mê lầm về sự gọi là ái; mê hoặc về lý kêu là kiến. Như các cái tâm sở tham dục, sân khuể là vọng hoặc về mê sự; còn các cái bịnh ngã kiến tà kiến… là vọng hoặc về mê lý”. Kinh Lăng Nghiêm quyển 6 nói “Nó khiến chúng sanh sa vào hầm ái kiến, mất cái đường Bồ-đề”. Trí Độ Luận cuốn 7 nói “Phiền não có hai món, một thuộc về ái, hai thuộc về kiến”.
18. Một niệm điên đảo: Một niệm tráo chác. Xem ở số 20 nói sau.
19. Các nhân duyên: Nghiệp thức của con là thân nhân duyên, tinh của cha, huyết của mẹ là sơ nhân duyên.
20. Ái làm giống, tưởng nên thai: Khi sắp đầu thai, cái thân trung ấm là giống trai thì nó khởi cái ái niệm yêu người sắp làm mẹ nó, còn nếu nó là giống gái thì, nó khởi cái ái niệm yêu người sắp làm cha nó, nên nói rằng “nhân ái vi chủng”. Kể đó, giống trai thì nó chỉ tưởng chính nó hành dâm với người sắp làm mẹ nó, chứ nó tuyệt nhiên không tưởng thấy có cha nó đương sự; còn gái thì trái lại… Đến đó, ba cái điện dục hỏa của ba đương sự đồng thời hít vào mà thành thai, nên nói rằng “nạp tưởng thành thai”. Lại, nó chỉ ái và tưởng chính nó yêu mẹ ghét cha, hay ghét mẹ yêu cha và nó tưởng chính nó hành dục, chứ nó không tưởng là cha mẹ nó hành dục. Đấy, cái tưởng trái nghịch như thế, nên nói là “Tối sơ nhứt niệm điên đảo”. Tối sơ là rốt trước, là khi sắp đầu thai (rút Du-Già Sư Địa Luận).
21. Báo phong: Cũng gọi là y phong, nghiệp phong. Trong bộ kinh Lăng Già mười quyển, cuốn 9 nói “Nghiệp phong trưởng tứ đại, như chư quả thành thục”. Nghiệp thiện ác nó thường khiến người di chuyển luân hồi tam giới, nên tỷ như gió lùa nghiệp đi. Nghĩa là trước cảm cái thân chánh báo nghiệp phong, nên bẩm thụ cái sanh thân có cái hơi thở ra hút vào, đó là báo phong. Còn khi ở trong mẫu thai, nương nơi hơi thở của mẹ thở ra hít vào, cái bào thai nó cũng phập phềnh theo đó, để nảy nở biến chuyển lớn lên, nên gọi là y phong. Nghiệp phong, y phong hòa hiệp, gọi là thọ mạng.
22. Thọ mạng: Sách Phụ Hạnh chép “Sống trong một kỳ hạn mấy chục tuổi đó, gọi là thọ; hơi thở tiếp tục liền luôn, gọi là mạng. Một kỳ hạn duy trì liên tiếp, cái gió là hơi thở chẳng đứt, gọi rằng thọ mạng”. Cái mạng căn là thể, cái sống, cái hơi ấm và cái thức biết làm tướng, hoạt động làm dụng, là thể tướng dụng của thọ mạng.
23. Ấm lửa dục. Noãn: ấm, tức lửa dục của thân trung ấm (đứa con), của cha và của mẹ, đồng thời xuất tinh khí huyết ra một lượt mới kết thành thai (xuất ra bằng cách xê xích thì không kết thành thai, vì ra không đồng thời, cái ra trước, dục hỏa đã kém nhiệt độ) được, ba nhiệt độ của dục hỏa ba đàng (trung ấm, cha mẹ) này, nó kết tinh thành một điểm sáng ở tại giữa hai thanh cật. Sách Đông y bảo “Nhất điểm chân dương, danh viết mạng môn tướng hỏa”. Cái nhiệt độ dục hỏa (mạng môn tướng hỏa) ấy, tức là nghĩa của chữ “noãn” trong câu “nhứt mạng nhị noãn tam thức” đây vậy.
24. Tứ chi bách hài. Tứ chi: bốn nhánh, thân thể của người, có hai tay, hai chân là tứ chi, nương đó để vận động; con thú có bốn cẳng là tứ chi; con chim có hai cánh hai giò là tứ chi. Bách hài là tiếng gọi chung cả cơ thể thân hình.
25. Nước tinh dịch: Dịch lưu chất, tức dịch thể. Lại, tinh dịch là một món dịch thể, nó kết sanh ở trong ngoại thận nơi “sanh thực khí” của hùng tánh (đàn ông). Tinh của cha; Dịch nhựa, chất nhớt, cha mẹ đều có; khí là hơi, cha mẹ đều có. Khi hành dâm đến cực độ, hai cái hơi ấy nó bắn tinh huyết ra. Huyết của mẹ. Tinh huyết của cha mẹ kết thành thai, tinh huyết ấy gọi là tiên thiên khí huyết. Ăn ngũ cốc, khoai, trái, trong ấy có chất tròng trắng, bảy ngày nó kết sanh được một điểm tinh, tinh này nó sanh ra huyết, tinh huyết này gọi là hậu thiên khí huyết. Trong tinh dịch nó hàm chứa tinh trùng (sanh nguyên), thể nó quá nhỏ, hình như con lăng quăng (nòng nọc), vì ở nơi tinh dịch trong “sanh thực khí” của nam tánh phân tiết ra, nên gọi là tinh trùng. Dùng gương hiển vi cao độ gấp năm, sáu trăm lần cho vào tinh dịch mới thấy nó; cùng với noãn châu trong sanh thực khí của nữ tánh, đồng gọi là nguồn sanh thực. Còn sách Phật bảo nghiệp thức là hột giống sanh hóa.
26. Noãn khí: Hơi ấm, tức là ôn độ. Sách Bản Thảo có mục chép “Tạng tâm (quả tim) cái thần làm quân hỏa, còn cái mà nó bao bọc chạy giáp vòng châu thân làm tướng hỏa”. Nhà Đông y xưa, lại gọi là thận hỏa, cũng bảo là dục hỏa (vị trí nó ở tại chính giữa hai quả nội thận là nơi xương sống dưới chỗ buộc dây lưng đó, kêu là mạng môn tướng hỏa, hễ khi mà người ta khởi dục lên thì, lửa ấy nó chạy ra nơi nam căn hay nữ căn đều ấm hiểm cả, nên gọi dục hỏa).
27. Bịnh tổng tập. Tổng: gom chung nhiều. Tổng tập gồm nhiều vì đối với biệt tập, nên nói là tổng tập. Biệt tập là chỉ bị riêng một chứng nào trong số 101 chứng của một đại. Tổng tập là bị nhiều chứng lộn xộn của cả bốn đại đều có. Như một người trong cơn một khí ban mà có nhiều chứng đồng thời phát sanh. Tỷ dụ sá hàn sá nhiệt, thoạt tỉnh thoạt mê, bịnh biến bất nhứt, nhiều chứng hàn nhiệt vãng lai…
28. Bịnh nghiệp báo: Trả cái nghiệp đã tạo từ đời trước, kêu là định nghiệp nan đào. Như tiền kiếp sanh sát quá thì, kiếp sau phải trả 1-Hoặc đau ốm rề rề. 2-Hoặc chết yểu, vì làm cho chúng sanh bị đau nhức nên nay phải đau hoài, và nó đương sống mà làm cho nó bị đoản mạng, nên nay phải chết non. Còn phóng sanh thì sau được trường thọ, vì nó sắp chết mà ta mua thả, cái sống của nó được kéo dài, nên ta được sống dai. Bịnh nghiệp báo như đức Như Lai bị bối thống dư ương; biến thước không khỏi họa hình, y gia đa quái tật. Kêu bằng “diệu dược nan y oan trái bịnh”.
Phụ chú: Với tứ đại, nhân nội thương về một đại nào bị suy tổn mà, trí thành bị ngoại cảm lấy cái khí tà khách của lục dâm: phong khí, hàn khí, thử khí, ôn khí, táo khí và hỏa khí. Địa đại thuộc tỳ thổ mà, huyết nó thất thường chẳng lưu động, nên thân thể phát sanh chứng trầm trọng. Thủy đại thuộc thận thủy mà, thủy nó chẳng đủ hạn chế được hỏa thắng thì, cái chứng hư vọng hỏa nó viêm nhiệt lên, nên sanh ra bịnh đàm ấm. Hỏa đại thuộc tim hỏa mà, hễ hỏa thạnh tức dương cang thì, nó làm hại cho thân thể tiêu khô, nên sanh chứng bịnh hoàng nhiệt. Phong đại thuộc phong khí bịnh, nguyên tỳ thận bị hư tổn mà, mạch can nó đi huyền cường, làm diêu động, hơi thở khò khè, phát sanh cái chứng khí phát.
29. Quên điều nguy sợ: Trong trường công danh phú quý, người ta phần nhiều ai cũng chỉ mê lấy ăn rất ngon, ngủ rất sang, si tình với tửu sắc, ngày đêm mài miệt truy hoan, vì hoàn cảnh cá tánh bắt thế phải thế, còn đâu là giờ tỉnh để biết được cái chết sắp đến, nên nói “toàn vong nguy cự”! Tức chỗ gọi “túy sanh mộng tử”!
30. Hai con chuột: Hoặc tỷ là ngày đêm, hoặc ví là nhật nguyệt. Ngài Tân-đầu-lô Đột-la-xà, vì vua Ưu-đà-diên mà nói pháp. Kinh (phi kinh đại tập vì chẳng có điển này) ấy chép rằng: Ngày xưa có người đi ngoài đồng hoang, gặp con ác tượng lớn, bị nó rượt chạy, hoảng kinh quá sợ! Thấy có giếng loạn, liền níu rễ cây thòng xuống giếng trốn. Có hắc thử, bạch thử, đều cắn rễ cây. Bốn bên hông giếng, có bốn rắn độc, muốn cắn người ấy. Dưới đáy giếng có con độc long lớn! Với bốn bên sợ bốn rắn, dưới sợ độc long, rễ cây bị níu lay động, làm cho ổ ong trên cây bị rung, rớt năm nhỏ mật vào miệng, bầy ong bay tứ tán, có dã hỏa cháy đến, đốt luôn cây rễ. Đồng hoang dụ tam giới sanh tử; người ấy tỷ chúng phàm phu; đại ác tượng ví vô thường; giếng loạn ám chỉ thân ngũ uẩn; rễ cây tượng trưng nhân mạng; hắc, bạch thử dụ trú dạ; cắn rễ cây tỷ mỗi niệm diệt luôn; bốn độc xà ví tứ đại; mật rơi miệng ám chỉ ngũ dục lạc; bầy ong là dụ ác giác quan; dã hỏa là chỉ cho cái già nua; con độc long là chỉ cho cái chết. Năm, tháng, ngày giờ rất chóng, người xưa đã có bốn câu dưới đây:
Ác vàng, thỏ bạc xâm xâm;
Bóng quang âm thoạt trăm năm mấy hồi!
Ngày nay thôi đã qua rồi!
Mạng căn, huyết mạch lần hồi khô khao!
Ngày tháng mỗi kém mòn qua, ngày tháng như thoi người đã già; tóc râu tợ nước thấy phi trẻ. Kinh Lăng Nghiêm chép chuyện vua Ba-tư-nặc trông thấy sông Hằng… Bạch phát tỷ bạch thủy; da nhăn tỷ những gợn sóng nhăn đùa trên mặt nước. Tức như kê bì, hạc phát. Thời gian của thân mạng con người tỷ như “thệ thủy hướng đông lưu”.
31. Cái tưởng điên đảo: Xem bài chú thích về câu “Ái làm giống, tưởng nên thai” ở số 20.
32. Không thân trung ấm: Người mà làm thập thiện được bực cực phẩm, nghĩa là làm lành nhiều tột bực thì, xả thân tiền ấm rồi, thần thức siêu ngay lên cõi lành, để thụ sanh, chứ chẳng thụ thân trung ấm. Người mà tạo một ác cực điểm, sau khi xả thân tiền ấm, lập tức đọa ngay xuống ngục Vô Gián ??? hỏa sanh ra cái thân chúng sanh dưới ấy chịu tội, nên cũng chẳng có thân trung ấm.
33. Sú lại: Phản bộ, là sú mồi lại. Phản bộ: báo thân cha mẹ. Sách Bản Thảo chép rằng “Từ ô, tức hiếu điểu (con quạ), nghĩa là, khi mới sanh thì, cha mẹ nó kiếm mồi về sú cho nó; lúc cha mẹ nó già, tự thân nó đi kiếm mồi về sú lại cho cha mẹ nó, nên kêu là hiếu điểu”. Lời thành ngữ “Dưỡng nhi đãi lão – “Bé cậy cha, già cậy con”.
34. Phụ mẫu là thiên địa: Kinh nói “Đức của nghiêm phụ sánh trời cao, ơn của từ mẫu ví đất dày”. Sách nói “Dục báo chi ân hạo thiên võng cực”.
35. Kinh Thi: Bộ Kinh Thi, thể Tiểu Nhã, thiên Lục Nga nói “Phụ hề sanh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu sanh ngã cù lao, dục báo chi ân, hạo thiên võng cực”.
36. Trời cao chẳng tột: Hạo thiên võng cực, nghĩa là ơn của cha mẹ rất lớn, như trời cao không cùng tột. Hạo thiên là nói nguơn khí rộng lớn.
37. Bốn việc cúng dâng: 1-Ẩm thực, 2-Y phục, 3-Ngọa cụ, 4-Y dược.
38. Túng phụ. Túng: Đồng tông, là hàng thứ với chí thân kia là túng, nghĩa là anh em ruột, gọi là “chí thân”; anh em con nhà chú bác ruột cách mới một thứ, gọi là “tái túng”, cách đã hai thứ, gọi là “tam túng”. Tức như túng huynh đệ, túng bá thúc… (chỉ tùng, ở đây phải đọc túng). Túng phụ tức là bá phụ, thúc phụ, là bác ruột, chú ruột.
39. Túng tổ: Túng tổ con đệ, đồng tằng tổ huynh đệ. Theo điển dẫn lời của ông Mã Dung nói rằng “Tằng tổ tôn, với bổn thân (mình) là tổ túng huynh đệ, thì đồng một tằng tổ mà ra, nên nói là túng tổ huynh đệ tục xưng là túng đường huynh đệ”.
40. Tằng tổ: Ông nội của cha, mình gọi là tằng tổ, sách Nhĩ Nhã gọi tắt là tằng tổ vương phụ. Tục rằng cha xưng hô bằng ông nội, mình xưng hô bằng ông cố.
41. Sắc mặt của cha mẹ: Kính nuôi sao cho cha mẹ đừng buồn. “Như Thục thủy thừa hoan, vấn an thị thiện, hòa nhan duyệt sắc, tất hạ…” nghĩa là, đậu nước vâng vui, hỏi an hầu bữa, vui mặt đẹp mày, dưới gối không trái. Thục là tên chung các thứ đậu. Kinh Lễ nói: Ăn đậu, uống nước lã mà hết sức là vui!”. Người nay nói “Kính nuôi cha mẹ, là thục thủy thừa hoan”. Tất hạ: Sách Hiếu Kinh nói “Nên ở dưới gối thân sanh (phụ mẫu) để nuôi cha mẹ”. Đường thư Cao Tôn Kỷ nói “Nguyện được ở dưới gối đấng Chí Tôn để phượng thờ”. Đời sau, đối với cha mẹ, kẻ làm con xưng là tất hạ.
42. Sợ bốn oán thù: Tức tứ oán. 1-Phiền não ma, 2-Sanh tử ma, 3-Ngũ ấm ma, 4-Thiên tử ma, tức Thiên ma Ba Tuần. Hành Sự Sao quyển thượng nói “Chân thành xuất gia giả, bố tứ oán chi đa khổ”. Đồng Tư truyện ký nói “tứ oán tức tứ ma”.
43. Giống họ Tam Bảo: Kính đức Thế Tôn làm cha, vì cha là Tứ sanh từ phụ; lấy kinh pháp làm mẹ, vì niệm pháp là tam thế Phật mẫu; bạn đồng học là anh em, vì là pháp huynh pháp đệ; người đồng chung giới (đồng cụ túc hay sa di) là bằng hữu, vì là xứ xứ đồng vi pháp lữ; vẫn đồng làm tử đệ của Như Lai, thường làm dòng họ với Phật Thánh. Chính chỗ bảo xuất gia là phụ mẫu, dữ Phật tổ nhi tôn. Đó là về phái xuất gia; còn phái tại gia thì Bát nhã vi thê, Bồ-đề vi tử, phương tiện vi phụ, Ba-la-mật vi mẫu. Nên có nói “Sanh sanh dữ Phật vi quyến thuộc, thế thế Bồ-đề kết thiện duyên”.
44. Vô Vi. Vi: Tạo tác, vô nhân duyên tạo tác, nói là vô vi. Lại, không sự tạo tác của bốn tướng sanh, trú, dị và diệt, nên nói là vô vi, tức tên khác của chân lý. Vô vi có ba món, sáu món… Vô vi xá là nhà vô vi, tức Niết-bàn, vì Niết-bàn là an trạch của người, nên nói là xá. Kinh Thiên Thủ nói “Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm, nguyện ngã tốc hội vô vi xá”. Lại, không làm mười điều ác là, những cái nhân đọa xuống súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục; không làm mười việc thiện hữu lậu là, những cái nhân phải luân hồi làm thân a-tu-la, nhân loại và các trời trong tam giới; nên gọi là vô vi; mà chỉ xây dựng đào tạo những chánh nhân vô trước, vô lậu, vô phân biệt, vô ngã, vô nhân, vô chúng sanh, vô thọ giả, để đồng nhau chứng quả Vô thượng Bồ-đề, nên nói là nhà vô vi. Đó là vô vi của nhà Phật, còn vô vi của nhà Nho thì là năng lấy để dạy nhân dân, không dùng đến chánh sách hình phạt. Như sách Luận ngữ nói “Vô vi nhi trị giả, kỳ duy Thuấn dã dư”.
45. Có mười hai pháp: 1-Áo nạp: lại kêu phấn tảo y, lấy những đồ mà chúng nhân đem bỏ nơi đống phân rác rến, giặt rồi chắp may thành áo bận. 2-Tam y: lại nói chỉ ba y chỉ bận y Tăng-già-lê, Uất-đa-la, An-đà-hội, ngoài ra, chẳng dùng gì dư nữa. 3-Khất thực: lại nói thường khất thực chính mình tự đi khất thực mà dùng, chớ chẳng dám thụ lãnh cơm của người mời đãi và cơm giữa chúng tăng. 4-Chẳng làm vật ăn dư: chỉ làm một lần chính thực vào giữa và trước giờ ngọ, chớ chẳng đặng làm vật chính thực từ hai lần nhẫn lên, vì món chính thực từ hai lần nhẫn lên, gọi là dư thực (làm món tiểu thực thì chẳng ở trong hạng nầy, bánh, trái, chè gọi là tiểu thực). 5-Nhứt tọa thực: lại nói nhứt thực làm một lần chính thực vào giữa và trưa giờ ngọ, ngoài ra, chẳng đặng lại làm tiểu thực nữa. 6-Ăn một vắt cơm: lại nói tiết lượng thực chỉ ăn một hoàn cơm trong bình bát mà thôi, chứ chẳng đặng thụ nhiều. Giả sử, ăn một vắt hay nhiều vắt thì, lấy làm có hại mà , phải dè ăn cho có chừng lượng. 7-A-lan-nhã xứ: dịch chỗ xa lìa, hoặc chỗ trống vắng ở chỗ trống vắng xa lìa nhà người. 8-Ngồi giữa gò mả: là trú ở nơi chỗ phần mộ. 9-Ngồi dưới cây: bên gốc dưới tàn cây che mát. 10-Ngồi chỗ đất trống: tức ngồi nơi chỗ đất lộ thiên giữa trời. 11-Tùy nơi chỗ ngồi chỗ đất nào có cỏ: tức là ngồi, bất tất dưới cây, ngoài trời. 12-Thường ngồi chẳng nằm: thường kiết-già mà ngồi, chứ chẳng đặng nằm.
46. Bổn thệ: Lời thệ nguyện xưa, tức là “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô lượng thệ nguyện học, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”
47. Món ăn tứ tà: (Tứ tà mạng) 1-Hạ khẩu thực: Trồng gieo ruộng vườn, nuôi tằm ươm kén, hòa hợp thuốc men, để tự nuôi sống. 2- Ngưởng khẩu thực: Xem sao, mặt trời, mặt trăng, mây sấm cả khí tượng thiên văn để sống. 3-Phương khẩu thực: Dua bợ nhà quyền hào thế lực, lảnh mạng đi sứ các nơi, xảo quyệt tham cầu để sống. 4-Duy khẩu thực: Bùa chú Lổ Ban, mách chuyện cát hung, để mà sanh hoạt.
48. Tăng kỳ vật. Tăng kỳ, dịch chúng, tức là Tỳ-kheo tăng, Tỳ-kheo ni, là bực đại chúng là vật của đại chúng chung có phần, nên gọi là tăng kỳ vật. Đại chúng đây, thể gồm thâu cả Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni ở nơi mười phương. Giả sử nhà thí chủ gởi phụ cúng các vật như ruộng vườn, phòng xá, gạo thóc…thì chia các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni nơi thập phương, đều có thể hưởng thụ đó thì, gọi là thập phương tăng vật, hay là tứ phương tăng vật. Danh Nghĩa Tập cuốn 7 nói “Tăng kỳ, thử vân “tứ phương tăng vật”. Đồ đạc vật mọn của năm chúng chết chia: đem tài vật của một người giữa năm chúng đã qua đời ra bố thí, tài vật ấy tuy khinh vi (mọn mà thể nó thông đồng thập phương tăng, nhưng thuộc ở nơi bổn xứ thì, hiện tiền tăng được chia, trong khi đương rõ chia tài vật của vong tăng, thập phương tăng đến trước lễ Yết-ma thì được lãnh phần, còn đến sau lễ Yết-ma thì chẳng đặng.
49. Hí luận: Những ngôn luận bằng cách phi lý và vô nghĩa, gọi là hí luận. Lại, với ngôn luận, bất luận có lý hay phi lý, đều quở là hí luận cả. Hí luận đây, nghĩa nó đồng với hoạt kê và nhũng đàm của thế tục thường nói. Đại Nhựt Kinh Sớ 19 nói “Như con hát hí kịch, lấy cái tâm tán loạn, mỗi mỗi điệu bộ thân múa, miệng ca, chỉ đẹp trước khán giả mà thôi, chứ chả có lý nghĩa gì. Đời nay, kẻ vọng kiến, đưa tác phẩm ra, cũng đồng như thế, nên gọi hí luận. Đại Thừa Huyền Luận 2 nói “Hí luận là danh từ mượn để thí tỷ, vì với đạo lý mà tâm chưa sở đắc gì hết, mà nghị luận nầy nọ, tỷ như tiểu nhi học nói giỡn chơi thế thôi. Kinh Pháp Hoa phẩm Tín Giải nói “Nay đức Thế Tôn khiến chúng con suy nghĩ dẹp bỏ những phấn uế của chư pháp hí luận”. Kinh Tối Thắng Vương quyển nhất nói “Cái tánh thực tế không có hí luận, chỉ có một mình đức Như Lai chứng pháp thực tế, dứt hẳn hí luận, gọi là Niết-bàn”.
50. Du ngôn: nghĩa như phù ngôn. Sách Kinh Lễ nói “Nên biết đại nhân, chẳng xướng lời phù (du) ngôn.” Du: lội trên mặt nước. Phù: nổi trên mặt nước. Lời nói mà vô căn cứ, thường có đổi thay, gọi là du, nghĩa là không có ý nhất định.
51. Đầy chén, ngập đầu: ý nói lổ mội nước mới bắt đầu chỉ bất quá chừng đầy một chén chung, mà rồi dần dần tràn lan, sâu nhẫy thành sông. Cũng như tội lỗi mới phát sanh chút đỉnh không ngăn dứt, để rồi đến sâu rộng, thành khổ hải mê xuyên. Thương: chung rượu. Lạm thương: đầy chén. Sách Gia Ngữ chép “Phù giang thỉ vu dân sơn, kỳ nguyên khả dĩ lạm thương” là ban đầu phát nguyên, chỉ đầy chừng một chung nhỏ. Ngày nay gọi phàm bắt đầu gầy dựng là lạm thương. Diệt đảnh: ngập đầu, tức trầm nịch. Kinh Dịch nói “Quá tiệp diệt đảnh” lội quá độ hụt giò ngập đầu.
52. Lửa khổ: các khổ phiền não nung đốt cả thân tâm của chúng sanh, mau khô héo điêu tàn, nên gọi là lửa khổ. Kinh Pháp Hoa phẩm Thí Dụ nói “Tam giới vô an, du như hỏa trạch, chúng khổ sung mãn, thậm khả bố úy, thường hữu sanh lão bịnh tử ưu bi khổ não, như thị đẳng hỏa xí nhiên bất tức”.
53. Đốt cháy tư bề: Lửa khổ não đốt cháy cả thân tứ đại. Kinh Pháp Hoa nói “Tứ diện câu phàn” tứ diện tức là tứ đại.
54. Bao điều ác giác quan: a-Tư tưởng hèn xấu, độc ác, tám thứ riêng biệt gọi là ác giác. Sách Đại Thừa Chương Nghĩa cuốn 5 sau rốt nói “Những suy nghĩ nhớ tưởng lòng tà bất chánh gọi là giác quan, trái nghịch chánh lý, nên xưng là ác, ác giác bất đồng nhau, chia rời có tám. Sách Chỉ Quán cuốn 5 nói “Tám gió ác giác, đều chẳng đặng vào”. Tám gió: bát phong, vì nó xao động nhân tâm, nên gọi là gió: 1-Lợi, 2-Suy, 3-Hủy, 4-Dự, 5-Xưng, 6-Uy, 7-Khổ, 8-Lạc. Nghĩa là đặng việc vừa ý, gọi là lợi; mất việc sự vừa ý gọi là suy; chẳng có mặt người, bài bác gọi là hủy; chẳng có mặt người, khen tặng gọi là dự; xưng: trước mặt khen tốt; cơ: bài bác trước mặt người; khổ: những tiếng nói ép ngặt khó chịu; lạc: thỏa thích lòng dạ. Rút ở sách Yếu Lãm. b-Giác quan: Tân dịch tầm từ. Cựu dịch: giác quan. Tư duy mà thô phù gọi là giác, tư duy mà tiêm tế gọi là quan. Hai ấy, đều làm phòng ngại cái định tâm. Nhơn đó, xét cái giác và quan có hay không, để chỉ phán cái định tâm sâu hay cạn. Trí Độ Luận 23 nói “Giác quan ấy, nó hay làm nhiễu loạn tam-muội, do thế, nên nói hai sự ấy, tầm từ là thiện mà là kẻ giặc của tam-muội, khó mà xả lìa”. Giác là cái tướng của thân tâm; quan là cái tướng của tế tâm. Giác và quan là cái nhân phát ra lời nói, lìa cái tâm giác quan thì không nói năng. Kinh Duy Ma phẩm Đệ Tử nói “Pháp không danh tự, vì dứt nói năng; pháp không có nói, vì lìa giác quan”. Tăng Triệu chú rằng “Giác quan là cái thô tâm, hai nó đều làm cái gốc cho lời lẽ nói năng”.
55. Thời kỳ cực dài: Một tiểu kiếp kể có mười sáu triệu năm (16.000.000 năm). Hai mươi tiểu kiếp làm một trung kiếp kể có ba trăm hai chục triệu năm (320.000.000 năm). Bốn trung kiếp làm một đại kiếp: cọng có một ngàn hai trăm tám chục triệu năm (1.280.000.000 năm). Nên nói là thời kỳ cực dài.
56. Mười hai can chi: Tức mười can và mười hai chi. Thập can là giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, quí. Thập nhị chi là tý, sửu, dần, mẹo, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi. Dùng nghĩa theo như cái súc, cái nhánh của cây. Tương truyền rằng ông Thiên Hoàng sáng lập ra. Thuở ông Hoàng Đế, có họ Đại Náo bắt đầu lấy thiên can phối với địa chi, để làm giáp tý. Đại loại như giáp tý, ất sửu, giáp tuất, ất hợi… tục gọi là lục thập hoa giáp tý, đại phàm, ghi niên, ngoạt, nhựt, thời đều dùng đấy, như lịch ----.
57. Tam quang: Là ba hiện tượng sáng soi xuống nhân gian. Sách Bạch Hổ Thông chép rằng “Trên vòm trời có tam quang là mặt trời, mặt trăng và các vì sao.
58. Bách nhứt sở tu: Lại nói bách nhứt cung thân, bách nhứt vật, bách nhứt chúng cụ. Nghĩa là, ngoài tam y, lục vật, tất cả những món đồ đạc để trợ việc hành đạo. Chữ bách là nói tổng quát số nhiều, chứ phi hạn cuộc vào số một trăm. Là nói đối với ngoài ba y, sáu vật, Tỳ-kheo với mỗi vật dụng, chỉ mỗi thứ chứa dùng một cái, nên nói: Bách nhứt cung thân, ngoài một cái ấy, nếu có cái thứ hai thì gọi là trưởng vật. Giả như: chỉ được sắm một cái bình uống nước, nếu có cái bình thứ hai nữa, là trưởng vật. Với trưởng vật ấy, nếu chẳng làm một phép “thuyết tịnh” thì chẳng được chứa để. Sống, Tỳ-kheo có ba phẩm căn tánh: 1-Thượng phẩm chỉ chứa dùng ba pháp y; 2-Trung phẩm lại được chứa bách nhứt; 3-Hạ phẩm lại được chứa trưởng vật.
Lục vật: 1-Tăng-già-lê từ chín điều đến hai mươi lăm điều, chung gọi là một đại điều y. 2-Uất-đa-la-tăng là nhất điều y gọi là trung y. 3-An-đà-hội là ngũ điều y, gọi là hạ y. Tức là cùng trên chung gọi “đại, trung, hạ” và là tam y. 4-Ni-sư-đàn tức tọa cụ. 5-Bát-đa-la, tức thiếc bát. 6-Lự-thủy-nan là đồ hộ vi trùng trong nước. Thế là tam y lục vật. Tam y ở trong lục vật, song, lại là căn bản trong sáu vật, nên được nêu riêng ra, tỷ như gọi thi, thư, lục kinh, vì kinh Thi, kinh Thư cũng ở trong ngũ kinh mà được gọi riêng là ngũ kinh lại còn riêng có Thi Thư nữa.
59. Trải lâu năm tuổi. Động kinh niên tể, tể: năm tuổi, làm chủ, cầm quyền. Đọc tế thì có bốn nghĩa đó. Đọc tái: vâng, như câu thiên phú địa tái; tái: bắt đầu; Tái: ghi chép việc; đọc tải: chở như vận tải.
60. Chỉ cần hai đầu. Lưỡng đầu tạc khai. Tạc: tản ra, buông ra, như nói hai tay buông ra. Hai đầu: Tâm cảnh, nhân ngã, bỉ thử, oán thân, thiện ác, phú bần, quí tiện… tâm ta đều buông bỏ tất cả, không phân biệt, trú trước vào bên nào, như nói“Trung gian, lưỡng ngạn bất cư” “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”.
61. Để tự tiêu tức: Để tự nghiệm xét coi, sự cần tu và ý thức của ta, khi thức, lúc nghỉ, đã được như thế nào mà, nhận xét tin tức giác hay mê, định hay loạn động? Tiêu tức: âm tín. Lại, việc người chỉ có cát hung, thiện ác, nên gọi thư tín là tiêu tức.
62. Cầm lửa quay tròn. Triền hỏa luân: đêm tối, cầm lửa quay tít làm thành hình vòng tròn, với cái vòng tròn ấy tợ hồ có mà phi thực, để tỷ dụ hiện tượng giả dối của tất cả sự pháp. Kinh Lăng Nghiêm cuốn 3 chép “Sanh tử tử sanh, sanh sanh tử tử, như vòng tròn quay lửa, chưa có thôi nghỉ”. Sách Chỉ Quán cuốn 6 nói “Vì bị cái ngã kiến đó mà, tạo ra các kiết nghiệp (kiết sử), sa xuống tam đồ, trầm luân không thôi, như vòng quay lửa, nếu muốn thôi dứt, cần phải dừng tay”. Trí Độ Luận cuốn 6 nói “Như vòng quay lửa, chỉ lầm mắt người”.
63. Tin chết: Đầu bạc, răng long, mắt lờ, tai điếc, đó là những cái tin chết đưa đến trước cho biết vậy! Hoặc trong bà con chòm xóm, những người nhỏ tuổi hơn ta mà họ đã chết trước ta, đó là cũng tin chết cho biết trước vậy!
64. Đứa nhụ phu. Nhụ: tài năng thấp yếu. Nhụ phu: đứa yếu kém là lời tự khiêm, kẻ nam tử không có khí tiết. Sách Mạnh Tử nói “Nhụ phu hữu lập chí”.
65. Bạc địa phàm phu. Bạc: ép bức, là bị áp đè ở sát nơi mặt đất, tức là địa vị bị các khổ bức bách, chính cái cảnh giới của chúng phàm phu. Tịnh Tâm Giới Quán cuốn hạ nói “Chúng phàm phu ở nơi bạc địa cái thân hôi hèn xấu, quả báo thấp lút”. Trong Phát Chân sao chép lời của Văn Tuyển chú thích rằng “Bạc: bức, là ở sát mặt đất mà thôi,đấy là chỉ cả nhân loại ở nơi tứ bộ châu”. Giới Độ Ký cuốn hạ nói “Bạc, âm Bác”. Đại Bộ Bổ Chú cuốn 11 nói “Bác địa rộng rãi, mênh mông, và nhiều, vì đất hạ phàm rộng nhiều”. Căn cứ thuyết trên thì, chữ Bạc là mượn thay cho chữ Bác đấy. Lục phàm phu: Thiên đạo, nhân đạo, a-tu-la đạo, súc sanh, ngạ quỷ và địa ngục đạo, gọi là lục phàm: sáu chúng phàm phu.
66. Phật trí hiểu suốt ba thế gian, thể tánh nó bất sanh bất diệt, gọi là “thường”; còn cái tướng nó có sanh, có trụ, có dị, có diệt, gọi là “vô thường”. Ba thế gian: 1-Chúng sanh thế gian, là thuộc về chúng hữu tình, vì có cái tình thức, hữu tri giác, thực hiện bằng bốn cách sanh noãn, thai, thấp, hóa, đó là số chúng sanh. 2-Tứ thánh là Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và Phật, tức là trí giác thế gian. 3-Thế giới, núi sông, đất liền, cây cỏ, vàng, thiếc, sạn, đá là khí thế gian tức vô tình loại. Lại, phi chúng sanh số là trong địa ngục, dạ-xoa, la-sát, hổ lang, sư tử… đều là ác nghiệp của phi nhân biến hiện bằng cách huyễn hóa; còn những tượng mã, thú vật của các vị Hiền Thánh cỡi đó, đều là do phước nghiệp biến hiện bằng cách ảo hóa, nên nói là phi chúng sanh số.
67. Vô duyên từ: Đọc đủ là “vô duyên từ bi”, duy chỉ chư Phật mới có đủ từ bi đây. Số là, tâm của chư Phật, chẳng trụ trong tánh hữu vi, vô vi, chẳng trụ vào đời quá khứ, tam muội vị lai. Vì biết các duyên đều chẳng thực có, bởi điên đảo hư vọng, nên tâm của chư Phật chẳng duyên (trụ) vào chỗ nào cả, nhưng, Phật thấy chúng sanh chẳng biết thực tướng của các pháp, nên qua lại năm ngả (đạo), tâm chấp trước vào các pháp, vì thủ xả và phân biệt… mà chư Phật tâm không phan duyên (trụ trước, phân biệt) vào chúng sanh, mới giải thoát được chúng sanh, là khiến cho chúng sanh tự nhiên được cái lợi ích bạt khổ dữ lạc. Nên nói “vận vô duyên (trụ) từ, tức vô duyên từ bi tâm”.
68. Khinh, trọng, khai, giá, trì, phạm: Khinh giới, trọng giới, giả như, Sa-di giới bốn giới căn bản trước là trọng, sáu giới sau là khinh. Lại, giới sát sanh dù trọng, mà tùy theo trường hợp cũng có khinh, như cố ý sát là trọng, còn ngộ sát (giết lầm, hay rủi ro lỡ tay) là phạm khinh tội. Lại, với cố sát mà giết người có đạo đức, ảnh hưởng nhiều với xã hội, là phạm trọng tội; giết kẻ vô dụng với đời, là phạm khinh tội… Khai: mở ra cho làm. Giá: ngăn cấm không cho làm. Trì: hành trì, giữ giới. Phạm: phạm giới cấm.
69. Kiết-la: Đọc đủ là Đột-kiết-la, nghĩa là cái danh phạm tội. Giới Sớ cuốn nhất nói “Ố tác ố thuyết, đồng hiệu kiết-la”.
70. Thập sử: Chia ra năm lợi, năm độn. Lợi: do mê mất cái lý tánh của Tứ đế mà sanh khởi ra năm lợi sử, vì nó bén sướt, lanh lợi giữa tánh mê hoặc, nên gọi nó là lợi (bén). Năm lợi sử như dưới: 1-Thân kiến: Tức ngã kiến và ngã sở, nghĩa là, chẳng biết cái thân ta đây là giả tạm bởi năm uẩn hòa hợp mà, lại cố chấp là thực tế có ngã thân, đó là cái bệnh ngã kiến; lại chẳng biết các vật chất ở chung quanh nơi bên thân ta đều là không nhứt định sở hữu chủ mà, cũng chấp kể là thực có vật sở hữu của ta, đó là cái bệnh ngã sở kiến. 2-Biên kiến: Sự thấy thiên về một bên, là sau khi đã chấp có ngã thân sanh khởi ngã kiến rồi thì, với cái “ngã” hoặc kể rằng sau khi chết rồi đoạn diệt hẳn, không còn có chi cả; hoặc kể rằng sau khi chết rồi hồn vẫn thường còn mãi chẳng hề dứt mất; đó là cái mê vọng ở bên sau nơi thân kiến. Tức là cái bệnh chấp đoạn (đoạn kiến) và cái bệnh chấp thường (thường kiến). 3-Tà kiến: Cái kiến thức bất chánh, vì bác bỏ đi cho là không có cái lý nhân quả. Nghĩa là, chấp rằng trong đời không có cái nguyên nhân nào có kết quả, cũng không có cái kết quả nào do nguyên nhân để sanh, với điều ác chẳng đủ sợ, với điều thiện chả đủ ham, như thế là cái bệnh mậu kiến, vì đã tà mà lại còn tà hơn nữa. 4-Kiến thủ kiến: Lấy cái tri kiến hạ liệt làm đầu, chấp lấy mỗi mỗi sự hạ liệt khác, nghĩ cho đấy là tối thắng. Chữ kiến trên, tuy chỉ về các cái thân kiến biên kiến, song nó còn hàm súc mỗi mỗi sự vật khác nữa. 5-Giới cấm thủ kiến: Do cái kiến thủ kiến trên, mới nhận lấy điều giới cấm phi đạo lý, phi quá thất làm đầu trước, rồi nhận lấy mỗi mỗi phép tu hành khác, để làm cái nhân được sanh lên thiên đình, hoặc đắc đạo quả Niết-bàn. Trong đây có hai cách tu: 1-Giữ ngưu giới (ăn ở cách như trâu, bò), kê giới (hành động như gà) để làm cái nhân sanh lên trời, đó là với cái giới cấm thủ kiến phi nhân mà chấp lấy làm nhân. 2-Tu đạo Đồ-thán, Ni-kiền-tử… tuyệt thực, ở lõa thể, nằm trên đống gai, gieo mình vào lửa, mỗi mỗi cách khổ hạnh, để làm cái đắc đạo Niết-bàn, đó là cái giới cấm thủ kiến phi đạo mà chấp rằng đạo. Năm cái kiến thức trên đó, là do nơi một phần của ác trí huệ, nên gọi lợi-sử. Năm độn sử là tham, sân, si, mạn, nghi, bốn sử trước, đều là do nơi mê chấp lấy các sự vật giữa thế gian mà sanh tâm khởi vọng hoặc; cái sử sau là Nghi, là đối với lý tứ đế, không hiểu mà khởi ra cái hoặc vọng này, Nghi lấy do dự chẳng quyết là cái tánh của nghi mà tánh nó đều trì độn, nên gọi là độn sử.
71. Tam Kiết: 1-Thân kiến kiết là cái ngã kiến, vì với trong sắc uẩn, mê vọng chấp kể có thân, cưỡng lập làm có ngã chủ tể. 2-Giới thủ kiết là hành tà giới, tức trong phi giới mà lầm lấy làm giới, chấp lấy để tiến tu… 3-Nghi kiết là với chánh lý hồ nghi, chẳng tin tứ đế Tam Bảo, lòng do dự không quyết được. Đoạn được ba kiết này là quả Dự-lưu.
72. Đẳng phần hành: Tức thân kiến, giới thủ, nghi kiết, mạn kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến. Hành: hành động, như tham hành, sân hành, si hành, thân kiến hành, giới thủ hành… mấy cái ấy cũng đồng phần hành động như nhau, nên nói đẳng phần hành. Lại đối trị tham, sân, si và đẳng phần cũng như trên là tham hành, sân hành, si hành, thân kiến hành, giới thủ hành… Bốn món phiền não cũng kêu là trí hoặc, Thành Duy Thức Luận quyển 4 nói “Cái thức thứ bảy là Mạt-na, nó thường hằng tương nhau với bốn món căn bản phiền não. 1-Ngã si, tức là cái vô minh, nó ngu muội nơi cái tướng ngã mà quên mất cái lý vô ngã. 2-Ngã kiến, tức là ngã chấp với cái pháp phi ngã mà mê vọng kể là ngã. 3-Ngã mạn tức là kiêu ngạo giữ lấy cái ngã sở chấp, khiến tâm đề cao lên.4-Ngã ái tức là ngã tham với cái ngã sở chấp, sanh tâm chấp trước quá sân”.
73. Tam minh, Lục thông.
Tam minh: Ở nơi Phật gọi là tam đạt, ở nơi A-la-hán gọi là tam minh; cái trí mà biết rõ rành các pháp, nên gọi là Minh. Lại gọi trí minh, lại gọi trí chứng minh, chứng cái cảnh của trí một cách rõ ràng phân minh. 1-Túc mạng minh: biết được cái tướng sanh tử từ các đời trước của thân ta và thân người. 2-Thiên nhãn minh: thấy được cái tướng sanh tử nơi đời vị lai của thân ta và thân người. 3-Lậu tận minh: biết được cái khổ thân của đời hiện tại, dứt hết tất cả phiền não. Lậu là phiền não. Song, tam minh ấy, tức ba thông là túc mạng, thiên nhãn và lậu tận trong lục thông.
Lục thông: Thần thông của các Thánh trong tam thừa sở đắc có sáu món, là 1- Thiên nhãn thông, 2- Thiên nhĩ thông, 3-Tha tâm thông, 4-Túc mạng thông, 5-Thần túc thông, 6- Lậu tận thông. – Tác dụng tự tại vô ngại, gọi là thông. Đều là chỗ sở đắc của Phật, Bồ-tát, ngoại đạo, chư thiên, tiên nhân và quỉ thần – Có ba thứ riêng biệt: 1-Báo đắc thông lực, như các trời trong ba giới, đều có năm món thần thông, nhẫn đến quỉ thần cũng có một vài tiểu thông; vì các thông ấy đều y nơi quả báo mà tự nhiên cảm được. 2-Tu đắc thông lực: các Thánh tam thừa, tu tam học mà đắc lục thông; ngoại đạo tiên nhân tu thiền định mà hiện được ngũ thông. 3-Biến hóa thông lực: các Thánh tam thừa, dùng sức thần thông mà biến hiện ra mỗi mỗi phép lạ. 1-Thần cảnh trí chứng thông: Cũng gọi thân như ý thông, thân thông, thần túc thông tức là cái thông lực biến hiện ra cảnh giới bất khả tư nghị thì, gọi là thân cảnh thông; cái thông lực qua lại dạo chơi tự tại thì gọi là thần túc thông; cái thông lực mà tự thân được biến hiện tự tại, nên gọi là thân như ý thông; thế là đều đến một kêu mệnh danh. Trong đó cái danh thần cảnh thông, rất là phổ thông thường gọi.
2-Thiên nhãn trí chứng thông: Được cái con mắt của trời Sắc giới, chiếu lâu mà không ngại, gọi là thiên nhãn trí chứng thông. 3-Thiên nhĩ trí chứng thông: Đắc cái thính giác trời Sắc giới, nghe rõ vô ngại. 4-Tha tâm trí chứng thông: Biết được cái tâm niệm của người khác mà không chi ngăn ngại. 5-Túc mạng trí chứng thông: Biết được sự sanh nhai các đời trước của mình và chúng sanh cả lục đạo mà không chi chướng ngại. Năm thông trên, là hoặc tu thiền định hữu lậu, hoặc y nơi sức thuốc, sức thần chú mà chứng đắc, nên các tiên nhân, ngoại đạo đều cũng có thể chứng được; năm ấy đều tên là trí chứng thông, là do vì đều y nơi trí mà chứng được thông lực. 6-Lậu tận trí chứng thông: Phép tột bực của các Thánh tam thừa, vì các lậu (tất cả phiền não) đã đoạn sạch hết, không chi làm chướng ngại; thành tựu được cái thông thứ sáu đây là, chỉ hạn riêng về các thánh tam thừa, chứ các vị trí tiên nhân, ngoại đạo thần quỷ đều không có, bởi không có nên còn phải luân hồi. Trí Độ Luận cuốn 2 “Hỏi: Thông với Minh có khác nhau những gì? Đáp: Chỉ biết ngay được việc túc mạng từ đời quá khứ thì gọi là thông; biết được những nhân duyên, hành nghiệp đời quá khứ thì gọi là minh; chỉ biết ngay được tử nơi đây, sanh nơi kia là thông; biết hành nghiệp nhân duyên phải gặp gỡ nhau, ảnh hưởng chẳng mất, là minh; chỉ mới dứt hết tam kiết, thập sử, chẳng biết còn phải sanh lại hay chẳng sanh, là Thông; nếu biết những hoặc lậu hết, chẳng còn sanh trở lại nơi tam giới nữa, là Minh.” Bà-sa Luận 77 “Hỏi: Với lục thông, ba cái kia sao chẳng gọi là Minh? Đáp: Thân như ý (thần cảnh thông) nó chỉ hay về công xảo; thiên nhĩ thông nó chỉ hay về nghe tiếng; tha tâm thông nó chỉ biết được tâm niệm của người khác. Nên ba ấy chẳng lập làm minh; còn ba cái kia, sở dĩ là minh ấy, là thiên nhãn thông nó gồm thấy biết được cái khổ của vị lai; túc mạng thông nó gồm thấy biết được cái khổ của quá khứ; đều hay chán lìa sanh tử. Lậu tận thông nó kiêm hay làm chánh quán mà dứt sạch hết các phiền não.”
Tam minh lục thông là A-la-hán đầy đủ tài đức ấy. Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói “Nghe những âm thanh, khen pháp tứ đế, tức thời đắc A-la-hán đạo đầy đủ tam minh, lục thông và bát giải thoát”.
74. Huyền đạo: Là cái đạo huyền diệu, tức thông thường gọi đạo Phật là đạo huyền diệu.
75. Tuế hoa: Nghĩa như tuế thời. Sách Cựu Đường, truyện Trương Duyệt nói “Tích thị xuân tụng, trù mù tuế hoa” (xưa hầu xuân tụng, triền miên năm mùa).
76. Chân phong: Cái thói giáo hóa chân thực. Phong ở đây có ba nghĩa: 1-Giáo hóa, kinh Thư nói “Hàm ngưỡng trẫm đức, thời nãi phong: đều ngửa trông đức của ta, theo thời giáo hóa”. 2-Tục thượng: đời chuộng, kinh Lễ nói “di phong dịch tục”. 3-Cảnh tượng, như nói “phong quang, phong cảnh”.
77. Chỉ nam: Dụ, là nói chỉ dẫn định theo hướng, khiến kẻ hậu học chẳng đến nỗi quên lầm. Chỉ nam xa: chiếc xe có cây kim cứ chỉ ngay về hướng nam. Hoàng đế cùng đánh nhau với Xuy Vưu tại nơi cánh đồng trạc lộc, Xuy Vưu làm trận mù lớn tối cả trời đất, tướng sĩ đều chẳng biết đâu là phương hướng, Hoàng đế chế tạo ra chiếc xa chỉ nam, để chỉ phương hướng. Lại, thuở nhà Châu, họ Việt Thường Thị (tức nay là Chàm hay Chiêm Thành ở tại Phan Rang Phan Thiết Trung Việt) qua cống con Bạch Trĩ, chừng về sứ giả quên đường, Châu Công làm chỉ nam xa cho về nước (nước của họ Việt Thường xưa, tức là toàn cõi Trung Việt của Việt Nam ngày nay).
78. Trí Vô Sư: Là cái Phật trí không do thầy dạy trao mà chỉ một mình mình giác ngộ ra, kinh Pháp Hoa phẩm Thí Dụ nói “Nhứt thế trí, Phật trí, tự nhiên trí, vô sư trí”. Gia Tường Sớ cuốn 6 nói “Vô sư trí ấy, là ba trí trước đều chẳng do nơi thầy mà đặng, nên nói là vô sư trí”. Kinh Đại Nhật cuốn nhứt lời sớ nói “Như thế, với cái cảnh tự chứng, kẻ nói không lời, người xem không thấy, cái mà không lời, không thấy đó, nó chẳng đồng như quả am-ma-lặc trong tay có thể chuyển trao cho người khác được; nếu có thể lấy lời nói trao cho người thì, khi mà Thích-ca Bồ-tát nhờ Phật Định Quang trao quyết, liền được thành Phật mới phải. Cớ sao còn đợi tu đủ phương tiện, đến chừng do vô sư tự giác ngộ, mới gọi là thành Phật ư?” Trí: với sự, lý đều quyết đoán được cả. Đại Thừa Nghĩa Chương cuốn 9 nói “Cái tâm huệ an pháp, gọi là nhẫn, với cảnh quyết đoán, nói là trí”. Duy Thức Thuật Ký cuốn 9 nói “Vì nhẫn là nói cái trí để quyết đoán”.
79. Đạo Thiên Chân: Là cái đạo lý thiên nhiên mới là chân thật, cái chân lý thiên nhiên, phi người tạo tác ra. Sách Chỉ Quán cuốn nhứt nói “Cửa pháp trong mầu, là thiên chân độc lãng”. Phụ Hạnh nói “Lý phi tạo tác, nên gọi thiên chân, chứng trí viên minh, nên nói độc lãng”. Thiên chân tức pháp thiên.
80. Can qua: Can, tức cái thuẫn là cái khiên, làm bằng da, xưa, khi ra trận, dùng mang để che đỡ mũi tên bên địch bắn, phóng qua. Qua: mũi nhọn mà có một chi chỉa ngang ra gọi qua, còn hai chi đều chỉa ngang, gọi là cái kích, đều là đồ binh khí xưa. Can qua là tên chung của vũ khí. Can qua là gọi chiến tranh. Như nói “Nhựt tầm can qua”. Nghĩa là, thuộc về người phản bạn thì nói đảo qua tương hướng. Còn đồng nhơn mà tự tranh đấu nhau thì nó đồng nhất thao qua. Người học Phật mà phân môn biệt phái với nhau, học đâu chấp đó, lấy kinh luận tranh đấu công kích, nên nói là lấy kinh luận làm can qua.
81. Hàm thỉ: Hàm, vỏ áo để giắt gươm hay giắt tên. Hàm nhân: thợ thuộc da làm vỏ áo giắt gươm tên đem bán, chưa mấy ác nghiệt. Thỉ: mũi nói tên hoặc mũi lao. Thỉ nhân: thợ chuốt vót tạo mũi tên đem bán. Sách Mạnh Tử nói “Thỉ nhân duy khủng bất thương nhân: người làm mũi tên chỉn e chẳng hại người” thì cũng chưa mấy là ác. - Người mà mua hai món ấy, để làm điều sát hại, mới là đại ác! - Cũng như các nhà trứ tác xưa, chưa chi là thực ác; chỉ có các người hậu học chấp lấy các tác phẩm của tác giả, rồi phân biệt, chấp nhứt công kích lẫn nhau, mới là thực ác! Nên nói tình ở nơi hàm thỉ mà đổi dời. Hàm thỉ là áo giắt mũi tên.
82. Chuẩn đích. Chuẩn: bình, cái ni, cái cỡ, cái ống thủy dùng để lấy mực bình, tục gọi là cái thủy bình chuẩn. Đích: chắc, cái phiêu chuẩn để nhắm bắn, mục đích. Nên nói “Người tham thiền phải lấy kinh luận làm chuẩn đích”.
83. Xem kinh xưa rộn trong lòng: Tổ Dược Sơn xem kinh Niết Bàn. Có một nhà Tăng thấy hỏi: - Thường thường Hòa thượng không cho học giả coi kinh, nay sao Hòa thượng lại tự coi? Đáp: - Chỉ vì để che con mắt. Hỏi: - Học giả này xem có được không? Đáp: - Ông nếu xem, dù da trâu cũng lủng, huống là giấy!
Đấy, chỗ gọi là “vị miễn tâm náo”! Cổ nhân nói kệ:
Bộ trụ đăng lung xí nhiên thuyết,
Mạc học lư niên chỉ thượng toàn.
Khán kinh tu cụ khán kinh nhãn,
Đa kiến khán kinh kị nhãn man!
84. Gương xưa chiếu tinh: Thuở nhà Tùy, ông Vương Độ, có đặng một mặt bửu kính. Khi ông được thuyên chuyển đi nhậm Huyện lịnh, ghé trọ nơi lữ quán, thấy trong nhà hàng này có một thiếu phụ rất kiều diễm, hỏi chủ quán: - Nàng ấy phải chăng là con dâu gì của chủ nhân?. Đáp rằng: - Trước kia, có một hành khách dắt nàng đến, xin tạm gởi, rằng vài ngày sẽ lại làm lễ cưới, nhưng đã vài tháng rồi chả thấy người trở lại. Quan huyện nghi là phi nhân, liền lấy bửu kính ra. Nhanh như chớp, thiếu phụ liền thấy, rất sợ hãi! Xin thú thực rằng: -Tôi là Lão hồ tinh, bấy nay đánh lừa đã nhiều người mà, chừ phải chịu chết nơi tay Quan huyện, vì Ngài có cái gương báu, xin Ngài cất bửu kính đi. Vương Độ nói: - Cất gương, đặng ngươi trốn sao? Hồ tinh nói: - Bửu kính là thần vật soi sáng thì, còn chỗ nào ẩn hình được! Thôi trăm lạy quan lớn, làm ơn cho tôi no say một tiệc rồi chết. Vương Độ bảo chủ nhân cho nó một mâm rượu thịt, nó ăn uống rồi nằm ngủ, coi lại thì chỉ thấy nó lộ nguyên hình là con chồn cáo cái già…
85. Cổ giáo chiếu tâm: Như nói đem ngọc minh châu để xuống chỗ nước đục thì, nước đục chẳng đặng chẳng trong; pháp niệm Phật ấn vào nơi loạn tâm thì, loạn tâm không đặng không Phật. Nên nói “Cổ giáo chiếu tâm kỳ tâm tự minh”.
86. Thượng trung hạ tọa: Tỳ Ni Mẫu nói “Thụ giới Cụ túc rồi, từ chưa có tuổi hạ (chưa kiết hạ an cư) đến 9 hạ an cư, là bậc Hạ tọa; 10 hạ đến 19 hạ, là bậc Trung tọa; 20 hạ đến 49 hạ, gọi là bậc Thượng tọa. 50 hạ nhẫn lên, là bậc Kỳ túc Trưởng lão, đối với bậc này, tất cả sa-môn, các quốc vương, đều phải tôn kính.
87. Ngày tiết hội: Phong tục của nước Ấn Độ, cứ hai tháng làm một tiết, một năm kể có sáu tiết hội, với ngày tiết hội, tập họp tổ chức một cuộc tiệc hí lạc…
88. Đông miệng nát vàng: Là câu chữ “chúng khẩu thước kim” của sách Quốc Ngữ. Thước: lấy lửa thét (đốt nướng) vàng cho tiêu tan ra, phàm những tiêu tổn là nghĩa chữ thước. Đông miệng nát vàng: ý nói dụm miệng nói ồn ào, làm cho người ta động niệm thì, mình phải bị tiêu tổn phước đức rồi!
89. Thoại đầu: Đầu câu chuyện; đầu câu chuyện tức là cái tâm, vì tâm nó không hình tướng ngữ ngôn, mà hình dung lời nói, đều do tâm niệm phát sanh, nên thoại đầu là cái tâm. Đọc đủ là thoại đầu công án là cái công án về thoại đầu chi. Thoại đầu là một câu vô nghĩa, vì do nhà thầy trao cho học giả nghiên cứu. Như khô mộc lý long ngâm…; Nam-mô A-di-đà Phật, cũng là niệm Phật thoại đầu. Công án: Bên nhà Thiền đối với cái cơ duyên của Phật Tổ sở hóa, mà đề khởi ra lời nói vượt hẳn ra ngoài cách thức, để chỉ thị cho động tác. Người đời sau gọi đó là công án. Công án tức là nhân duyên. Công án là án độc của công phủ, tức là luật lịnh, vì rất nghiêm mà chẳng thể phạm, khá dùng làm phép tắc, khá dùng đoán điều thị điều phi. Từ trước Phật Tổ để lời chỉ thị, là chính lịnh của tông môn, để phán quyết điều mê điều ngộ, nên giống với công án kia, thành thử người ta kêu là công án, bảo là một ngàn bảy trăm phép công án. Thực thế.
90. Cát đằng. Cát: Dây cỏ Cát, Đằng: dây mây, hai thứ dây cỏ này, đều là thực vật mà, sanh trưởng cả lùm bụi, tàn lan. Lại, cát đằng thí dụ là phiền não; lại chê là sự phiền toái của pháp môn. Lại gọi là ngôn ngữ (lời lẽ chữ nghĩa), lời của nhà Thiền thường nói. Kinh Xuất Diệu cuốn 3 nói “Phàm là chúng sanh mà đọa vào lưới ái, ắt làm hư chánh đạo… dường như cát đằng leo quấn lên cây, bò lên tới ngọn, khắp bủa phủ che thì cây phải chết khô”. Chủng Điển Sao quyển nhứt nói “Cát đằng là ngữ ngôn”. Tùng Lâm Thạnh Sự nói “Các tu sĩ bên Thiền tông, hễ thấy nói việc chi mà phức tạp như nhánh dây tràn lan không chóng tắt thì, gọi cát đằng”.
91. Hồ Hán. Ho: Dưới hàm thịt no thòng xuống và râu mọc dưới hàm. Đối với các giống dân ở phía bắc Trung Hoa, người Tầu gọi là các nước Hồ, vì địa các (dưới hàm) phong hậu, râu mọc. Các nước mà người gọi là Hồ như Hung Nô, Tiêu Ty, Yết, Đê, Khương. Với các nước ấy, họ gọi là Ngũ Hồ, đời Đông Tấn có cơn giặc loạn Ngũ Hồ. Sách chép là Ngũ Hồ loạn Hoa. Với Ngũ Hồ họ cũng gọi là Bắc địch. Hồ ngôn: nói tiếng nước Hồ, vì học tăng lúc bấy giờ, phần nhiều thiên về đua học tiếng ngoại ngữ, nên bị Tổ quở; còn học tăng Việt Nam ngày nay cũng nhiều người, nội điển chưa thông mà, ý ức đua học ngoại ngữ thì, Tổ nào quở đây!? Hán: người nước Trung Hoa, họ tự xưng nước họ là Hán, như Hán địa, xưng dòng giống là Hán tộc, xưng nam tử là Hán tử, gọi người bổn bộ là Hán nhân, gọi văn tự là Hán văn, Hán ngữ, Hán tộc là vì đối với Mãn, Mông, Hồi, Tạng và Miêu tộc.
92. Hoạt kế: Là cái kế hoạch để sanh hoạt. Vương Kiến thi rằng “Vạn sự phong xuy quá nhĩ luân, bần nhi hoạt kế diệc tằng văn”. Tục ngày nay, người ta cũng bảo nữ hồng (công) là hoạt kế.
93. Tánh thiên chân: Là cái tánh thiên nhiên, là nói tự thị mình có cái tánh thông minh sẵn có, chấp trước cái không (ác thủ không), thế là thông minh nhẫn bị thông minh ngộ.
94. Thô giải: Đối với Phật pháp chỉ hiểu thô thiển, nên gọi là thô giải pháp sư.
95. Giáo nhãn: Tức pháp nhãn, là con mắt coi giáo pháp, chỉ hiểu biết nông cạn bằng cách như bì phu chi học!
96. Hư đầu: Cái đầu óc trống lép. Hư đầu tức không đầu.
97. Hạnh môn: Tức hành môn công vụ, nhưng hư đầu thiền khách này chỉ ỷ lại vào trực chỉ thiền mà, chưa được chân tham thực ngộ, lại hay nói bướng là không cần hữu vi, nên ăn rồi ngồi không, chả có một mảy vận thủy ban sài gì cả, nên nói “bất quí hạnh môn”. Người mà như thế, quá ư vô ích, chẳng bằng cục phẩn, vì phẩn còn có chó ăn, cá ăn, hoặc người ta dùng làm phân bón.
98. Bịnh thiên khô: Là thiên lệch về cái bịnh khô tâm, vì chẳng được có pháp thủy, huệ lưu triêm nhuận gì! Như Ngũ Đăng Hội Nguơn nói “Xưa có một nhà tín nữ, thường tứ sự cúng dường một ông khất sĩ mà bà rước về ở nơi tịnh xá của bà lập trong vườn, trải qua hai mươi năm, thường sai một thiếu nữ mười sáu tuổi đem cơm hầu họ. Bữa nọ, bà bảo con gái của bà ôm ông Sư và hỏi rằng: - Chính lúc này như thế nào? Sư đáp: - Khô mộc ỷ hàn nham, tam đông vô noãn khí (Cây khô nương núi lạnh, mùa đông không hơi ấm). Con gái về thuật lại với mẹ. Bà than: - Hai chục năm nay, ta cúng một ông sư chết khô . Bà buộc sư phải tìm thầy hỏi học đã, rồi hãy tu. Người đời bấy giờ thêm hai câu nữa, thành một bài kệ: Khô mộc ỷ hàn nham tam đông vô lãnh noãn, khả tích nhị thập niên, dưỡng nhứt cá tử hán (Khá tiếc hai chục năm, nuôi một thằng cha chết!)”
99. Đoạn hoặc chứng chân. Hoặc: cái tâm mê vọng, mê với cái cảnh sở đối mà, điên đảo sự lý, gọi là hoặc, là cái tên gọi chung các tham, sân, si mọi phiền não. Tham Huyền Ký 13 nói “Tâm mê tiền cảnh, gọi đó là hoặc”. Nhân Vương Kinh Hiệp Sớ nói “Hoặc là cái tâm mê vọng”. Đoạn hoặc: là đoạn cái vô minh hoặc, vì nó là căn bản vô minh, hay làm che ngăn cái lý trung đạo (chân như). Bên Biệt giáo, các Bồ-tát bực Sơ địa bắt đầu đoạn nó, các Bồ-tát bên viên giáo, từ Sơ trụ bắt đầu đoạn nó, đều nghĩa là mỗi bực địa dứt một phần vô minh là, chứng một phần chân như (Trung đạo, Pháp thân, Niết-bàn), cứ thế tiến lên, mỗi địa mỗi địa mỗi đoạn hoặc chứng chân, mãi cho đến bực Đẳng giác Bồ-tát đoạn một phần rốt sau là vi tế hoặc, cũng kêu là tối hậu nhứt phần sanh tướng vô minh, cũng rằng tối hậu phẩm vô minh, đến đây mới là dứt sạch hết vô minh hoặc chứng cứu cánh tam giáo viên minh, tức thành Phật quả.
Phu: Tối hậu phẩm vô minh là cái phần vô minh này thể nó cực vi tế; đối với thứ lớp sanh khởi thì, gọi nó là “vô thỉ vô minh”, “căn bản vô minh”, “ngươn phẩm vô minh”; về thứ đệ đoạn diệt thì, kêu nó là “tối hậu phẩm vô minh”, “chung phẩm vô minh”.
100. Tác gia: Là danh từ để xưng hô bực “Đại hữu cơ dụng” bên Thiền tông, Bích Nham nhị tắc bình xướng nói “Ngài Triệu Châu là bậc tác gia”. Lại nói “tác gia tông sư”. Tác gia: làm nhà, tức Phật pháp đống lương, Phật Tổ gia phong. Nghĩa là bậc thầy của nhân, thiên.
101. Thuyết dục: Nói muốn, là thay vì nói kia muốn đồng sự. Dục nghĩa là hi cầu. Duy Thức Luận 5 nói “Dục là tánh nó hi vọng, tác dụng nó là cần y”. Thuyết dục: với các pháp sự như thụ giới, thuyết giới… mà mình vì có lý do sự duyên, chẳng thể thân đến pháp hội được, nhưng với pháp sư mình sẵn có cái hi vọng tùy hỉ cọng đồng với việc ấy, gọi là Dục, đem cái dục ý ấy trao lại cho một vị Tỳ-kheo khác, gọi là Dữ dục, vị Tỳ-kheo ấy chịu lời ủy thác, gọi là thụ dục, ra giữa chúng tăng để trình bày nói, gọi là thuyết dục.
102. Sáu tình: Các kinh luận của Cựu dịch, phần nhiều gọi lục căn là lục tình, do vì căn nó có tình thức, tình là một của ý, là cái danh đương thể, do vì ý căn là tâm pháp, còn năm kia sanh ra tình thức, nên do nơi quả sở sanh mà gọi là tình. Thập Trụ Tỳ-bà-sa nói “Cấm sáu tình như buộc cột chó, nai, cá, rắn, vượn và chim”. Gia Tường Trung Luận Lục Tình phẩm nói “- Hỏi: với ý, có thể gọi là tình, còn năm kia, sao gọi tình được? - Đáp: ý, đương thể nó gọi là tình, còn năm kia là cái quả sanh ra tình thức, thế là do theo quả xưng tình. Lục tình, cũng bảo là lục căn, vì năm căn năng sanh ra năm thức, ý căn năng sanh ra ý thức. Lục tình cũng gọi là lục y, vì chỗ sở y của lục thức”.
103. Day mặt vào vách: Kinh Thư nói “Bất học diện tường: chẳng học mặt vách”. Lời chú “Người mà không học, như kẻ đứng day mặt vào bức tường”. Hán Thư nói “Học thói mặt vách, chả biết phải chăng!”
104. Cốt đổng: Nghĩa là xăng lộn, món ăn bằng cách nấu chung lộn nhiều thứ, như xứ ta gọi là nấu kiểm, hay xà bần. Bên Tàu gọi là Cốt đổng canh. Sách Phi Tuyết Lục nói “Ông Tô Đông Pha thường nấu canh cốt đổng”. Sách Cừu Trì bút ký nói “Tại xứ La Phù Sơn, các người già yếu, phần nhiều ưa dùng cá thịt các vị nấu chung mà ăn, gọi là cốt đổng canh”. Ở đây nói “Đáo lão toại thành cốt đổng” ý rằng già lẫn lộn, hết biết dơ sạch, xấu hổ, phải chăng gì ráo!
105. Núi La Phù: Vị trí tại phủ Huệ Châu (Huệ Dương huyện), tỉnh Quảng Đông.
106. Cái thời dị thục. Thục: chín. Bổ Chú 11 nói “Cựu dịch quả báo (cái thân là quả báo), Tân dịch dị thục, Duy Thức Thuật Ký cuốn 2 nói “Nói dị thục ấy, là hoặc dị thời (thời khác) mới thục hoặc biến đổi khác lạ mà thục, hoặc khác loại mà thục”. Nên nói cái thời dị thục đã đến. -Nương nơi nghiệp thiện hay ác của đời quá khứ mà đặng cái tên chung của thân quả báo đời nay. Nghĩa là cái quả nó khác với tánh chất của cái nhân mà thành thục. Như tạo thiện nghiệp thì cảm lấy lạc quả; tạo ác nghiệp cảm lấy khổ quả, là cái lạc quả phi thiện tánh mà là vô ký tánh (phi thiện phi ác là vô ký), đối với cái nghiệp thiện tánh có thể nói là dị loại (thiện tánh loại nó khác nhau với vô ký tánh), khổ quả đối với ác nghiệp thì, khổ quả phi ác tánh mà là vô ký tánh, thế cũng là tánh chất của nhân nó khác nhau với quả (hai quả khổ lạc đều là vô ký tánh). Nhân đó, gọi rằng dị thục quả. Là nghĩa nhân cùng quả ắt cách đời với thời khác mà thục. Nên Câu Xá Luận cuốn 6 nói “qua loại khác mới thục (chín), là nghĩa của dị thục”.
107. Lâm khát quật tỉnh: Sách Yến Tử Xuân Thu nói “Để cho chết chìm rồi mới hỏi cách sa đắm, quên lối đi rồi mới hỏi thăm đường, tỷ như lâm nạn rồi mới đúc binh khí, khát khô nghẹn rồi mới đào giếng, dẫu có cần cấp đến đâu, cũng không kịp nào!” Đời nói lâm khát quật tỉnh là điển trên đây. Xứ ta họ nói “Để nước đến trôn rồi mới nhảy!”
108. Gió nghiệp: Cái nghiệp thiện ác, nó thường khiến người chuyển di để luân hồi trong tam giới, nên tỷ là gió. Kinh Chánh Pháp Niệm cuốn 10 nói “Trong tất cả gió, gió nghiệp là đệ nhất”. Đại Thừa Nghĩa Chương cuốn 7 nói “Sức nghiệp như gió, nghiệp thiện, gió đưa chúng sanh ấy đến chỗ tốt mà thụ lạc; ác nghiệp, gió thổi chúng sanh ấy đến chỗ xấu mà chịu khổ”.
109. Làm cái có kẻ khác: Ông Trang Tử ca rằng “Nhà bị người khác ở, ruộng bị người khác cày, ngựa bị người khác cưỡi, con bị người khác khiến, vợ bị người khác yêu…”. Chính chỗ bảo rằng “tòng tiền kim ngọc phú tha nhân, thế thượng dĩ canh tân nghiệp chủ!”
110. Vô lượng: Sách Thống Tôn toán pháp, ghi số vô lượng này “100.000.000.000.000.000.000.000.000.000”.
111. Dòng nước bộc bố: Suối bay, là nước do trên đầu tảng đá đứng cao chót vót đổ ngay xuống, thế nó dội vọt trào, bọt nước bay văng tung tóe, ở xa trông thấy như lụa bạch kê bức giăng thả xuống, nên gọi là bộc bố. Bên Trung Hoa có chín, mười bộc bố mà suối bay ở huyện Tinh Tử tỉnh Giang Tây là thắng cảnh hơn cả. Ở nước ta có bộc bố (thác) Prenn trong Đà Lạt, cũng là thắng cảnh.
112. Đao phong: Thân mạng của con người khi sắp cuối cùng, có cái phong khí nó giải phẫu cả chi tiết như dao xẻ, gọi là đao phong, chỗ gọi là cái khổ “đoạn mạt-na”. Kinh Chánh Pháp Niệm 66 nói “Khi mà cái hiện mạng cuối, đao phong đều động, da thịt gân xương mỡ tủy tinh huyết, tất cả đều bị như xẻ dứt”. Kinh Ngũ Vương nói khi muốn chết, đao phong xẻ hình, không chỗ nào chả đau!” Hành Sự Sao Tư Trì Ký nói “Hay róc chi tiết, nên dụ như dao”. Đoạn mạt na Dịch là chi tiết, lại dịch là tử huyệt, trong thân của con người có những chi tiết (huyệt) lạ hẳn, vật khác chạm đến thì, đau rất nguy kịch, sanh mạng ắt phải chết; khi con người sắp chết, trong ba đại thủy, hỏa, phong, hễ một đại tăng phồn thạnh lên, nó chạm đến cái mạt-na, khiến cái mạng phải dứt hẳn, gọi là đoạn mạt na. Đoạn: phi cắt dứt mạt-na, chính là một đại nào (trong ba đại) chạm đến cái tử huyệt (mạt-na) mà cái mạng nó đoạn tuyệt. Câu Xá Quang Ký 10 nói “Mạt-na là cái tử huyệt trong thân thể con người, cái lượng nó rất nhỏ, chạm đến phải chết!”. Trong Pháp Tạng nói “Trong thân chúng sanh, có cả trăm chỗ (huyệt) tên là mạt na, đụng nhằm phải chết”. Tụng Sớ nói “Ba đại thủy, hỏa, phong hễ một nào tăng thạnh thì bén như gươm dao, chạm đến mạt na, nhân đó mạng chung nên gọi là đoạn. Đoạn: phi như chặt củi, đứt thành hai khúc; chỉ do một nào trong ba đại cho đến mạt na, khiến thân không biết nên gọi là đoạn”.
113. Mười sáu phần hãy chẳng còn một: Là nói, hằng ngày lúc bình thường, sự khỏe khoắn vui sướng đầy đủ mười sáu phần thư thái mà, khi sanh nghiệp cuối cùng chả còn một phần nào cả! Vì, từ trước chẳng làm thiện nghiệp, như là ưa thốt lời châm biếm dèm pha làm cho người bị đau đớn thốn tim, nên lúc cuối cùng, bị cái quả khổ đao phong đủ cả mười sáu phần! Bên Chân ngôn Mật giáo, dùng con số 16, để tiêu biểu cho số viên vô tận. Các kinh đều lấy số 16, để gồm thâu cho tất cả, như Bát-nhã thì thập lục không, mặt nguyệt thì thập lục phần mãn. Giả tỷ như nói một thù đủ mười sáu lượng…
114. Hữu lậu thiện ác: Tỳ Bà Sa Luận nói “Hữu tức có nghiệp, cái nghiệp nó thường khiến tiếp tục sanh qua đời sau, nên gọi là tức có sanh. Lậu: lọt, rịn ra, là sáu căn lọt rịn ra sáu trần, tức là nghĩa lưu ở lại khiến chúng sanh lưu ở lại trong tam giới”. Kinh Niết Bàn nói “Pháp hữu lậu có hai (1-Nhân, 2-Quả), hữu lậu quả thì gọi là khổ, hữu lậu nhân thì gọi là tập”. Hữu lậu thiện pháp: nghiệp nhân hữu lậu có thiện và ác là tam qui ngũ giới, thập thiện, tức thiện pháp; tam độc, ngũ nghịch, thập ác là ác pháp. Hữu lậu thiện pháp thì, đưa đến kết quả vui hữu lậu, như đắc quả làm người làm trời; ác pháp hữu lậu, chiêu cảm lấy khổ quả hữu lậu, quả báo làm ngạ quỷ súc sanh. Lậu là cái tên khác của phiền não, nó hàm có sự vật phiền não nên gọi là hữu lậu; những sự thể của tất cả thế gian, đều là pháp hữu lậu, sự thể xuất thế gian đều là lìa phiền não, đều là vô lậu pháp.
115. không lìa lòng dục nhiễm: Loài vũ tộc đều có giống trống mái, loài mao quần đều có giống cái đực; cả nhân loại trên bốn quả địa cầu là Đông Thắng Thần Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Câu Lư Châu đều có nam tánh nữ tánh; đến cả sáu cõi trời Dục giới, cũng cùng đều có thiên nam, thiện nữ; tất cả đều do lòng dục nhiễm để sanh, nối nòi với nhau. Kinh Lăng Nghiêm nói “Nhứt thế chúng sanh giai do dâm dục nhi chứng tánh mạng”.
116. Lìa lòng dục nhiễm: Trong bốn thiền thiên, gồm có một cõi trời Phạm, toàn là thiên nam, chứ chẳng có thiên nữ, do tu bốn thiền định mà, cảm cái quả báo sanh nở bằng cách hóa sanh, nghĩa là tự nhiên biến hóa xuất hiện ra, chứ phi thai sanh như chúng sanh ở cõi Dục giới này, nên Sơ thiền thiên đã được gọi là “Xả dục thanh tịnh địa”; cả đến mười tám Phạm thiên, đều bội phần thanh tịnh, vì đã lìa sự dâm dục, nên không phạm, nghĩa là thanh tịnh.
117. Thân sắc chất: Trường Thủy Khan Định Ký cuốn nói “Các trời Hữu sắc, tức là lấy sắc uẩn làm thân, nên gọi là sắc chất. Các trời Vô sắc, tức là lấy bốn uẩn thụ, tưởng, hành, thức làm thân, nên gọi là “Vô sắc”.
118. Chẳng kể kiếp số: Kinh nói “Đời sanh tử về quá khứ như số thạch kiếp khôn cùng, vòng luân hồi về vị lai như số giới thành chẳng hết”. Thạch kiếp: Lấy bàn thạch, giới tử để tỷ dụ cái lâu của kiếp. Trí Độ Luận cuốn 5 chép “Phật lấy thí dụ để nói nghĩa của kiếp, tỷ như một quả núi đá cao, lớn tư vuông bốn mươi dặm, có người sống lâu, cứ mỗi một trăm năm đến một lần, lấy cái áo tế nhuyễn lau qua một bận, như thế mãi chừng nào núi đá ấy tiêu mòn hết mà cái kiếp chưa hết. Lại, một cái thành lớn bằng bốn mươi dặm, hột cải chứa đầy trong thành ấy, có người trường thọ cứ mỗi một trăm năm đến một lần, bốc bỏ ra một hột cải, như thế mãi chừng nào hết thành hột cải mà cái kiếp cũng chưa hết, nên gọi là kiếp bàn thạch, kiếp giới thành”.
119. Đương tiểu kiếp thứ chín, còn mười một tiểu kiếp nữa là đến hoại kiếp. Cái biểu dưới đây:
Biểu đồ
Hai lần tăng và giảm: Trong mỗi tiểu kiếp, thuở mà cả nhân loại mọi người đều chỉ sống còn có mười tuổi là trọn đời, đó là thời giảm đã cực độ; từ đấy, cứ qua trăm năm là mỗi người được tăng lên một tuổi, mãi như thế; đến thuở mà cả nhân loại mỗi người đều sống đủ tám vạn bốn ngàn tuổi, đó là thời tăng đã cực điểm. Từ đó, cứ qua trăm năm giảm một tuổi, mãi cho đến chỉ sống mười tuổi. Một giảm một tăng như thế là một tiểu kiếp…
120. Bốn uẩn: thụ, tưởng, hành, thức. Thụ: Đối với cảnh mà, cái tác dụng của tâm nó thừa thụ sự vật. Tưởng: Đối với cảnh mà, cái tác dụng của tâm nó tưởng tượng lấy sự vật. Hành: Đối với cảnh mà, cái tác dụng của tâm nó quan hệ với tham, sân, si, thiện, ác tất cả. Thức: đối cảnh mà, bản thể của tâm rõ riêng hiểu biết sự vật.
Sắc uẩn: Gồm trùm cả năm căn, năm cảnh là vật chất có hình trạng. Lấy một hữu tình để tượng trưng, thì, một sắc uẩn tức là thân, cả bốn uẩn tức là tâm. Trong tâm: thụ, tưởng, hành ba ấy trên tâm tánh, chúng đều là mỗi một uẩn tác dụng đặc biệt, nên gọi là tâm sở hữu pháp, tức cái pháp sở hữu của tâm. Một cái thức ấy là tự tánh của tâm, nên gọi là Tâm vương. Số là, ngũ uẩn là hai pháp thân và tâm, như chúng hữu tình ở Dục giới, Sắc giới thì có cái thân là do cả ngũ uẩn mà thành thân; như chúng hữu tình ở Vô sắc giới thì không có cái thân bằng hình sắc, mà từ nơi bốn uẩn để thành cái thể bằng tư tưởng, nghĩa là bằng tinh thần, chứ phi vật chất.
121. Truy lưu. Truy: vải nhuộm màu thâm thâm, là có hơi đen (phi thực đen) mà ửng đỏ, tức tục gọi là màu đà. Nhà tăng mặc truy y, nên gọi Truy lưu, hoặc Truy đồ. Lưu là nghĩa lưu loại, tức chúng loại mặc y. Thích Thị Yếu Lãm nói “Truy lưu, đấy là do nơi màu áo mà đặt tên”.
122. Đời mạt pháp: Mạt pháp là một trong ba thời (chánh, tượng, mạt). Nghĩa là cách với đời Phật còn tại thế rất lâu dài mà, cái thời kỳ giáo pháp thỏn mỏn cuối rốt. Kinh Pháp Hoa Gia Tường Sớ cuốn 5 nói “Lại cuối mảy rốt, gọi thời mạt pháp”. Ba thời, có nhiều thuyết, như nói “Thời chánh pháp năm trăm năm; thời tượng pháp một nghìn năm; thời mạt pháp một vạn năm. Phần nhiều dùng thuyết này”. Ba thời chánh, tượng, mạt, nghĩa là, sau khi Phật nhập diệt, bảy chúng đệ tử chân thật tu hành đúng chánh pháp, gọi là thời chánh pháp. Sau thời chánh pháp, thất chúng đệ tử tu hành mường tượng giống với chánh pháp, là thời tượng pháp. Cái thuở mà pháp của tượng pháp dần dần suy diệt, là thời mạt pháp.
123. Ông Lương Đạo: Lương là thiện (hay, khéo) hơn người; đạo: dẫn dắt. Lương đạo là vị tăng sĩ có đức hạnh, tài năng hơn người, có thể thay Phật làm đạo sư để hướng đạo cho học chúng.
QUI SƠN CẢNH SÁCH
CUỐN THƯỢNG HẾT