Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (37)


Xem mục lục

Sư bà Đại Hằng sinh năm 1927, trong một

gia đình quyền quý. Gia thế vốn giàu có,

nhưng khi Sư bà ra đời thì hoàn cảnh họ khá

bấp bênh. Hoàng gia Nhật quyết tâm thôn tính

Đại Hàn nên đem quân đội chiếm đóng từ năm

1904, với chính sách ngày càng tàn bạo và

nặng nề. Cha của Sư bà nguyên là tướng quân

triều đình của vị vua Đại Hàn cuối cùng nên

vẫn tiếp tục chống đối quân Nhật xâm lược.

Hậu quả là quân Nhật tịch thu toàn bộ nhà cửa,

tài sản, đất đai của gia đình khi Sư bà lên sáu

tuổi. Họ chạy thoát mật thám Nhật chỉ trong

giây phút, duy có bộ quần áo mặc trên người,

vượt sông Han, xây một túp lều trú ẩn trên núi

phía nam Hán thành. Trong một thời gian dài,

thức ăn của họ chỉ là những gì xin được hay đi

mót lúa ngoài đồng khi đã gặt xong.

  Sự bóp nghẹt liên tục của Nhật, việc triều

đình Đại Hàn sụp đổ, hoàn cảnh bi đát của gia

đình đã làm tâm trí cha Sư bà ngập tràn niềm

thất vọng và phẫn nộ. Dù vẫn tử tế, hay giúp

đỡ người khác nhưng ông lại dồn tất cả sự

giận dữ, oán hận lên Sư bà, đứa con gái đầu

của mình. Hoang mang, không sao hiểu nổi

những gì xảy đến cho mình, Sư bà trốn lánh

khỏi túp lều càng nhiều càng tốt. Dù bóng

đêm và những âm thanh quái lạ làm Sư bà vô

cùng sợ hãi, nhưng Sư bà bắt đầu ngủ ngoài

rừng, lấy lá phủ cho ấm.

  Khi Sư bà lên tám tuổi thì những ngày lạnh

lẽo, đói khát đã kéo dài hai năm. Cho dù cuộc

đời quá khổ cực, nhưng trong nội tâm Sư bà

lại khởi sự cảm thấy khác hẳn. Nỗi sợ hãi

phải sống ngoài núi rừng vào ban đêm đã phai

nhạt, dần dần bóng đêm trở nên thoải mái, ấm

áp, đẹp đẽ. Trong rừng không có sự khác biệt

giữa giàu nghèo, quý tiện, mọi sinh vật sống

hỗ tương, hài hòa với nhau. Đem so sánh, thì

thế giới bên ngoài tràn ngập sự bất bình đẳng

và khổ đau.

   Nhìn đâu, Sư bà cũng thấy con người sinh

ra chỉ để chịu khổ. Suốt ngày họ sống tách

biệt với mọi người để đeo đuổi những điều

đến phút chót mới thấy thật là vô ích, y như

họ sống qua một đời đến khi bệnh hoạn rồi

chết. Cuộc sống chỉ như vậy sao? Hiện hữu

đó có ý nghĩa gì? Qua trực giác, Sư bà cảm

nhận còn có những điều khác, những gì cốt

yếu mà mắt Sư bà không thấy được. Cái đó là

gì? Có những ngày liền, Sư bà tựa lưng vào

phiến đá hay gốc cây, suy tư tìm tòi, thiết tha

mong muốn hiểu được những gì đã tạo nên Sư

bà. Càng lớn, cái mong muốn đó càng mãnh

liệt khiến đôi khi Sư bà nghĩ thà chết còn hơn

là không tìm được câu trả lời cho những thắc

mắc này. Ngập chìm trong nỗi nghi vấn, núi

rừng quả là nguồn an bình, nuôi dưỡng Sư bà.

  Bất ngờ một ngày Sư bà tìm được những gì

mải hoài tìm kiếm: nó đã có sẵn trong Sư bà,

và vẫn luôn ở với Sư bà. Điều đó thật ấm áp,

tuyệt diệu biết bao nên Sư bà gọi là Appa, có

nghĩa là Cha. Đây không phải là ông cha mà

Sư bà không dám để thấy mặt, một ông cha

không hề yêu thương Sư bà; nhưng chính bản

tâm đã tạo ra Sư bà, chân tính là người sáng

tạo đích thực. Sư bà òa khóc, không ngớt gọi

‘Cha ơi, Cha ơi’, lòng tràn ngập niềm vui khi

biết cha mẹ đích thực, chân tánh luôn có sẵn,

không hề rời Sư bà.

Không có sông nào để vượt qua

   Nhiều năm về sau, Sư bà thường cười về

việc này và bảo là: Nếu ta không quá trẻ và dốt

nát, thì hẳn ta đã gọi là Phật tánh, chân tánh.

Nhưng vào lúc đó, ta chỉ biết là một cái gì tràn

đầy sự yêu thương, ấm áp nên ta gọi là ‘Cha’.

Ta cho ‘Người cha’ mà ta cảm nhận được trong

nội tâm chính là cha ta”. Sư bà xem ‘Cha’ là

nguồn an ủi và trút hết tình thương vào đó. Mỗi

khi Sư bà gọi thầm ‘Cha ơi’, Sư bà cảm thấy

như sỏi đá, cây cối, thú vật cùng tất cả mọi thứ

trở thành những người bạn thân thiết, quá sức

thân thiết đến như cùng một hơi thở.

   Không hiểu sao Sư bà lại biết là ‘Cha’ có

thể trả lời mọi thắc mắc của Sư bà nên phó

thác tuyệt đối vào đó. Sư bà sống một cách rất

tự nhiên và không hề thử tin tưởng vào một

cái gì bên ngoài Sư bà. Thật là tuyệt vời khi

từ một người không có gì Sư bà lại nếm được

mùi vị bất khả tư nghị của chánh pháp.

   Sư bà cảm thấy ‘Cha’, cái bản tính vốn có

đó, quý báu hơn bất kỳ thứ gì trong cả thế giới

nên cứ lặp đi lặp lại: “Con muốn thấy Cha”.

Đáp lại lời van nài, một giọng nói sâu thẳm

trong chính Sư bà lên tiếng: “Nhìn thử trong

gương, ta ở đó”. Bất kể bao nhiêu lần Sư bà

nhìn gương, bất kể trong bao lâu, Sư bà chỉ

thấy chính khuôn mặt mình. Không còn gì

khác. Sư bà cảm thấy ê chề. Chưa bao giờ Sư

bà được nghe một bài pháp, học một trang

kinh, và không sao hiểu được điều mà Sư bà

đang chứng nghiệm. Về sau Sư bà nhớ lại: “Dù

cho lúc đó đã mười tám tuổi, ta vẫn không sao

hiểu được ý nghĩa thật sự của điều đó”.

  Sau khi Đại Hàn được độc lập năm 1945,

Sư bà theo tiếng gọi nội tâm và đi về hướng

núi Odae. Trong dãy núi đó có một Thiền sư

vĩ đại tên là Hanam mà Sư bà đã gặp.

   Sư bà được gặp Thiền sư Hanam nhiều năm

về trước, khi còn là một bé gái, ở với người

cậu trong vùng, nên thường lên chùa để viếng

Thiền sư. Sư bà nhớ lại: “Ta không hề biết đến

những danh xưng về Thiền sư như là: Đại sư,

Đại thiền sư, Đại trí tuệ”. Thiền sư là người

đứng đầu của giòng thiền Jogye, nhưng Sư

vẫn vui đùa với ta, dúi cho ta bánh gạo rang

khi không có ai. Sư mang lại lòng từ ái, bi

mẫn cho những ai nghèo nàn, khốn khổ bởi họ

đã bần cùng, chịu nhiều đau khổ. Với những

ai mắt ngời sáng khát khao muốn biết chân lý,

Sư đem đến trí tuệ và sự sách tấn. Bất kỳ là

hạng người nào, bạn cũng có thể gặp gỡ Sư.

Ngôn ngữ của người rất bình dị nhưng luôn

Không có sông nào để vượt qua

hàm chứa thật sâu sắc. Trong sự chứng đắc

sâu xa, Sư luôn ấm áp, an bình, như ‘Cha’.

   Sau khi đến núi Odae, Sư bà xin làm công

quả, xin được vào Thiền đường dành cho Tỳ-

kheo ni. Sau nhiều ngày ngồi thiền miên mật,

Sư cảm thấy tay chân rã rời. Chợt một tư tưởng

nổi lên, “Sao ta lại hủy hoại xe như vậy thay

vì kéo trâu?” Về sau, Sư bà giải thích, “Thử

nghĩ một chiếc xe, có trâu kéo. Nếu muốn đi

tới, có nên đánh vào xe không? Không nên,

mà chỉ lấy dây mũi, nhẹ nhàng dẫn trâu đi tới

trước”.

  Vì vậy Sư bà bỏ Thiền đường và trở lại

rừng sâu. Sư bà tu tập rất miên mật, không

bận tâm đến chuyện giữ giới hay không giữ

giới, cạo tóc hay để tóc dài, mà chỉ là hướng

vào bên trong.

   Mùa xuân năm 1950, Sư được thọ giới Sa-

di. Thiền sư Hanam lại cắt tóc cho Sư bà. Ngài

hỏi, “Ngay đây, ai là người thọ giới?”

  Sư bà trả lời, “Chẳng có lúc nào Ngài trao

Giới, mà chẳng có lúc nào con được thọ giới.

Hạc chỉ bay về phía núi xanh”.

  Thiền sư Hanam dạy, “Con phải chết mới

thấy được chính con”.

  Sư bà trả lời, “Cái ngã nào phải chết, ngã

nào phải giết?”

Thiền Sư hỏi tới, “Tâm con ở đâu?”

  Sư bà trả lời, “Chắc Ngài khát nước rồi.

Xin hãy dùng chút nước”.

  Cuối cùng Thiền sư hỏi, “Nếu ta là cục nam

châm, con là cây đinh, điều gì sẽ xảy ra?”

  Sư bà trả lời, “Đinh cũng sẽ thành cục nam

châm”.

  Thiền sư rất vui lòng, Ngài dạy, “Xuất cách!

Thôi hãy đi theo đường của con”.

  Không lâu sau đó, nội chiến xảy ra và đất

nuớc lâm vào cảnh hỗn loạn. Chỉ vài tháng

sau, Thiền sư Hanam an nhiên thị tịch, trụ

thế 75 năm, xuất gia làm đệ tử Phật hơn năm

mươi tuổi hạ.

  Sau khi rời Thiền sư Hanam, Sư bà đến

Busan ở khoảng một năm. Sư bà dựng quán

ăn cho phu bến tàu và người nghèo; còn làm

thợ may, lấy binh phục may đồ dân sự. Trước

đây khi sống khổ sở, chịu đựng một mình nên

Sư bà cũng chẳng bận tâm. Nhưng bây giờ,

thật không thể chịu nổi khi nhìn sự đau khổ

kinh khủng của mọi người chung quanh. Dù

có thể cho ăn, cho mặc nhiều người; nhưng Sư

Không có sông nào để vượt qua

bà bắt đầu cảm thấy giúp người khác về mặt

vật chất chỉ đến một giới hạn.

   Sư bà hiểu ra rằng mình cần phải tu tập miên

mật hơn nên rời Busan và cuộc sống đã tạo

dựng ở đó. Chưa bằng lòng với những gì đã

hiểu, Sư bà luôn tự vấn, “Mục đích cuộc đời là

gì? Tại sao con người phải chịu khổ? Tại sao

ta lại có mặt ở đây?” Sư bà tu tập ngày đêm

không ngưng nghỉ, không ăn uống, nhưng câu

đáp duy nhất chỉ là, “Phải chết mới thấy được

chính mình”. Sư bà đã giải đáp câu hỏi này ở

nhiều mức độ sâu sắc khác nhau, nhưng Sư bà

hiểu mình cần phải đi sâu hơn.

   Tất cả năng lực của Sư bà chỉ tập trung

vào nghi tình này, khi bước chân đưa Sư bà

đi khắp đất nước. Mong muốn được biết câu

trả lời thật là mãnh liệt, nhưng chẳng có câu

trả lời nào từ nội tâm. Sự khao khát biết được

câu trả lời tối thượng cho thoại đầu, “Hãy chết

mới thấy được chính con”, quá sức mãnh liệt

khiến Sư bà cảm thấy cuộc đời không còn có

ý nghĩa nếu không biết được câu trả lời. Kết

quả là nhiều lần Sư bà đã tự vẫn nhưng không

thành. Sư bà bước đi vô định. Điều bận tâm

duy nhất là phải chết ở chỗ nào không phiền ai

chôn xác. Bước chân Sư bà dừng lại trên vách

đá nhìn xuống sông Han. Nhưng ngay giây

phút nhìn xuống dòng sông, Sư bà quên hẳn

chuyện muốn chết. Hẳn Sư bà phải đứng đó

cả nửa ngày trời, nhìn dòng nước. Đột nhiên

ra khỏi định, nước mắt Sư bà tuôn trào không

sao kềm giữ được. Sư bà hiểu ra rằng, “Nước

mắt của ta phải thành cả đại dương, một đại

dương ta sẽ uống cạn”.

   Sư bà khóc trong niềm hân hoan vì thấu

hiểu được làm thế nào để tiến tu. Nước mắt

đó không chỉ là sự đồng cảm đơn thuần, mà

chính là được nhập làm một, tan hòa với mọi

nỗi khốn khó, đau khổ của chúng sanh. Hơn

thế nữa, từ đây Sư bà biết khi đã hòa nhập

được, Sư bà sẽ thể hiện tính nhất nguyên, từ

trong bản thể (foundation) nhập làm một với

những ai đang đau khổ. Theo cách này Sư bà

có thể giúp không những từng cá nhân mà còn

cả hành tinh nữa.

  Sư bà sống trong rừng thêm mười năm

nữa. Chẳng bao giờ Sư bà so sánh mình với

người khác, và cũng chưa từng mãn nguyện

với những gì mình đã nhận ra. Sư bà chỉ tiếp

tục tiến tu trong khi vẫn thành tâm áp dụng

cùng thử nghiệm những gì Sư bà đã khám

phá, không chấp thủ vào bất cứ kinh nghiệm

hay hiểu biết nào.

Không có sông nào để vượt qua

   Tu tâm không ngưng nghỉ cùng thử nghiệm

những hiểu biết và chứng đạt, Sư bà không

hề bận tâm về thân. Khi cảm thấy cần ăn một

chút, Sư bà ăn bất cứ cây cỏ gì quanh đó. Đôi

khi tìm được nấm dại hay trái rừng; có lần

được một nông dân cúng ít đậu khô. Sư bà

trải qua nhiều mùa đông ở dưới gốc thông hay

trong cái hố đào ở bờ cát gần sông. Có nhiều

mùa đông, y phục Sư bà chỉ là một bộ quần

áo mùa hè. Da Sư bà bị nứt nẻ và chảy máu

thật tệ hại, xương lòi da, Sư bà cột tóc túm lại

với dây cây hoàng tinh. Nhưng người nào gặp

Sư bà, tâm đều bị chấn động bởi đôi mắt sáng

của người.

  Nhìn lại nhiều năm tu tập của Sư bà, mọi

người thường nghĩ Sư bà đã chịu nhiều khổ

sở, nhưng riêng Sư bà lại không nghĩ sự tu

tập khổ đến như vậy. Sư bà không chủ ý tự

dấn thân vào những thử thách gay go của khổ

hạnh, nhưng chỉ là vì tất cả mọi chú tâm của

Sư bà đều dồn vào bản tâm.

  Đối với Sư bà chẳng hề có việc buông xả

hay không buông xả. Sư bà chỉ tận dụng tất cả

sự tỉnh giác tập trung đến bản thể đã tạo nên

Sư bà. Sư bà không hề chú ý đến những việc

bên ngoài mà chỉ quán sát những gì chạm đến

cái tâm bên trong. Cũng y như ngồi yên lặng

trên bải cỏ, nhìn ngắm với tâm bình an. Trong

khoảng thời gian một năm, nội việc cố gắng

suy nghĩ cũng làm khuấy rộn Sư bà, nên dù

tư tưởng có khởi lên, Sư bà cũng không đeo

đuổi nữa. Khi tu tập như vậy, đôi lúc câu giải

đáp bất ngờ hiện ra, hay có khi mãi về sau mới

xuất hiện.

   Trong lúc tu tập, có nhiều câu hỏi khởi lên

từ bên trong, chẳng hạn, “Tại sao một chân

của ta lại lớn hơn chân kia?”. Nhưng khi nhìn

xuống thì hai chân đều đồng cỡ! Khi những

tư tưởng khởi lên như thế, Sư bà tập trung suy

nghĩ thật sâu sắc, không cần biết trời sắp tối

hay trời lạnh đến chừng nào. Sư bà không chủ

ý tu tập như vậy, nhưng nó chỉ đến một cách tự

nhiên. Sư bà còn không cảm nhận được thân

thể của mình. Dù mắt nhắm nhưng tâm trí bên

trong thì thanh tịnh, sáng rỡ. Có lần Sư bà ngồi

nhiều ngày không động đậy khiến sau đó thân

thể tê cứng, không thể nào nhấc tay chân.

   Sư bà hồi tưởng lại, “Dù ta té xỉu gần chết

hàng chục lần nhưng không chết. Ta không

chết đói, không bị lạnh gần chết, cũng chẳng

bị thú dữ làm tổn thương. Mỗi khi gần chết, lại

có tư tưởng khởi lên giục ta phải đi đến đâu để

Không có sông nào để vượt qua

tìm thứ đang cần. Có lần, đang đi trong đêm,

tự nhiên ta không nhấc được chân, y như bị

đông cứng. Khi nhìn quanh, mới biết là ta chỉ

cách một bước đến bờ vực thẳm. Quý vị có

biết cái gì làm chân ta tê cứng như vậy không?

Chuyện này xảy đến cho ta quá nhiều lần, ta

biết không phải là việc ngẫu nhiên.”

   Trong một buổi giảng pháp, Sư bà kể về

những kinh nghiệm của mình: “Chính bản

tâm của ta đã làm mọi chuyện. Bản tâm đã

đưa ta đến những hoàn cảnh nguy hiểm, và

cũng chính bản tâm đã giữ ta không bị chết.

Ta chưa từng bị thương hay bị hại khi sống

trong núi rừng, dù ta chỉ là một người đàn

bà bé nhỏ, yếu ớt. Ta vượt qua được mọi thứ

trong hơn mười năm, cho dù ta chưa bao giờ

mang theo thực phẩm hay chuẩn bị áo quần

cho mùa đông. Tất cả đều nhờ sức mạnh của

chân tâm.”

   Có lần Sư bà nói, “Những gì ta thể nghiệm

vào thời kỳ cuối của mười năm đó không thể

diễn tả được. Cho dù có kể, không ai có thể tin

ta. Một lần, con rồng khổng lồ hóa hiện hằng

ngàn hình dạng khác nhau, thật là tuyệt đẹp.

Ngọc mani rơi ra từ miệng rồng, kết thành xâu

chuỗi. Bất chợt ta có cảm tưởng rồng chẳng

phải là rồng. Đó chỉ là hóa hiện của một niệm

từ bản thể mà thôi. Sau đó, rồng bay lên trời,

chỉ để lại một cột lửa khổng lồ. Hình chữ

“Vạn” bay trên đầu cột lửa. Toàn cột lửa từ

từ chuyển động rồi hình như mọi thứ quanh ta

cũng nối kết và chuyển động cùng với cột lửa.

   Chứng nghiệm được những điều đã trải

qua, Sư bà xác nhận được năng lực vô hình

của vũ trụ và tự thanh lọc thân tâm để có thể

sử dụng năng lực đó. Sư bà cảm nhận hình

như mình có thể nắm trong tay quyền sinh sát

toàn vũ trụ. Sư bà khởi sự tìm hiểu hành tinh,

Thái dương hệ, dãy Ngân hà và vượt cả dãy

Ngân hà chúng ta. Sư bà cũng đặc biệt chú ý

đến bệnh hoạn vì thấy nó gây quá nhiều đau

khổ. Sư bà cũng thử dùng năng lực của tâm để

chữa bệnh dân trong vùng, rồi còn xem bệnh

đã tác hại như thế nào. Sư bà thử nghiệm,

không chỉ với bệnh hoạn mà còn trong những

vần đề về gia đình và xã hội.

  Về sau, khi vẫn còn trong rừng, Sư bà thấy

một nguồn ánh sáng lớn, chói lòa. Lúc đó Sư

bà đang ngồi thiền và bất chợt được vây phủ

bởi một nguồn ánh sáng vô cùng chói chang.

Ánh sáng trải rộng khắp nơi, hằng cây số và

Sư bà cảm nhận một niềm an lạc, sung mãn bất

khả tư nghị. Khắp nơi phủ đầy ánh sáng, ánh

sáng như trùm phủ cả những chỗ nhỏ bé nhất

Không có sông nào để vượt qua

trong không gian. Sau lần chứng nghiệm này,

ánh sáng luôn bao phủ Sư bà, Sư bà cảm như

mọi thứ, mọi vật đều giúp đỡ Sư bà.

   Sư bà nói, “Tôi không bao giờ tu tập để

thành Phật hay để giác ngộ. Tôi chỉ muốn biết

tôi là ai, tôi là gì, tại sao tôi lại được sinh ra.

Sau khi hiểu ra thân thể không phải là tôi, ý

thức không phải là tôi, sự quyết chí không

phải là tôi, tôi chỉ muốn biết thực sự tôi là gì,

khi gạt bỏ hết mọi thứ kia.”

   Có người hỏi Sư bà đã chứng đắc được gì

khi tu tập trên núi. Sư bà trả lời, “Mọi người

cứ nghĩ có nhiều giai đoạn chứng đắc cụ thể

khi tâm đã sáng tỏ. Tuy nhiên trên thực tế, ‘Vô

chứng’ mới là nguyên tắc chính cần chứng đạt.

Nếu bạn nói đã chứng đạt, đã đến nơi, đã nhận

ra được điều gì đó, là bạn đã không chứng đạt,

không đến nơi, không thức tỉnh. Không đến,

không chứng đắc, không sáng tỏ được điều gì

chính là con đường để đến, để chứng đắc, để

sáng tỏ.”

   Một người khác lại hỏi, nếu cần chứng đạo,

có phải lên núi tu tập như Sư bà không? Sư

bà trả lời, “Dĩ nhiên là không. Điều cốt tủy

là phải đem tâm tu tập, chứ không phải thân.

Tôi chỉ tu tập với những khó khăn phải đương

đầu, và những gì xảy ra là do hoàn cảnh riêng

tôi. Hồi đó tôi nghèo, không còn chỗ nào để

đi nên phải tu tập như vậy. Bất kể hoàn cảnh

của quý vị như thế nào, hãy đem hết tâm mà

tu tập.”

   Khoảng cuối những năm 1950, Sư bà sống

trong một túp lều nhỏ, dưới chùa Sangwon

ở núi Chiak chừng vài trăm mét. Sư bà sống

thêm mười năm ở đó và trong vùng quanh

thành phố Wonju, giúp đỡ những ai Sư bà gặp,

và học hỏi được thêm nhiều kinh nghiệm đa

dạng. Nghe đồn có Sư bà sống ở đó, nhiều

người đến gặp Sư bà xin được giúp đỡ về

những khó khăn gặp phải. Khi họ kể về những

khổ nạn, Sư bà xem như vấn đề đó là của

chính mình. Sư bà lắng nghe và chỉ nói, “Tôi

hiểu. Mọi chuyện rồi sẽ tốt đẹp”. Người ta từ

tạ, biết là những điều khó khăn của mình rồi

sẽ được giải quyết.

  Họ đến gặp Sư bà để xin giúp đỡ với những

vấn đề đang trực diện, nhưng trước sau gì thì

các chuyện khác lại xảy đến. Cho dù lo được

cho từng trường hợp cá biệt, nhưng Sư bà có

thể thấy là cũng không thể giúp họ đến tận

căn bản. Bởi thế, Sư bà tùy nghi dạy cho họ

Không có sông nào để vượt qua

biết nương tựa vào tánh Phật của chính mình,

vào bản tánh sẵn có, cùng dạy họ biết chính

Phật tánh đã hướng dẫn, giải quyết các vấn đề

cho họ. Có như vậy họ mới thoát ra được ràng

buộc của luân hồi, nghiệp báo, sống đời tự do.

   Năm 1972, Sư bà dời về thành phố Anyang,

phía nam của Hán thành và lập Trung tâm

thiền Hanmaum (Nhất tâm) đầu tiên. Sư bà

khởi sự dạy mọi người về bản tâm thực sự

của họ và làm thế nào để nương tựa bản tâm.

Nhiều người bị lôi cuốn bởi cách giảng dạy

của Sư bà vì Sư bà chỉ cho họ biết làm thế

nào để tu tập trong cuộc sống thường nhật,

bất kể họ bận rộn đến như thế nào, bất kể làm

việc gì, gia cảnh ra sao. Theo thời gian, Phật

tử ở những vùng xa hơn cũng xin Sư bà mở

thêm những trung tâm thiền Hanmaum trong

địa phương họ.

  Cứ như thế, đến năm 2007, đã có mười

lăm chi nhánh ở Đại Hàn và mười chi nhánh

ở ngoại quốc. Sư bà còn là giáo thọ cho hơn

180 sư cô, nhiều người trong số đó làm việc

tại trung tâm và giúp đỡ khách đến trung tâm.

(Thuần Tỉnh dịch)

Xem mục lục