Kinh Hạng Cùng Đinh
(Vasala Sutta)
Tôi có nghe như vầy:
 Vào một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa         của Trưởng Giả Anathapindika (Cấp Cô Độc) trong khu rừng         Jeta (Kỳ Viên). Sáng hôm nọ Đức Thế Tôn đắp y mang bát         vào thành Savatthi (Xá Vệ) để trì bình. Lúc bấy giờ trong nhà của Aggika Bharadvaja, một người         theo đạo Bà La Môn cũng chuẩn bị để dâng cúng vật         thực. Đức Thế Tôn ôm bát đi từ nhà này sang nhà khác         trong thành Savatthi và đến gần nhà của vị bà la môn.         Thấy Đức Phật từ xa đến, vị bà la môn nói: "Hãy đứng lại, này ông thầy tu! Hãy dừng lại, này         ông đạo bần tiện đê hèn! Hãy đứng lại đó, này người         cùng đinh khốn khổ !" [1] Khi nghe như vậy thì Đức Thế Tôn ôn tồn nói: Nầy ông         bà la môn, ông có biết người cùng đinh là thế nào, hay cái         gì làm cho người ta cùng đinh không? - Không, quả thật tôi không biết. Nầy Đức Gotama (Cồ         Đàm), tôi không hiểu cùng đinh là thế nào và những gì làm         cho ta là cùng đinh. Xin Đức Gotama hoan hỷ tuyên ngôn chỉ          dạy Giáo Pháp giúp tôi có thể hiểu biết thế nào là cùng          đinh và những gì làm cho người ta trở thành cùng đinh. - Hãy nghe đây, này ông bà la môn! Như Lai nói đây, và hãy         nhớ lấy nằm lòng. - Tốt lắm, này Đức Gotama, tôi nghe đây, ông bà la môn         trả lời. Đức Thế Tôn mở lời tuyên ngôn như sau: [2] 1. Con người dễ nóng giận, hay hiềm thù, có nhiều thói         hư tật xấu, tánh ưa phỉ báng gièm pha [3], người có quan         kiến sai lầm và bẩm tánh giả dối ưa gạt gẫm phỉnh         lừa - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh. 2. Người nào trên thế gian này làm tổn thương những chúng         sanh "sanh một lần" hay những chúng sanh "sanh hai         lần" [4], người không có lòng bi mẫn đối với chúng         sanh - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh. 3. Người nào tiêu diệt, vây hãm thôn xóm và được         gọi là người áp chế chinh phục - hãy biết rằng người          ấy là cùng đinh. 4. Dầu trong xóm làng hay trong rừng hoang, người nào         trộm cắp hoặc sang đoạt sở hữu của người khác mà không          được cho đến mình - hãy biết rằng người ấy là cùng          đinh. 5. Người nào mang nợ, bỏ trốn, và khi được hỏi,         lại nói ngược, "Nào tôi có thiếu nợ gì đâu" -          hãy biết rằng người ấy là cùng đinh. 6. Người nào vì lòng tham, giết bạn cùng đồng hành         với mình trên đường đi để cướp giật - hãy biết         rằng người ấy là cùng đinh. 7. Người nào được mời ra làm nhân chứng, nói lời         giả dối vì lợi riêng của mình, hay vì lợi ích của ai khác,         hoặc vì để thâu đoạt tài sản - hãy biết rằng người          ấy là cùng đinh. 8. Người nào dùng áp lực hãm hiếp hay dụ dỗ vợ bạn         hay họ hàng - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh. 9. Người nào giàu có mà không phụng dưỡng cha mẹ già          đã quá tuổi xuân xanh - hãy biết rằng người ấy là cùng          đinh. 10. Người nào đánh đập hay nói lời phiền nhiễu cha,         mẹ, anh, chị, hay nhạc mẫu, nhạc phụ - hãy biết rằng người          ấy là cùng đinh. 11. Người nào mà khi được hỏi về điều phải, khuyên         dạy về điều sai lầm và dạy mà còn giấu kín giữ bí         mật - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh. 12. Người nào đã làm điều ác mà muốn không ai biết,         và giấu nhẹm giữ kín - hãy biết rằng người ấy là cùng          đinh. 13. Người nào, khi đến nhà người được đãi đằng         với những món ngon vật lạ, đến lượt mình, khi khách đến         nhà lại không tiếp đón phải lẽ - hãy biết rằng người          ấy là cùng đinh. 14. Người nào giả dối lường gạt một vị Bà La Môn ,         một đạo sĩ ẩn dật, hay một tu sĩ du phương hành khất -          hãy biết rằng người ấy là cùng đinh. 15. Người nào bằng lời nói, phiền nhiễu một vị Bà         La Môn hay một đạo sĩ ẩn dật vào lúc thọ thực, và không         dâng cúng (vật thực) - hãy biết rằng người ấy là cùng          đinh. 16. Người nào trên thế gian này, bị mịt mù che lấp         trong vô minh, lại bày điều tiên đoán việc không có, để          cầu mong được gì - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh. 17. Người nào tự tâng bốc mình, khinh rẻ người khác,         và trở nên đê hèn vì tánh tự phụ của mình - hãy biết         rằng người ấy là cùng đinh. 18. Người nào có tánh ưa khuấy nhiễu, tham lam quá độ,          ham muốn đê hèn, ích kỷ, lưu manh, không biết hổ thẹn và         ghê sợ tội lỗi - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh. 19. Người nào nguyền rủa, mắng chửi Đức Phật hay         một vị đệ tử của Phật, dù là hàng xuất gia hay cư sĩ          tại gia - hãy biết rằng người ấy là cùng đinh. 20. Người nào không phải là một vị A La Hán mà mạo         nhận, tự xưng mình là A La Hán, là kẻ trộm của toàn         thể vũ trụ [6], người ấy là hạng cùng đinh thấp hèn         nhất. Như vậy, những hạng người mà Như Lai mô tả trên đây         quả thật đáng gọi là cùng đinh [7]. 21. Không [8] phải do sanh trưởng là cùng đinh [9], không         phải do sanh trưởng là Bà La Môn. Do hành vi là cùng đinh,         do hành vi là Bà La Môn. [10] 22. Hãy biết như vậy do câu chuyện này: [11] Thuở ấy có         Matanga, con một người cùng đinh, người "nấu thịt chó".         [12] 23. Người con tên Matanga này thành đạt mức vinh quang         tuyệt đỉnh rất khó thành đạt, và được nhiều người         thuộc giai cấp chiến sĩ và Bà La Môn hỗ trợ. 24. Đi đến cảnh giới Phạm Thiên bằng chiếc "xe         của thiên đình" [13] trên con đường "xa lộ không         dục vọng" [14], Matanga hiện thân lên [15] cảnh Phạm         Thiên, lánh xa mọi hình thức tham ái. Trạng thái sanh trưởng         (trong cảnh cùng đinh) không gây trở ngại cho sự tái sanh vào         cảnh Phạm Thiên. 25. Có những vị Phạm Thiên tái sanh vào gia đình truyền         giáo [16] quen thuộc với kinh kệ (Veda). Những vị này lắm         khi cũng có những hành vi xấu xa tội lỗi. 26. Trong kiếp này các vị ấy bị khinh khi, kiếp sống         tới họ sẽ bị lâm vào cảnh khổ. Sanh trưởng không giúp         họ tránh khỏi phải trái sanh vào khổ cảnh hay gặt hái         quả dữ. 27. Do sanh trưởng, người ta không trở thành cùng đinh,         do sanh trưởng, người ta không trở thành Bà La Môn. Trở thành         cùng đinh do hành vi, trở thành Bà La Môn do hành vi. Khi Đức Thế Tôn dạy như vậy vị Bà La Môn Aggika         Bharadvaja nói: "Lành thay, Bạch Đức Gotama! Lành thay, Bạch Đức         Gotama! Cũng như người kia dựng lại ngay ngắn một vật đã         bị lật đổ, hay khám phá ra một vật đã được giấu kín,         hay vạch đường chỉ lối cho người lạc bước, hay cầm          đèn soi sáng trong đêm tối để cho ai có mắt có thể trông         thấy, Giáo Pháp mà Đức Gotama giảng dạy bằng nhiều phương         cách dường thế ấy. "Bạch Đức Thế Tôn, nay con xin quay về nương tựa nơi         (quy y với) Đức Gotama, nơi Giáo Pháp và nơi Giáo Hội Các         Vị Đệ Tử của Ngài. Kính xin Đức Gotama từ bi chấp         nhận con vào hàng môn đệ ngay từ ngày này đến giờ phút         cuối cùng của đời con". -oOo- Chú Giải Bài Kinh Vasala Sutta: [1] "Những lời lẽ nặng nề, khiếm nhã của vị Bà         La Môn lúc bấy giờ rất trái ngược với thái độ tôn         nghiêm kính cẩn về sau đáng nên được có một lời giải         thích. Bản Chú Giải ghi rằng vào buổi sáng hôm ấy, như          thường lệ, Đức Phật dùng oai lực thần thông siêu phàm         nhìn quanh thế gian thì thấy vị Bà La Môn này đủ thuần         thục để quy y Tam bảo và thọ trì Giới Hạnh. Ngài ra đi          đặc biệt để gặp ông. Vị Bà La Môn sáng hôm ấy cũng         vừa cúng thần Brahma (Brahma-Puja) xong, tìm một điềm tốt,         tức một dấu hiệu may mắn, thì mắt vị ấy thấy một ông         "thầy tu trọc đầu" và một vị "Sa môn"         (Samana), cả hai đều là điềm không may, là dấu hiệu bất         tường, theo sự tin tưởng của người giữ đạo Bà La Môn.         Vì lẽ ấy khi thấy Đức Phật từ xa đến thì ông ta nổi         giận, tuôn ra những lời lẽ cộc cằn thô lỗ. Sau khi nghe những lời hoà nhã êm dịu của Đức Thế Tôn,          được thốt ra với một giọng nói hiền từ, và nhìn         thấy phong độ trầm tĩnh đầy bi mẫn của Đức Bổn Sư          thì vị Bà La Môn cảm nghe thẹn thùng và những lời của         ông về sau biểu lộ nỗi niềm ăn năn hối hận." --         (Kassapa Thero). [2]Vị Bà La Môn nổi cơn phẫn nộ vì cái mà ông cho là          điềm xấu. Đó là mới sáng sớm đã thấy một "thầy         tu trọc đầu". Ông cho đó là điềm bất tường nên nói         lên những lời cộc cằn khiếm nhã. Đức Phật không bao giờ trả thù mà lễ độ và trầm tĩnh         trả lời, không làm giảm giá trị ông Bà La Môn và cũng không         tự tâng bốc khen ngợi mình. Ngài không nói rằng người nóng         nảy lỗ mãng, ăn nói thô lỗ cộc cằn, quả thật là         "cùng đinh" - Vasala - theo đúng định nghĩa của danh         từ, mặc dù người ấy có thể được sanh ra từ trong đầu         của thần Brahma. Câu trả lời của Đức Thế Tôn làm cho ông Bà La Môn         cảm thấy rằng chính Đức Phật là một vị Bà La Môn         trong khi ông - người được gọi là Bà La Môn - đúng thật         là cùng đinh. [3] Makkha - thường được dịch là "đạo đức         giả", "ngụy thiện", giả dối. Đúng theo ngữ          nguyên là "bôi bỏ cái tốt của người khác". [4] Nơi đây Đức Thế Tôn dùng danh dừ "sanh hai         lần", theo văn thể thường dùng trong kinh sách Bà La Môn. Ekajam-Dvijam, những chúng sanh "sanh một lần",         tức tất cả chúng sanh, loại trừ loại noãn sanh, như chim         chóc hay những loài được sanh ra từ trong trứng. "Sanh         hai lần", một lần trong trứng và một lần nữa trong         trứng sanh ra. [5] A La Hán. Một vị thánh toàn thiện đã tận diệt         mọi ô nhiễm. [6] "Sabrahmake loke" theo nghĩa trắng là: trong thế          gian cùng với chư Phạm Thiên, tức toàn thể vũ trụ (Bản         Chú Giải). [7] Trong 20 câu, Đức Phật kể ra ba mươi bốn loại điều         kiện làm cho con người trở thành cùng đinh. Câu đầu tiên Ngài đề cập đến sáu loại điều kiện         như sân hận v.v...; trong câu thứ nhì, Ngài đề cập đến         sự kiện làm tổn thương chúng sanh khác; thứ ba, đến sự          áp bức, chinh phục; thứ tư, đến sự trộm cắp; thứ năm,          đến sự gian lận, nợ nần; thứ sáu, đến sự cướp         giựt; thứ bảy, đến sự làm chứng gian để vụ lợi;         thứ tám, đến tánh nết giả dối phản bội; thứ chín, đến         sự không biết ơn cha mẹ; thứ mười, đến sự đánh đập         và quấy rầy những người sống quanh; thứ mười một, đến         sự tự lừa dối, lường gạt mình; thứ mười hai, đến         sự gây tội ác và giấu nhẹm, giữ kín trong lòng; thứ mười         ba, đến tánh vô ân bạc nghĩa; thứ mười bốn, đến sự          giả dối lường gạt; thứ mười lăm, đến sự nguyền         rủa chửi mắng người tu hành; thứ mười sáu, đến sự          gian lận; thứ mười bảy, đến tánh tự cao, tự đại và         khinh rẻ người khác; thứ mười tám, đến bảy điều         kiện như chửi mắng v.v...; thứ mười chín, đến việc         xử tồi tệ với Đức Phật và chư vị đệ tử; thứ hai         mươi, giả dối tự xưng mình là bậc A La Hán. Không xét đoán người qua sự sanh trưởng mà qua hành vi,         bậc Thánh Nhân gọi ba mươi bốn loại người ấy là hạng         người cùng đinh. [8] Đức Phật nói lên câu này nhằm đánh tan quan kiến         sai lầm mà vị Bà La Môn khư khư cố chấp. [9] Theo Bản Chú Giải, "Vasala", cùng đinh, là người         bị những đám mưa (vassanto) làm cho hành động bị ô         nhiễm, và Bà La Môn là người quét sạch, đánh tan (bahento)         mọi ô nhiễm bằng những hành động trong sạch. Trong bản         dịch này danh từ "Brahmana" ám chỉ các bậc A La Hán,         danh từ "brahmin" thì chỉ những người trong giai         cấp Bà La Môn. [10] Comp: "Sự sanh trưởng không làm cho con người         thuộc về giai cấp Bà La Môn, cũng không làm cho con người         không phải ở trong giai cấp Bà La Môn. "Chính đời sống và hành vi uốn nắn, làm cho con người         trở nên thật sự là Bà La Môn. Cuộc sống uốn nắn làm cho con người trở nên nông dân,         thương gia, nô bộc ; Cuộc sống uốn nắn làm cho con người trở nên kẻ          trộm cắp, chiến sĩ, quan quyền." [11] Đức Phật muốn nhắc đến một câu chuyện trong         tiền kiếp xa xôi của Ngài, khi là con một người cùng đinh.         Lúc bấy giờ Ngài tên Matanga, có một cuộc sống đức         hạnh phi thường, làm cho mọi người đều khâm phục và         sau đó tái sanh vào cảnh Trời Phạm Thiên. Xem Túc Sanh         Truyện Matanga Jakata, số 497. [12] Candala, cùng đinh, có nghĩa là giai cấp thấp hèn;         Sopaka có nghĩa là người nấu thịt chó để ăn, ám chỉ          một lối sống thấp kém; và Matanga là tên của con người         cùng đinh ấy (Bản Chú Giải). [13] Chiếc xe của thiên đình. Tức là Bát Chánh Đạo, có         tác dụng đưa chúng sanh đến cảnh giới Phạm Thiên (Brahma         realm). [14] Con đường "xa lộ không dục vọng" là con          đường mà các bậc vĩ nhân như Đức Phật v.v... đã đi trên          đó. [15] Sau khi cơ thể tan rã. [16] Những vị hằng ngày dấn thân trong việc học kinh         Phệ Đà (Veda).
