Trong Kinh Pháp Cú, đức Phật dạy:
“Yo ca vassasatam jive,
Dussilo asamahito,
Ekaham jivitam seyyo,
Silavantassa jhayino.”
Dầu sống trong cả trăm năm
Không giới, không thiền định,
Cuộc đời người như vậy
Không có gì đáng khen.
Tốt hơn sống chỉ một ngày
Mà biết hành giới, tu thiền định tâm.
Vì sao? Vì tâm khi được tu tập sung mãn qua thiền định có thể phát sinh trí tuệ thâm sâu, tức có thể thấy Niết Bàn, chấm dứt vòng sanh tử luân hồi, hủy diệt mọi phiền não và khổ đau.
Vì thế chúng ta phải hành thiền chỉ và thiền quán dựa trên giới. Khi hành chỉ - quán, chúng ta phải hành Tứ Niệm Xứ (Cattaro satipatthana):
1. Niệm thân (Kayanupassana satipatthana)
2. Niệm thọ (Vedananupassana satipatthana)
3. Niệm tâm (Cittanupassana satipatthana)
4. Niệm pháp (Dhammanupassana satipatthana)
Cái gì lần “thân” (kaya)? Trong thiền minh sát có hai loại thân: sắc than (rupa-kaya) và danh thân (nama-kaya). Sắc thân là một tổng hợp hai mươi tám loại sắc. Danh thân là một nhóm các tâm và tâm sở của chúng. Nói cách khác, hai thân ở đây là năm uẩn (khandha)- sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
Nhưng những đối tượng của thiền chỉ (samatha) như là hơi thở, ba mươi hai thể trược (asubha) và tứ đại cũng được gọi là thân. Vì sao? Chúng cũng là nguyên khối sắc. Chẳng hạn. hơi thở là một nhóm các tổng hợp sắc do tâm tạo. Nếu phân tích các tổng hợp sắc ấy, chúng ta sẽ thấy có chín loại sắc trong mỗi tổng hợp: đất, nước, lửa, gió, màu, mùi, vị, dưỡng chất và (âm) thanh (sắc cảnh thinh). Bộ xương cũng là nguyên khối của các tổng hợp sắc. Nếu là một cơ thể sống thì có tổng cộng năm loại tổng hợp sắc. Nếu phân tích các tổng hợp sắc ấy, chúng ta thấy có bốn mươi loại sắc.
Trong phần niệm thân, đức Phật dạy hai loại thiền: Chỉ và Quán. Trong mục quán thân, Ngài gồm luôn niệm hơi thở (anapanasati) và ba mươi hai thể trược v.v… Vì thế, nếu hành giả đang hành niệm hơi thở, hành giả cũng đang hành quán thân. Tất cả những pháp thiền chỉ ấy đều đi vào phần quán thân. Sau khi hành giả đã thành công trong việc hành thiền chỉ, hành giả chuyển sang thiền minh sát và thấy hai mươi tám loại sắc.
Như thế cũng đang hành quán thân. Vào lúc hành phân biệt danh (namakammatthana), khi hành giả phân biệt các cảm thọ, thì đó là quán thọ; là quán pháp. Nhưng chỉ phân biệt thọ, tâm và xúc thôi thì chưa đủ để đắc các tuệ minh sát. Vì thế, chúng ta phải phân biệt các tâm sở còn lại. Sau khi đã phân biệt xong danh và sắc, chúng ta còn phải phân biệt các nhân của chúng trong quá khứ, hiện tại và vị lại. Đây là tuệ phân biệt Nhân Duyên (paccaya-pariggaha nana). Sau tuệ phân biệt Nhân Duyên, tức là khi hành giả đã đạt đến giai đoạn minh sát (vipassana), hành giả có thể nhấn mành vào sắc, hoặc thọ, tâm hay xúc. “Nhấn mạnh” ở đây không có nghĩa là hành giả chỉ phân biệt duy nhất một trạng thái. Hành giả có thể nhấn mạnh sắc nhưng cũng không bỏ quên danh. Tức là, hành giả cũng phải phân biệt thọ, tâm và pháp nữa.
Hành giả có thể nhấn mạnh các cảm thọ. Nhưng các cảm họ thôi chưa đủ. Hành giả còn phải ppha6n biệt các tâm hành đồng sanh với chúng, các căn của chúng và các đối tượng của chúng. Năm căn và các đối tượng của chúng là sắc. Đối với các tâm và pháp cũng như vậy.
Vì thế ở đây, Vipassana là quán tính vô thường, khổ, vô ngã của danh sắc và các nhân của chúng. Các pháp ấy diệt ngay khi chúng vừa sanh lên, đó là vô thường. Chúng bị đàn áp bởi sự sanh diệt liên tục, đó là khổ. Trong các pháp ấy không có tự ngã, không có gì bền vững, thường hằng và bất tử, đó là vô ngã. Sự phân biệt tính vô thường, khổ và vô ngã của danh-sắc và các nhân, các quả của chúng được gọi là thiền minh sát. Khi một hành giả hành thiền chỉ và quán, có thể nói hành giả ấy đang hành Tứ Niệm Xứ.
Khi hành Tứ Niệm Xứ, hành giả phải đề khởi đủ Tứ Chánh Cần. Đó là
1. Tinh tấn ngăn không cho những bất thiện pháp khởi sanh
2. Tinh tấn trừ diệt các bất thiện pháp đã sanh
3. Tinh tấn phát khởi những thiện pháp chưa sanh (định thiện pháp, minh sát thiện pháp, Thánh đạo thiện pháp v.v…)
4. Tinh tấn tu tập các thiện pháp cho đến A la hán Thánh quả.
Trích “Biết và Thấy”
Thiền sư PA-AUK SAYADAW
Pháp Thông dịch
NXB: TÔN GIÁO, 2006
Bài này được viết để thành kính tưởng niệm bổn sư Hòa Thượng Thích Tịch Chiếu (1912-2016), vị trụ trì quá cố của Chùa Tây Tạng Bình Dương, trong tuần lễ tròn
Một hôm, Thiền Sư Dược Sơn Duy Nghiễm đang ngồi thiền, một nhà sư hỏi ngài, “Thầy suy nghĩ gì khi ngồi yên ở đây?”.Vị thầy trả lời, “Ta suy nghĩ cái
Một chữ ngộ, môn hạ Tổ Sư gọi là thuốc độc, hãy còn chẳng lưu lại, huống là ngộ ư? Nay chẳng tránh phạm húy, mà nói đến chữ ngộ, khiến trí
Vị Bồ-Tát thường ưaAn-ổn nói kinh phápỞ nơi chỗ thanh-tịnhMà sắp đặt sàng tòaDùng hương dầu xoa thânTắm gội các bụi dơMặc y mới sạch-sẽTrong ngoài đều sạch thơmNgồi an nơi pháp-tòaTheo
Là một người thực hành, Bạn phải có niềm tin, sự kiên trì, từ bỏ và tỉnh ngộ. Bạn phải buồn rầu và nhàm chán đối với sinh tử, và nỗ lực
QUAN HỆ THẦY TRÒ Theo Tinh thần Kinh Kế thừa Chánh pháp Thầy, vầng mây bậc, thong dong, núi cao biển rộng Con, cánh nhạn chiều, chân trời sải cánh, dõi theo Thầy,
Giữ giới là lựa chọn tự do Giới luật của Phật giáo có nghĩa là: “Anh đừng tự làm thương tổn mình, anh đừng tự làm hại mình”. 1. Tự do của lệ thuộc
Đạo Phật là gì Lama Zopa and Lama Yeshe Khi bạn tìm hiểu về đạo Phật tức là bạn đang tìm hiểu về con người thật của mình, về bản chất của tâm trí
Vô minh bẩm sinh & Vô minh văn hóa(VHPG) Mọi kinh nghiệm của chúng ta, kể cả giấc mộng, khởi lên từ vô minh. Đây là một tuyên bố làm hoảng hốt