Những vấn đề của         kiếp nhân sinh
Con người là ai? Từ đâu đến? Đi về đâu? Tại sao? Mục tiêu là gì?
 Đó là vài thắc mắc quan trọng thường làm bận tâm toàn         thể nhân loại. Chúng ta hãy tuần tự nghiên cứu, khởi đầu bằng cách         khảo sát những gì tự nó biểu hiện hiển nhiên, mọi người          đều có thể nhận ra. 1. Con người là gì? Con người có một cơ thể vật chất mà giác quan của chúng         ta có thể cảm nhận trực tiếp hay xuyên qua những dụng         cụ. Cơ thể vật chất này bao gồm những năng lực và         những tính chất luôn luôn biến chuyển. Nhà khoa học nhận thấy khó mà định nghĩa vật chất là         gì? Vài triết gia giải rằng: "Vật chất là cái gì         trong đó có những biến đổi liên tục diễn tiến gọi là         di động, và di động là những biến chuyển ấy, xảy         diễn bên trong vật chất." [1] Danh từ Pali gọi vật chất là "Rupa", Sắc. Sắc          được giải thích là cái gì biến đổi và hư hoại. Sắc         hay vật chất cũng được giải thích là cái gì tự mình         biểu hiện thành hình. Theo Phật Giáo, vật chất được cấu thành do bốn nguyên         tố căn bản là: Pathavi (Đất), Apo (Nước), Tejo (Lửa) và         Vayo (Gió). Pathavi (Đất), là nguyên tố có đặc tính duỗi ra, nền         tảng của vật chất. Nếu không có nguyên tố Đất, vật         thể không thể chiếm không gian. Tính chất cứng hay mềm         chỉ là hai điều kiện tương đối của nguyên tố Đất.         Nguyên tố Đất luôn luôn hiện hữu trong đất, nước,         lửa và không khí. Thí dụ như nước ở lớp dưới nâng đỡ          nước ở lớp trên. Chính nguyên tố Đất có đặc tính         duỗi ra hợp với nguyên tố Gió có đặc tính di động, đã         tạo áp lực hướng lên trên và do đó nâng đỡ lớp nước          ở phần trên. Nước nóng hay lạnh là do nguyên tố Lửa         (Tejo). Thể lỏng của nước do nguyên tố Nước (Apo). Apo (Nước) là nguyên tố có đặc tính kết hợp lại và         làm dính liền. Không giống như đối với nguyên tố Đất,         ta không thể cảm giác nguyên tố Nước (Apo) bằng xúc giác,         tức không thể hay biết nó được bằng cách sờ đụng. Đây         là nguyên tố có đặc tính kết hợp lại, làm dính liền         nhau những phần tử rời rạc của vật chất và cho ta ý         niệm vật thể. Tejo (Lửa) là nguyên tố có đặc tính nóng. Lạnh cũng là         một hình thức của Lửa (Tejo). Cả hai, nóng và lạnh, đều         là đặc tính của Lửa, bởi vì cả hai đều có khả năng         làm đổi thay, làm cho già, chín hay nói cách khác, tạo sinh         lực cho vật thể. Một vật được duy trì gìn giữ lâu         bền, hay bị hư hoại là do nguyên tố Lửa. Vajo (Gió) là nguyên tố có đặc tính di động. Có sự          chuyển động là do nơi nguyên tố này. Trạng thái di động          được xem là năng lực hay nguyên động lực làm phát sanh hơi         nóng. Di động và sức nóng trong lãnh vực vật chất cũng tương          ứng với nhau gống như tâm và nghiệp trong phạm vi tinh         thần. Bốn năng lực hùng mạnh này tương quan với nhau mật         thiết mà không thể tách rời lìa khỏi nhau. Nhưng trong         một vật thể, thành phần này có thể trội hơn là thành         phần khác. Như trong đất chẳng hạn, nguyên tố Đất         trội hơn ba nguyên tố kia. Trong nước thì nguyên tố Nước         trội hơn v.v... Như vậy, Sắc (Rupa) bao gồm những năng lực và những tính         chất trong trạng thái luôn luôn biến chuyển, không bao giờ          tồn tại giống hệt trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Theo         Phật Giáo, Sắc (Rupa) chỉ tồn tại trong thời gian 17 chặp         tư tưởng. [2] Theo các nhà sinh vật học, vào lúc bà mẹ thọ thai, con         người cbỉ thừa hưởng nơi cha mẹ một tế bào cực kỳ          vi tế là một phần ba chục triệu (1/30.000.000) bề kính,         của một phân Anh (inch). "Trong vòng chín tháng, đốm         nhỏ cực vi này trở thành một khối sinh vật 15.000 triệu         lần lớn hơn lúc ban sơ. [3]" Tế bào vật-lý-hóa này là         nền tảng vật chất của con người. Theo Phật Giáo, nam tính         hay nữ tính của một người được quyết định vào lúc         mẹ thọ thai. Phối hợp với phần vật chất (Sắc), trong guồng máy         phức tạp của con người còn có một yếu tố quan trọng.          Đó là cái Tâm. Cũng như có vài tác giả uyên thâm thích nói,         rằng con người không phải là "Tâm cọng với Thân",         hay "Danh và Sắc", mà là "Danh-Sắc", một         sự phối hợp chặt chẽ giữa hai thành phần - vật chất và         tâm linh. Các nhà khoa học nói rằng đời sống khởi sanh         từ vật chất, và tâm (phát sanh) từ đời sống. Nhưng các         vị này không cung ứng cho ta một giải thích thỏa đáng         về lịch trình phát triển của tâm. Không giống như cơ thể vật chất, tâm không có hình         thể và ta không thể thấy. Mặc dù vậy ta có thể trực         tiếp thọ cảm. Có hai câu nói của người thời xưa như          sau: "Tâm là gì? - Không có vật chất Chúng ta hay biết những tư tưởng, những cảm giác v.v...         bằng cách trực tiếp tri giác, và chúng ta suy luận rằng người         khác cũng tri giác cùng một thế ấy. Tiếng Pali có nhiều danh từ để chỉ cái Tâm, trong đó         ba danh từ "mana", "citta" và "vinnana"         là thông dụng nhất. Chúng ta hãy so sánh căn "man",         có nghĩa suy tư, với chữ "man" trong tiếng Anh, có         nghĩa con người, và Phạn ngữ "manussa", có nghĩa người          đã có tâm thức được phát triển. Trong Phật Giáo không có sự phân biệt giữa "tâm"         (citta) và "thức" (vinnana). Hai danh từ này được         sử dụng đồng nghĩa với nhau. Tâm chỉ giản dị được          định nghĩa là "sự hay biết đối tượng", bởi vì         không có một thực thể tác động, hay một linh hồn chỉ         đạo tất cả những sinh hoạt tâm linh. Chỉ có những         trạng thái tâm luôn luôn sanh rồi diệt, nhanh như chớp. Sông         từ nguồn chảy ra biển cả. Trong dòng trôi chảy, sông         tiếp nhận những luồng nước mới từ các rạch ngòi đổ          vào. "Với sự sanh là nguồn và tử là cửa biển, tâm          đều đặn trôi chảy như một dòng sông, không ngừng tiếp         nhận những luồng nước khác nhau do các rạch ngòi giác         quan cung ứng." Mỗi chặp tư tưởng (sát na tâm) của dòng đời luôn luôn         biến đổi này khi diệt, chuyển trao tất cả năng lực,         tất cả những cảm xúc đã thâu nhận và không thể xóa         bỏ, cho chập tư tưởng kế đến. Như vậy, mỗi chặp tư          tưởng mới bao gồm những tiềm năng của chặp trước và         thêm vào những gì khác. Vì tất cả những cảm xúc đã          được ghi nhận vững chắc trong cái tâm luôn luôn biến đổi,         và bởi vì tất cả những tiềm năng đều được chuyển         trao từ kiếp sống này sang kiếp khác nên có người còn có         thể nhớ lại tiền kiếp, hoặc một vài diễn biến của         tiền kiếp, mặc dù cơ thể đã trải qua giai đoạn tạm         thời hoại diệt. Nếu trí nhớ chỉ tùy thuộc vỏn vẹn nơi         bộ óc, thì khi cân não hoại diệt cùng với cơ thể vật         chất ắt không ai còn hồi nhớ gì. Như điện lực, tâm có khả năng rất hùng mạnh, để xây         dựng cũng như để tiêu diệt, như một khí giới bén cả          hai bề, mà ta có thể xử dụng để làm điều phải hay điều         quấy. Chỉ một tư tưởng phát sanh trong cái tâm vô hình này         cũng có thể cứu vãn hay tiêu diệt thế gian. Một ý nghĩ có         thể giúp an cư lạc nghiệp hay tàn phá toàn thể một quốc         gia. Chính tâm tạo thiên đàng cho ta, cũng chính tâm tạo địa         ngục cho ta. Ouspenky viết: "Về năng lực ngủ ngầm trong các hiện tượng tâm         linh, chẳng hạn như trong những tư tưởng, những cảm giác,         những ham muốn, chúng ta khám phá rằng tiềm năng của nó càng         vô lượng vô biên hơn. Do kinh nghiệm bản thân, do công trình         khảo sát, do những văn kiện lịch sử, chúng ta biết rằng         những ý nghĩ, những cảm giác, những ham muốn, tự nó         biểu hiện, có thể phóng thích vô năng lực và tạo nên         chuỗi dài vô tận những hiện tượng. Một tư tởng có         thể tác động trong nhiều thế kỷ, nhiều ngàn năm, chỉ tăng         trưởng và ăn sâu thêm, không ngừng khơi dậy những hiện         tượng mới, luôn luôn giải phóng những năng lực mới. Chúng         ta biết rằng tư tưởng tiếp tục sống và tác động chí          đến khi chánh danh tánh của người tạo ra nó đã biến thành         nhân vật của thần thoại truyền kỳ, như tên tuổi của các         vị đã sáng lập những tôn giáo cổ xưa, những thi gia         thời cổ đã làm ra những vần thơ bất hủ, các đấng anh         hùng, những bậc lãnh đạo và những nhà tiên tri. Lời nói         của các vị này vẫn còn được vô số những cặp môi         lặp đi nhắc lại và vẫn còn được chúng ta học hỏi và         luận bình. "Mỗi tư tưởng của một nhà thơ chắc chắn chứa          đựng tiềm năng vô cùng trọng đại - như năng lực tiềm          ẩn trong một cục than đá hay một tế bào sống - nhưng cũng         vô cùng vi tế, không thể cân lường, nhưng thật sự hùng         mạnh." -- (Ouspenky - "Tertium Organum", trang 125). Chúng ta thử khảo sát tiềm năng chứa đựng trong những         lời dạy có ý nghĩa sau đây của Đức Phật: Manopubbangama dhamma - manosettha manomaya. Theo Phật Giáo, tâm hay thức phát hiện ngay vào lúc được         thọ thai, cùng một lúc với phần vật chất. Như vậy,         thức vẫn có hiện hữu trong thai bào. Cái thức sơ khởi          ấy mà kinh sách gọi là thức tái sanh, hay thức nối liền         khởi sanh do nghiệp quá khứ của đương sự tạo duyên.         Sự khác biệt tế nhị về tinh thần, trí thức và đạo đức         giữa những người khác nhau của nhân loại là do cái thức          được nghiệp quá khứ tạo duyên của mỗi người. Thức tái         sanh là yếu tố thứ nhì của con người. Yếu tố thứ          nhất là phần vật chất, do cha mẹ cung cấp. Để cho đủ ba thành phần tạo nên con người, còn có         yếu tố thứ ba, hiện tượng sống, tạo sinh lực cho cả          hai, tâm và vật chất, hay Danh và Sắc. Do có sinh lực, thai         mới trụ và có sự tái sanh. Sinh lực biểu hiện trong cả          hai hiện tượng, vật chất và tâm linh. Danh từ Pali để          chỉ hai hình thức sinh lực ấy là Namajivitindriya, Danh Sinh         Lực và Rupajivitindriya, Sắc Sinh Lực, tức sức sống của tâm         linh và sức sống của cơ thể vật chất. Như vậy, vật chất, tâm và sinh lực là ba yếu tố khác         biệt tạo nên con người. Với sự phối hợp của ba yếu         tố này một năng lực gọi là con người được hình thành         với những khả năng không thể quan niệm được. Con người         tự tạo nên mình, cũng chính con người tự tiêu diệt lấy         mình. Bên trong con người có một đống rác tật xấu và         một kho tàng đức hạnh. Ta có thể tìm thấy trong con người         bản chất sâu bọ, cầm thú, người, siêu nhân, trời,         Phạm Thiên. Những khuynh hướng tội lỗi và những tâm tánh         thánh thiện đều có ngủ ngầm trong đó. Con người có         thể là một phước lành hay một tội khổ cho mình và cho         kẻ khác. Trong thực tế, con người tự mình là cả một         thế giới. 2. Từ Đâu Đến? Là câu hỏi thứ nhì. Khởi thủy, con người phát sanh như          thế nào? Hoặc có một khởi điểm từ đó con người bắt đầu         hiện hữu, hoặc không có khởi điểm. Những gì thuộc trường         phái đầu chủ trương có một nguyên nhân đầu tiên, một         năng lực của vũ trụ, hay một Thần Linh Vạn Năng. Trường         phái thứ nhì phủ nhận một nguyên nhân đầu tiên bởi vì         theo kinh nghiệm chung, nhân trở thành quả và quả trở thành         nhân, trong một tiến trình mãi mãi liên tục. Trong vòng         quanh nhân-quả, ta không thể quan niệm một khởi điểm.         Theo luồng tư tưởng đầu thì có một khởi điểm. Luồng         tư tưởng thứ nhì chủ trương không có. Theo nhận xét         của vài người, quan niệm có một nguyên nhân đầu tiên cũng         vô lý như quan niệm có hình tam giác mà tròn. Theo quan điểm của khoa học, con người là sản phẩm         tực tiếp của tinh trùng và minh châu do cha và mẹ cung          ứng. Trong khi quả quyết, "Omne vivum ex vivo" - tất         cả sự sống đều phát sanh từ sự sống - nhà khoa học cũng         chủ trương rằng tâm và sự sống phát nguyên từ trạng thái         không có sự sống. Theo Phật Giáo, con người được sanh ra từ bào thai hành          động (kammayoni, bào thai nghiệp). Cha mẹ chỉ cung ứng         phần vật chất. Như vậy, chúng sanh đến trước chúng         sanh. Vào lúc được thọ thai, chính nghiệp tạo duyên để          thức đầu tiên làm nguồn sống cho thai bào. Chính nghiệp         lực vô hình phát sanh từ kiếp sống quá khứ tạo những         hiện tượng "tâm linh" và hiện tượng "sinh         lực" trong hiện tượng "vật chất" sẵn có,         hội đủ ba yếu tố (tam nguyên) cấu thành con người. Đề cập đến vấn đề thọ thai của chúng sanh, Đức         Phật tuyên ngôn: "Nơi nào có đủ ba yếu tố phối hợp là mầm           sống bắt đầu. Nếu cha và mẹ gặp nhau mà không nhằm           thời kỳ thọ thai của mẹ và không có một chủng tử            (gandhabba), thì không có mầm sống. Nếu cha mẹ gặp nhau vào           thời kỳ thọ thai của mẹ mà không có một chủng tử            hiện hữu, thì cũng không có mầm sống. Nếu cha và mẹ            gặp nhau vào thời kỳ thọ thai của mẹ và có một           chủng tử hiện hữu, chừng ấy, do sự phối hợp của ba           yếu tố, sự sống bắt đầu." Nơi đây danh từ "gandhabba", được phiên dịch là         chủng tử, là một chúng sanh sẵn sàng được sanh vào bào         thai, chỉ dùng trong trường hợp riêng biệt này. Ta không nên         lầm lẫn với một linh hồn trường cửu. Cho đặng có một chúng sanh được thọ thaiở nơi này         phải có một chúng sanh chết ở một nơi nào khác. Cái sanh         của một chúng sanh trong hiện tại tương ứng với cái         chết của một chúng sanh trong kiếp vừa qua; cũng giống như          thông thường ta nói rằng mặt trời mọc ở một nơi có         nghĩa là mặt trời lặn ở một nơi khác. Đức Phật dạy rằng: "Một khởi điểm đầu tiên         của chúng sanh - vốn bị che lấp mù mịt trong vô minh, bị          trói bộc chặt chẽ trong ái dục, và triền miên lang thang         bất định - quả thật không thể quan niệm." Dòng đời trôi chảy vô cùng tận ngày nào còn tiếp         nhận bùn nhơ nước đục của vô minh và ái dục. Chỉ khi         nào chặn đứng được hai luồng rạch ngòi ô nhiễm này,          đời sống mới ngừng trôi chảy, hiện tượng tái sanh         mới không còn xảy diễn, như trường hợp chư Phật và chư          vị A La Hán. Trong khi còn mang nặng vô minh và ái dục ta không         thể nhận thức khởi điểm cùng tột của dòng đời. Đức         Phật chỉ đề cập đến như "khởi thủy dòng đời"         của chúng sanh. Hãy để cho các nhà khoa học suy cứu về          vấn đề này. 3. Đi về đâu? Là câu hỏi thứ ba. Từ đây rồi con người sẽ đi về         đâu? Theo chủ thuyết vật chất của thời xưa - mà danh từ          Pali và Sanskrit đều gọi là Lokayata - con người hoàn toàn         tuyệt diệt sau khi chết, bỏ lại sau lưng bất luận năng         lực nào phát nguyên trong đời sống. "Con người do bốn nguyên tố cấu thành. Khi chết         rồi thì nguyên tố Đất trở về và tan biến trong lòng đất;         nguyên tố Nước trở về với nước; nguyên tố Lửa trở          về với lửa và nguyên tố Gió trở về hòa tan trong không         khí; giác quan tan biến trong không gian. Người trí cũng như          kẻ ngu, một khi thể xác tan rã thì tất cả chấm dứt,         hoại diệt, không còn tồn tại nữa. Không có thế gian nào         khác. Cái chết là mức tận cùng của tất cả. Chỉ có         thế gian hiện tại là thật có. Cái được gọi là thiên          đàng trường cửu và địa ngục là những phát minh của         hạng người gian manh mong vụ lợi." [5] Người sống theo chủ thuyết duy vật chỉ tin những gì mà         giác quan có thể cảm nhận. Do đó, chỉ có vật chất là         thực tại. Nguyên tắc cùng tột là Tứ Đại: Đất, Nước,         Lửa, Gió, và từ đó đời sống tâm linh nhảy vọt ra một         cách bí ẩn, giống như ông thần xuất hiện khi Aladin chà         tay trên cây đèn. Não tiết ra tư tưởng giống như gan         tiết ra mật. Dưới cái nhìn của con người duy vật, tin có một thế          giới khác "là giấu hiệu của sự giả dối ươn hèn         của người có tính đàn bà, yếu ớt, hèn nhác và bất lương",         như ngài Radhakrishna tuyên bố. Theo Cơ Đốc Giáo, con người không có dĩ vãng. Hiện         tại chỉ là thời gian chuẩn bị để tiến đến hoặc thiên          đàng vĩnh cửu, hoặc địa ngục trường tồn. Dù xem đó là         hai nơi chốn hay hai trạng thái trong tương lai, con người         sẽ hưởng lạc thú vô cùng tận trên thiên đàng, hoặc vĩnh         viễn phải chịu đau khổ dưới địa ngục. Vậy sau khi         chết, con người không tuyệt diệt mà phần tinh túy sẽ vĩnh         cửu trường tồn. Schopenhaeur nói: "Bất cứ ai tự xem mình được sanh ra từ hư không cũng         phải nghĩ rằng mình sẽ trở lại thành hư không; hoặc         nữa, cho rằng trước khi có mình đã có một quá khứ vô         tận, rồi một thời gian vô tận thứ nhì lại bắt đầu,         và xuyên qua thời gian ấy, ta không bao giờ ngừng sống.         Thật là một ý nghĩ quái dị." Tín đồ Ấn Độ Giáo tin có quá khứ và hiện tại, và         không chủ trương rằng sau khi chết con người sẽ hoàn toàn         tiêu diệt. Họ cũng không cho rằng con người sẽ vĩnh cửu         trường tồn. Họ tin có một chuỗi dài những kiếp sống         quá khứ và vị lai. Theo họ, luồng sống của con người         chảy trôi vô cùng tận ngày nào mà nghiệp lực, tức năng         lực của hành động còn đủ sức đưa đẩy. Vào đúng lúc,         tinh hoa của con người có thể nhập trở vào Thực Tại Cùng         Tột (Paramatma), cái Đại Hồn mà từ đó linh hồn đã phát         xuất. Phật Giáo tin có hiện tại, rồi căn cứ trên hiện         tại, suy diễn rằng có quá khứ và vị lai. Cũng như ánh sáng          điện là sự biểu hiện ra bên ngoài của luồng điện         lực vô hình, cùng thế ấy, con người chỉ là sự biểu         hiện ra ngoài của năng lực vô hình gọi là Nghiệp - Kamma.         Bóng đèn điện có thể bể và ánh sáng có thể tắt, nhưng         luồng điện vẫn còn và ánh sáng có thể trở lại khi         gắn vào đó một cái bóng khác. Cũng dường thế ấy,         luồng Nghiệp Lực vẫn trôi chảy như thường, không bị          sự tan vỡ của cơ thể vật chất làm xáo trộn. Tâm thức         của người lâm chung trong hiện tại chấm dứt và khi chấm         dứt, tạo duyên cho một tâm thức mới phát sanh trong kiếp         sống kế. Nơi đây luồng điện giống như luồng Nghiệp và         cái bóng đèn mới có thể ví như tế bào trứng của cha         mẹ. Nghiệp quá khứ tạo điều kiện cho sự sanh trong hiện         tại, và Nghiệp hiện tại, phối hợp với Nghiệp quá         khứ, tạo điều kiện cho kiếp sống tương lai. Hiện tại         là con đẻ của quá khứ, rồi đến lượt mình, trở thành         cha mẹ của vị lai. Như vậy, chết không phải là hoàn toàn tuyệt diệt,         bởi vì mặc dù không phải kiếp sống này chấm dứt, cái         năng lực tạo sự sống cho nó không bị tiêu diệt. Sau khi         chết, dòng sinh lực của con người tiếp tục trôi chảy vô         cùng tận, ngày nào mà những luồng nước vô minh và ái         dục còn được cung cấp để dưỡng nuôi nó. Theo ngôn         ngữ chế định thông thường, chúng ta nói rằng con người         không nhất thiết phải tái sanh lại làm người, bởi vì         con người không phải là chúng sanh duy nhất. Hơn nữa, quả         địa cầu, hầu như chỉ là một điểm nhỏ không đáng         kể trong vũ trụ bao la, không phải là nơi chốn duy nhất mà         chúng sanh có thể tái sanh vào. Sau khi chết con người có thể tái sanh vào một cảnh         giới khác. [6] Nếu muốn chấm dứt chuỗi dài những kiếp sống triền         miên, con người có thể làm như Đức Phật và chư vị A La         Hán đã làm để chứng ngộ Niết Bàn, chấm dứt trọn         vẹn mọi hình thức ái dục. 4. Con người đi về đâu? Con người có thể đi bất cứ nơi nào mình muốn, bất         luận nơi nào mình quyết chí đi nếu hội đủ điều kiện         thích nghi. Nếu không đặc biệt có chú nguyện nào, con người         sẽ lăn trôi theo con đường mà những diễn biến của         cuộc đời đưa đẩy mình vào, và sẽ tái sanh vào trạng         thái tương xứng với cái Nghiệp mình đã tạo. 5. Tại sao? Là thắc mắc cuối cùng của chúng ta. Tại sao có con người?         Cuộc sống này có mục tiêu gì? Đây quả thật là một vấn đề đã được bàn thảo sôi         nổi. Quan điểm của người sống thiên về vật chất là thế          nào? Nhà khoa học giải đáp: "Đời sống có mục tiêu không? Là gì ở đâu hay lúc           nào? Người sống theo chủ thuyết duy vật chỉ đơn thuần         tự giới hạn mình trong những dữ kiện do giác quan cảm         nhận và chỉ biết đời sống vật chất hiện tại, mà         lờ đi những giá trị tinh thần. Lối nhìn của họ nghịch         hẳn quan điểm của nhà đạo đức. Theo họ, không có ai         tạo mục tiêu cho đời sống, và như vậy, đời sống không         có mục tiêu. Những người không có Thần Linh - người Phật tử nằm         trong số này - không tin có một nhân vật tạo mục tiêu cho         mình. "Ai tô điểm màu sắc một cách tuyệt diệu cho con công,         hay ai làm cho chim cú có tiếng gáy lảnh lót?" Đó là         một trong những lý luận chánh của thuyết duy vật, cho         rằng tất cả đều nằm trong trật tự thiên nhiên của         sự vật. "Hãy ăn uống và tận hưởng mọi lạc thú, bởi vì         cái chết sẽ đến với tất cả, chấm dứt cuộc sống         của chúng ta" hình như là đạo đức lý tưởng của         hệ thống này. Theo quan niệm của họ, như ngài Sri         Radhakrishna viết: "Đạo đức là ảo tưởng và hưởng         thụ khoái lại là thực tại duy nhất. Chết là mức tận cùng         của đời sống. Tôn giáo là một thác loạn điên cuồng,         một chứng bệnh thần kinh. Có sự ngờ vực tất cả          những gì tốt đẹp, cao cả, trong sạch và bi mẫn. Lý         thuyết này chủ trương thỏa mãn dục vọng và lợi kỷ và         hiển nhiên xác nhận ý chí tục tằn thô bỉ. Không cần         phải kiểm soát khác vọng và bản năng, bởi vì đó là di         sản của thiên nhiên mà con người thừa hưởng." [7] Sarvadarsana Sangraha nói: "Trong khi đời sống còn là của bạn, hãy thoả thích           sống, Bây giờ chúng ta hãy trở về với khoa học để tìm         một giải đáp cho câu hỏi "Tại sao?". Nên ghi nhận rằng "khoa học tìm hiểu sự vật, nghiên         cứu học hỏi để biết sự vật là thế nào, trong khi tôn         giáo thì tìm hiểu những lý tưởng, nghiên cứu học hỏi         xem sự vật là thế nào." Sir Arthur Thompson khẳng định rằng khoa học còn khiếm         khuyết vì không thể giải đáp câu hỏi "Tại sao". Đề cập đến Mục Tiêu của vũ trụ, Bertrand Russell         nhắc đến ba loại quan điểm: quan điểm tin có Thượng Đế;          quan điểm Phiếm Thần cho rằng trời là tất cả vũ trụ          hay vạn vật, và tất cả vũ trụ là trời; và quan điểm         thứ ba cho rằng sự vật nhô lên, xuất hiện một cách không         thể đoán trước. Ông viết: "Quan điểm thứ nhất chủ trương rằng Thượng Đế          tạo nên thế gian và ban hành những định luật thiên nhiên,         bởi vì Ngài tiên đoán rằng vào đúng lúc, sẽ có gì         tiến hoá tốt đẹp. Theo quan điểm này, mục tiêu đã sẵn         có một cách rõ ràng trong tâm vị Thần Linh Tạo Hoá, vốn          ở ngoài tạo vật của mình. "Hình thức Phiếm Thần cho rằng trời là vũ trụ và         tất cả là trời. Thượng Đế không ở ngoài vũ trụ mà         chính là vũ trụ, xem như một toàn thể. Do đó, không thể          có tác động sáng tạo mà chỉ có một loại năng lực sáng         tạo trong vũ trụ. Năng lực này làm cho vũ trụ phát triển         theo một kế hoạch. Ta có thể nói rằng xuyên qua suốt         tiến trình, kế hoạch này luôn luôn đi đôi với năng lực         sáng tạo. "Trong hình thức thứ ba, mục tiêu càng mù mịt hơn.         Vào một giai đoạn sơ khởi, không có gì trong vũ trụ          thấy trước giai đoạn sau, mà có một năng lực mù quáng         thúc đẩy đến những biến đổi, và biến đổi tạo nên         những hình thức phát triển hơn. Do đó, trong một ý nghĩa         mù mờ, đoạn cuối đã được hàm xúc ở đoạn đầu."         [8] Chúng ta không phê bình. Đây chỉ là quan điểm của         những học giả chuyên khảo cứu về các tôn giáo và         những tư tưởng gia trứ danh. Dù có chăng một mục tiêu trong vũ trụ, dù sự hiện         hữu của vũ trụ có nhằm mục tiêu nào không, vẫn có         vấn đề được nêu ra về tính cách hữu dụng của các loài         sán lãi, rắn rít, muỗi mòng, v.v... và sự hiện hữu của         bệnh chó dại. Phải giải thích thế nào về vấn đề thiên         tai? Những cuộc động đất, những trận bão lụt, những         bệnh truyền nhiễm nguy hại có được trù hoạch trước không? Diễn đạt quan điểm riêng của mình về Mục Tiêu Của         Vũ Trụ, Russell mạnh mẽ tuyên bố: "Dù thế nào, tại sao tán dương, tại sao ca ngợi con         người? Còn sư tử, cọp hùm thì sao? Chúng nó sát hại sanh         linh - thú và người - ít hơn là chúng ta mà lại còn đẹp          đẽ hơn chúng ta. Còn loài kiến? Chúng nó quản trị một          Đoàn Thể Quốc Gia còn tài tình hơn nhiều bất cứ người         phát xít nào. Thế gian loài chim họa mi, chim sơn ca, loài         nai, có phải chăng là tốt đẹp an bình hơn là thế gian tàn         bạo, bất công và hiếu chiến của loài người? Những người         tin mục tiêu của vũ trụ căn cứ niềm tin ấy nơi cái được         giả tưởng là sự sáng suốt của chúng ta, nhưng những gì         họ viết ra làm cho ta ngờ vực điều ấy. "Nếu tôi là một đấng toàn năng, và tôi có được         cả triệu năm để kinh nghiệm, ắt tôi không nghĩ rằng Con         Người có gì nhiều để kiêu hãnh với thành quả cuối cùng         của tất cả mọi nỗ lực của tôi." Đối với các tôn giáo khác nhau thì mục tiêu của đời         sống là gì? Theo Ấn Độ Giáo, mục tiêu của đời sống là "đồng         nhất thể với Bahma", hoặc "hườn nguyên, nhập         trở vào Tinh Chất Thần Linh, cái Đại Hồn" mà từ đó         linh hồn của con người được tách rời ra. Theo Do Thái Giáo, Cơ Đốc Giáo và Hồi Giáo, mục tiêu         của đời sống là "tôn vinh và làm vẻ vang Thượng Đế          mãi mãi đời đời." Một người thường trong bất luận tôn giáo nào có sẵn         sàng từ bỏ kiếp sống ở trần gian mà họ khư khư bám         chặt, để vĩnh viễn sống trong một thiên đàng cực kỳ          an lạc không? -- Chưa chắc, quả thật vậy! Bây giờ, Phật Giáo giải đáp thế nào câu hỏi:         "Tại Sao?" Phật Giáo phủ nhận một Thần Linh Tạo Hoá. Như vậy,         theo quan điểm của Phật Giáo không thể có một mục tiêu         của đời sống đã được định cho họ. Phật Giáo không chủ trương có vận mạng, định mạng,         hay tiền định bất di dịch đã được sắp xếp an bài,         kiểm soát tương lai của con người ngoài ý muốn, và không         tùy thuộc hành động của họ. Nếu tin vậy, tự do ý chí          đã trở nên tuyệt đối là một chuyện khôi hài và đời         sống trở thành thuần túy máy móc. Phần lớn hành động của con người ít nhiều có tính cách         tự động, hầu như máy móc vì đã chịu ảnh hưởng của         thói quen, của môi trường sinh sống, của giới thân cận         v.v... Nhưng trong một giới hạn nào, con người cũng có thể          xử dụng tự do ý chí. Khi người kia từ trên cao té xống         vực sâu thì chỉ rơi như một hòn đá vô tri vô giác. Dù có         tâm chớ không phải như đá, người kia vẫn không thể xử          dụng tự do ý chí của mình. Nhưng lúc trèo lên cao, chắc         chắn là anh có đủ tự do ý chí - quyết định có trèo lên         hay không, hay trèo lên cách nào - và hành động theo ý mình.         Hòn đá ngược lại, không thể làm như vậy. Con người có đủ quyền năng chọn lựa giữa điều         phải và lẽ quấy, việc tốt hay việc xấu. Con người có         thể là bạn lành hay là kẻ thù nghịch của chính mình và         của người khác. Tất cả đều do tâm và tiến trình phát         triển của tâm. Mặc dù không có sẵn mục tiêu đặc biệt nào cho kiếp         nhân sinh, con người vẫn được tự do tạo cho mình một lý         tưởng của cuộc sống. Vậy, mục tiêu của đời sống là gì? Ouspensky viết: "Vài người nói rằng ý nghĩa của cuộc sống là         phục vụ, là đè nén, hàng phục cái tự ngã của mình,         tự hy sinh, hy sinh tất cả, chí đến mạng sống. Người khác         tuyên bố rằng ý nghĩa của cuộc đời là thỏa thích hưởng         thụ, quên đi thảm trạng rùng rợn cuối cùng xảy diễn         trong hiện tượng chết. Vài người thấy ý nghĩa của đời         sống trong sự làm cho mình trở nên hoàn hảo và tạo dựng         cho mình một tương lai tốt đẹp hơn, ở bên kia nấm mồ.          Người khác nữa chủ trương rằng ý nghĩa của cuộc sống         là cố gắng đến gần trạng thái "không sinh         tồn"; người khác nữa tìm ý nghĩa của đời sống trên         quả địa cầu; trong lúc ấy có người khẳng định rằng         dù chỉ là sự cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của đời sống         cũng không thể được." [9] Bác bỏ tất cả những quan kiến trên, nhà học giả uyên         thâm viết: "Điểm sai lầm của tất cả những giải thích trên         là cố gắng khám phá ý nghĩa của đời sống ở bên ngoài         chính mình. Họ tìm trong bản chất của nhân loại, hoặc         trong vài cuộc sống mơ hồ bên kia nấm mồ, hoặc nữa         trong sự tiến triển của Tự Ngã xuyên qua chuỗi dài         những cuộc đầu thai - luôn luôn một cái gì ở ngoài đời         sống hiện tại của con người. "Thay vì khảo sát viễn vọng, nếu con người chỉ nhìn         vào bên trong chính mình, họ sẽ nhận thức rằng trong         thực tế, ý nghĩa của đời sống không còn gì là mù mờ.          Nó chỉ là hiểu biết." Theo quan điểm của Phật Giáo, mục tiêu cứu cánh của         kiếp nhân sinh là thành đạt trạng thái Toàn Giác         (Sambodhi), tức thấu triệt thực tướng của chính mình,         tự hiểu biết chính mình đúng như thực sự mình là vậy. Sự Giác Ngộ Cao Siêu này có thể được thành tựu         bằng cách nghiêm túc giữ gìn giới hạnh, trau giồi tâm và         khai triển tuệ minh sát hoặc, nói cách khác, bằng cách         "phục vụ và trở nên toàn hảo". Phục Vụ bao gồm tâm Từ, tâm Bi vô lượng vô biên và         vị tha tuyệt đối, những đức hạnh cao đẹp thúc giục         con người giúp đỡ người khác. Toàn Hảo là tuyệt đối Trong Sạch và tuyệt đối Trí         Tuệ. Chú thích: [1] Ouspenky, "Tertium Organum", trang 8. [2] Chặp tư tưởng - cũng được gọi là "sát na tâm".         Trong thời gian của một cái nhoáng trời chớp, hằng tỷ          tỷ chặp tư tưởng có thể phát sanh. [3] Sir Charles Sherrington, "Lifés Unfolding", trang 32. [4] "What is mind? - No matter. What is matter? - Never         mind". Để giúp quí vị độc giả không đọc tiếng Anh         có thể thưởng thức lối chơi chữ này, người dịch xin         phụ chú rằng hai chữ "no matter" vừa có nghĩa là         "không có vật chất, vừa là một lối nói rằng         "không sao đâu". Hai chữ "never mind" vừa có         nghĩa "không bao giờ có tâm", mà cũng có nghĩa         "không có gì đâu, không cần phải bận tâm". [5] Sri Radhakrishna, "Indian Philosophy", tập I, trang         278. [6] "Có khoảng một triệu hệ thống hành tinh trong dãy         Ngân Hà trong đó, có sự sống". Xem Fred Hoyle, "The         Nature of The Universe", trang 87-89. [7] Sri Radhakrishna, "Indian Philosophy", tập I. [8] Bertrand Russell, "Religion and Science", trang 191. [9] [1] Ouspenky, "Tertium Organum", trang 192
Vật chất là gì? - Không bao giờ có tâm" [4]
Tâm dẫn đầu hành động; tâm là chủ, và tất cả (hành            động) đều do tâm tạo.
Từ không gian Vũ Trụ đến, Mặt Trời đến,
Quả Địa Cầu đến, Đời sống đến, Con Người đến,           và còn nhiều nữa phải đến.
Nhưng còn mục tiêu: Của ai và từ đâu? Tại sao, không có           gì cả."
Không ai có thể thoát khỏi cặp mắt tìm tòi của Tử            Thần;
Một khi chúng nó đã thiêu đốt cái xác này của ta,
Làm sao còn trở lại?
Trong khi còn sống đây con người hãy sống an vui,
Hãy ăn, uống sung sướng, dù có phải vay nợ." [7]
