| Sư họ Ngụy, người rất dĩnh ngộ, không  ưa sự ồn náo trần tục, cạo tóc xuất gia thọ giới. Ban đầu Sư vào Lô Sơn,  ở U Thê bảy năm. Sau dạo đến Quan Trung, theo ngài La Thập thọ nghiệp.  Tăng chúng khâm phục như thần. 
 Lúc trước, Sư thấy phần đầu kinh  Niết Bàn nói “Trừ hạng Nhất xiển đề ra, tất cả đều có Phật tánh”. Sư  bèn nói: “Xiển đề sao lại riêng không có Phật tánh được? Kinh này đến  đây chưa đủ. Rồi xướng thuyết “Xiển đề đều sẽ thành Phật".
 
 Các vị sư khác đời ấy đều trách mắng Sư, cho là tà thuyết, theo luật đáng bị tẩn xuất. Sư bèn thề:
 
 - Nếu tôi nói không hợp với nghĩa kinh, thì xin cho hiện thân chịu ác  báo. Nếu thật khế hợp tâm Phật, nguyện lúc xả thọ mạng, ngồi tòa sư tử.
 
 Và Sư rũ áo vào Hổ Khưu sống lặng lẽ. Khi tâm có chỗ hội, Sư đến chùa  Thanh Viên, ngồi dưới rặng tùng, xếp đá làm đồ chúng, giảng kinh Niết  Bàn. Một hôm giảng đến chỗ Xiển đề, bèn nói có Phật tánh. Lại nói:
 
 - Lời của ta có hợp với tâm Phật chăng?
 
 Hàng đá đều gật đầu. Mùa hạ năm đó, sấm rền Phật điện Thanh Viên, người  ta chợt thấy một con rồng bay lên múa lượn, ánh sáng trời phát ra, bóng  hiện ở vách Tây. Chùa liền được đổi tên là Long Quang. Người đời đó  than:
 
 - Rồng đã bay, Sư chắc cũng đi!
 
 Mấy ngày sau, quả nhiên Sư trở về Lô Sơn, để lại một di ảnh rơi trong hang núi. Tăng chúng đều đến chiêm lễ.
 
 Sau Sư nghe Ðàm Vô Sấm dịch lại phẩm sau của kinh Niết Bàn, quả nhiên  có nói: “Người Nhất xiển để tuy đoạn thiện căn, vẫn có Phật tánh”. Sư  rất mừng rỡ.
 
 Niên hiệu Nguyên Gia năm thứ chín (432). Sư đến  Kim Lăng, chưa bao lâu trở lại Lô Sơn. Trụ tịnh xá Lô Sơn, giảng kinh  Niết Bàn.
 
 Tháng mười một, niên hiệu Nguyên Gia thứ mười một  (434)*, Sư thăng tòa luận nghĩa mấy phen, mọi người nghe đều vui vẻ.  Chợt thấy phất trần rơi xuống đất, Sư ngồi ngay ngắn, nghiêm trang tựa  ghế mà tịch, thọ 80 tuổi. Sớ luận để lại là những tác phẩm rất quý báu.
 
 * Có thuyết nói Sư tịch năm Nguyên Gia thứ 9 (432).
 
 SAU NHỊ TỔ
 
 19. HUỆ TƯ
 
 Tham Ðại Sư Huệ Văn
 
 Huệ Tư, họ Lý người Vũ Tân, đỉnh đầu có cục thịt nổi lên, đi như trâu,  nhìn như voi. Lúc trẻ rất hiền từ, nổi tiếng ở xóm làng, thường mộng  thấy Phạm Tăng khuyên xuất gia, bèn từ cha mẹ cạo tóc, đắp y và thọ Ðại  giới. Ngày chỉ ăn một bữa, tụng Pháp Hoa ngàn biến. Niên hiệu Thừa Thánh  năm thứ ba (554) đời Lương, nghe ngài Huệ Văn ở Bắc Tề có đồ chúng đến  mấy trăm, Sư liền đến đó xin thọ pháp. Ngày đêm nhiếp tâm, hông không  dính chiếu; ngồi hạ hai mươi mốt ngày Sư được túc mạng thông. Bỗng có  chướng nổi lên, tay chân yếu ớt, không thể đi được. Ngài tự gnhĩ: “Bệnh  từ nghiệp sanh, nghiệp từ tâm khởi, nếu nguồn tâm không khởi, thì ngoại  cảnh có hình trạng gì? Bệnh nghiệp cùng với thân đều như bóng này”.
 
 Ngài quán như thế xong, thân thể nhẹ nhàng như cũ. Hết hạ, vẫn không  được gì, thầm ôm lòng hổ thẹn; dựa vào vách, lưng chưa tới vách, hoát  nhiên khai ngộ Pháp Hoa tam muội.
 
 Trụ Ðại Tô
 
 Dạy chúng:
 
 - Nguồn đạo không xa, biển tánh rất gần. Chỉ hướng mình tìm, chớ theo  người khác tìm. Tìm thì chẳng được mà được cũng chẳng phải chân thật.
 
 Ngài nói kệ:
 Ðốn ngộ nguồn tâm mở kho báu 
 Ẩn hiển linh thông hiện chân tướng
 
 Ðường bộ thường đi, ngồi một mình
 
 Hóa thân trăm ức không kể xiết
 
 Dù cho đầy dẫy khắp hư không
 
 Lúc xem chẳng thấy một mảy bụi
 
 Ðáng cười vật chừ, không so sánh
 
 Miệng nhả châu sáng chiếu rỡ ràng
 
 Tầm thường thấy nói không nghĩ nghị
 
 Một lời nêu tên, ngay lời nhận.
 
 (Ðốn ngộ tâm nguyên khai bảo tạng
 
 Ẩn hiển linh thông hiện chân tướng
 
 Ðộc hành độc tọa thường nguy nguy
 
 Bách ức hóa thân vô số lượng
 
 Túng linh biến tắc mãn hư không
 
 Khán thời bất kiến vi trần tướng
 
 Khả tiếu vật hề vô tỷ huống
 
 Khấu thổ minh châu quang hoảng hoảng
 
 Tầm thường kiến thuyết bất tư nghì
 
 Nhất ngữ tiêu danh ngôn hạ đương).
 
 Ngài thường đăng tòa giảng kinh Ðại Bát Nhã, bị các Luận sư ganh ghét  đánh thuốc độc. Ngài nhất tâm niệm Bát Nhã, thuốc độc liền tiêu, sai môn  nhân Trí Khải giảng thay. Trí Khải giảng đến “Một tâm đủ vạn hạnh” chợt  có chỗ nghi, thỉnh Sư giải quyết. Ngài nói:
 
 - Như điều ông  nghi là ý thứ lớp của Ðại Phẩm, chưa phải là ý chỉ viên đốn của Pháp  Hoa. Xưa ta ở trong hạ, một niệm chống phát các pháp hiện tiền. Ta đã  thân chứng, chẳng cần phải nghi.
 
 Trí Khải hỏi:
 
 - Thầy chứng Thập địa chăng?
 
 Ðáp:
 
 - Ta một đời mong được nhập vào Ðồng luân (Viên Thập Trụ); vì lãnh đồ  chúng sớm quá, làm tổn mình ích cho người. Nên chỉ ở Thiết luân thôi  (Viên Thập Tín).
 
 Huệ Tư thường cầm gậy như ý chỉ Trí Khải bảo:
 
 - Có thể nói là pháp giao cho pháp thần, còn pháp vương thì vô sự.
 
 Rồi Ðại Tô bị phòng vệ, đại chúng không an. Huệ Tư bèn bảo ngài Trí Khải rằng:
 
 - Ta từ lâu muốn đến Nam Nhạc mà hậu pháp chưa có chỗ ký thác. Nay ông  có thể truyền đăng, chớ làm người cuối cùng đoạn dứt hạt giống Phật. Ông  có duyên với nước Trần, nên đến đó làm lợi ích.
 
 Trí Khải vâng  lời đi đến nước Trần, trụ chùa Ngoã Quan; khai đề kinh Pháp Hoa. Còn  ngài Huệ Tư, niên hiệu Quang Ðại năm thứ hai (568) tháng 6, đem hơn bốn  mươi Tăng về Nam Nhạc. Lên ngọn Chúc Dung, gặp Nhạc thần đang đánh cờ.  Thần nói:
 
 - Sao Sư đến đây?
 
 Ngài bảo:
 
 - Xin đàn việt một miếng đất bằng tọa cụ.
 
 - Ðược!
 
 Sư phóng gậy để định chỗ (nay là chùa Phước Nghiêm). Nhạc Thần xin thọ giới. Sư thuyết pháp cho, nhân đó nói:
 
 - Ta ở nhờ núi này, chỉ hạn mười năm. Sau xong việc sẽ đi xa. Tiền thân của ta từng đi đến chốn này.
 
 Ði lần đến hành Dương, gặp một chỗ suối rừng đẹp lạ.
 
 Ngài nói:
 
 - Ðây là chùa cổ. Ta ngày xưa từng ở đây.
 
 Ngài sai đào đất, thấy nền đất vẫn còn.
 
 Ngài lại chỉ chân núi nói:
 
 - Xưa ta ngồi thiền ở đây. Giặc đến chém đầu ta.
 
 Rồi tìm được hài cốt đã khô đầy đủ. Từ đây tạo hóa càng thạnh. Trần chúa gọi là Ðại thiền.
 
 Ngài trụ ở Nam Nhạc, có một lão túc nhắn người đến bảo:
 
 - Sao chẳng xuống núi giáo hóa chúng sanh, cứ ngắm nhìn Vân Hán (cảnh đẹp) làm gì?
 
 Ngài đáp:
 
 - Ba đời chư Phật bị ta nuốt trọn. Còn có chúng sanh nào để giáo hóa nữa.
 
 Niên hiệu Thái kiến năm thứ chín (577) ngày 6 tháng 6. Ngài bảo môn nhân rằng:
 
 - Nếu có được mười người chẳng tiếc thân mạng, thường tu Pháp Hoa, Bát  Nhã, Niệm Phật Tam muội, Phương đẳng, Sám hối, hẹn phải kiến chứng thì  tùy chỗ cần ta sẽ cung cấp cho. Nếu không có người như thế thì đã xa  cách ta rồi vậy.
 
 Lúc đó, chúng cho là việc khổ hạnh khó khăn  nên không ai đáp lại. Ngài bèn đuổi chúng ra rồi nhập diệt. Có một thầy  nhỏ tên Linh Biện kêu khóc. Sư mở mắt nói:
 
 - Sao được kinh động ta? Ðồ ngu, đi ra!
 
 Rồi Ngài niệm Phật chắp tay mà tịch, nhan sắc như lúc sống, hương lạ đầy thất.
 |