Top Book
Chùa Việt
Bài Viết

Sách Đọc (36)


Xem mục lục

 Phẩm Tự-Tự

 THỨ NHỨT

1.– Thuở ấy Tổ đến chùa Bửu-Lâm, có quan Thứ-sử Thiều-Châu họ Vi tên Cừ cùng các quan-liêu vào chùa thỉnh Tổ ra tại giảng-đường chùa Đại-Phạm ở trong thành mà mở duyên thuyết pháp cho chúng nghe.

2.– Tổ lên pháp-tọa thì quan Thứ-sử cùng các quan-liêu trên ba mươi người, nho tông học-sĩ cũng trên ba mươi người, và tăng ni đạo tục trên ngàn người, đồng làm lễ cầu nghe những lời pháp-yếu.

3.– Tổ nói với chúng-nhơn rằng : Nầy các thiện-tri-thức ! – Bồ-đề tự tánh, gốc vẫn thanh-tịnh chỉ dùng tâm ấy hẳn thành Phật ngay.

4.– Các thiện-tri-thức ! – Hãy nghe hành do và sự ý đắc pháp của Huệ-Năng nầy.

5.– Nguyên nghiêm-phụ của Huệ-Năng nầy, bổn quán ở đất Phạm-Dương, sau bị lưu về xứ Lãnh-Nam ở tại Tân-Châu làm người bá-tánh.

6.– Xuất thân đã chẳng may, cha lại mất sớm, còn một mẹ già, dời qua Nam-Hải, khổ cực nghèo thiếu ta hằng bán củi ở nơi chợ.

7.– Thuở ấy có một người khách mua củi, bảo ta đem củi đến tiệm ; khách thâu nhận rồi, Huệ-Năng nầy lãnh được một số tiền bèn bước ra ngoài cửa, vừa nghe một người khách kia tụng kinh.

8.– Huệ-Năng vừa nghe được lời kinh, tâm liền tỏ ngộ, mới hỏi khách tụng kinh chi ?

9.– Khách đáp : “Tụng kinh Kim-Cang.”

10.– Ta lại hỏi : “Ngươi ở đâu đến đây trì tụng kinh ấy ?”

11.– Khách đáp : “Ta từ Kỳ-Châu, huyện Huỳnh-Mai, chùa Đông-Thiền đến đây. Chùa ấy là Ngũ-Tổ Hoằng-Nhẫn Đại-Sư hiện làm pháp chủ giáo hóa tại đó, môn nhơn của ngài hơn ngàn người.

12.– “Ta đến đó lễ bái nghe giảng mà vâng tụng kinh nầy, vì Hoằng-Nhẫn Đại-Sư thường khuyên kẻ tăng người tục đều phải thọ trì kinh Kim-Cang, tức là mình tự thấy tánh, hẳn thành Phật ngay.”

13.– Huệ-Năng nầy nghe nói mới biết thuở trước có duyên, lại mông ơn một người khách kia lấy bạc mười lượng cho ta, để sung về việc ăn mặc cho lão mẫu và dạy ta tìm qua Huỳnh-Mai ra mắt Ngũ-Tổ.

14.– Huệ-Năng nầy sắp đặt việc mẹ rồi, tức thời từ giã, trải qua ba mươi dư, ngài mới đi đến Huỳnh-Mai đảnh lễ Ngũ-Tổ.

15.– Tổ hỏi rằng : “Ngươi ở phương nào ? – Muốn cầu việc chi ?”

16.– Huệ-Năng nầy thưa : “Đệ-tử là người bá tánh ở Tân-Châu, thuộc về xứ Lãnh-Nam, từ phương xa đến lễ thầy, chỉ cầu làm Phật, chớ chẳng cầu việc chi khác cả.”

17.– Tổ nói : “Ngươi là người Lãnh-Nam lại là dòng mọi-rợ, há kham làm Phật được sao ?”

18.– Huệ-Năng nầy thưa : “Người tuy có Nam Bắc, Phật tánh vốn không Nam Bắc ; cái thân mọi-rợ nầy đối với Hòa-thượng chẳng đồng, nhưng Phật-tánh có chi sai khác.”

19.– Ngũ-Tổ còn muốn cùng ta nói nữa, song thấy đồ chúng nhóm lại hai bên tả hữu, nên khiến ta theo chúng mà làm việc.

20.– Huệ-Năng nầy thưa lại rằng : “Huệ-Năng nầy xin bạch Hòa-thượng, tử tâm của đệ tử hằng sanh trí-huệ chẳng lìa tự tánh, tức là phước-điền ; vậy chưa rõ Hòa-thượng dạy làm việc chi ?”

21.– Tổ nói : “Kẻ mọi-rợ kia ! – Căn tánh rất lợi, ngươi chớ nói nữa, hãy đi ra chỗ tào xưởng đường sau.”

22.– Huệ-Năng nầy lui gót đến hậu viện, có một người hành giả sai Huệ-Năng nầy bửa củi và đạp chày giã gạo trót hơn tám tháng.

23.– Một ngày nọ, Tổ chợt thấy Huệ-Năng nầy bèn nói : “Ta nghĩ chỗ thấy của ngươi khá dùng, song sợ có kẻ ác hại ngươi, nên chẳng cùng ngươi nói chuyện ; ngươi có biết chăng ?”

24.– Huệ-Năng nầy thưa : “Đệ tử cũng rõ ý thầy nên không dám ra đến trước giảng-đường, khiến cho người đừng biết.”

25.– Lại một ngày nọ, Tổ đòi cả môn nhơn nhóm lại bảo rằng : “Ta vì bọn ngươi mà nói : người đời sống thác là việc lớn mà bọn ngươi trọn ngày chỉ cầu ruộng phước, chớ chẳng cầu ra khỏi biển khổ sanh tử, tánh mình nếu mê, phước nào cứu được ? – Bọn ngươi đều đi ra, tự xét lấy trí huệ rồi dùng tánh bát-nhã của bổn tâm mình, mỗi người đều làm một bài kệ trình cho ta xem nếu tỏ ngộ được đại ý thì ta phú giáo y pháp cho làm Tổ đời thứ sáu. – Vậy hối hả mau đi, chẳng được chậm trễ, bằng để nghĩ lường, ắt không trúng dụng.

26.– “Những người thấy tánh, nói ra thì thấy, nếu được như vậy, thì dầu lúc múa đao lên trận (là sự gấp-rút) cũng thấy được ngay.”

27.– Đồng chúng được lời thầy phân, mới lui ra nói với nhau rằng : “Chúng ta đây chẳng cần phải lóng lòng, dụng ý mà làm kệ đem trình Hòa-thượng không ích gì, vì hiện nay Thần-Tú là bực Thượng-tọa đương làm thầy Giáo-thọ, ông là chắc đặng, chớ chúng ta dầu có chạ làm kệ-tụng cũng uổng mệt tâm lực mà thôi.”

28.– Mấy người nghe lời nói ấy, ai cũng yên lòng và đều nói rằng : “Bọn ta sau nầy thảy nương theo thầy Thần-Tú, chớ làm kệ chi cho phiền.”

29.– Phần thầy Thần-Tú thì suy gẫm rằng : “Các người kia mà chẳng trình kệ, là vì nghĩ ta cùng kia làm thầy Giáo-thọ, còn như ta phải làm kệ đem trình Hòa-thượng. – Bằng không trình kệ, thì Hòa-thượng do đâu biết được chỗ kiến-giải cạn sâu trong tâm ta.

30.– “Vậy thì ý kệ của ta sắp trình đây, hễ trình được pháp tức là thiện, mà cầu làm Tổ tức là ác, ấy chẳng khác nào lòng phàm muốn đạt ngôi Thánh ; bằng như chẳng trình kệ thì trọn đời chẳng đặng pháp. – Thật khó ! – Thật khó !”

31.– Phía trước mặt chùa của Ngũ-Tổ có dãy nhà ba gian. – Ngài tính rước quan Cung-Phụng là Lư-Trân vẽ bức đồ Lăng-Già biến tướng và Ngũ-Tổ huyết mạch, để lưu truyền cúng dường.

32.– Sau khi Thần-Tú làm kệ xong, đã mấy phen muốn đem trình mà đi vừa đến trước nhà Tổ thì trong lòng hoảng hốt, mồ hôi đổ ướt cả mình, tình thế trình kệ chẳng đặng. – Trước sau trót đã bốn ngày, mười ba phen như vậy mà trình kệ cũng chẳng đặng. – Thần-Tú mới nghĩ lại : chi bằng ta tới trước chái nhà cầu chép bậy vào đấy, để tùy nơi Hòa-thượng đi đến gặp xem, giả như Hòa-thượng khen hay thì ta liền ra mắt lễ bái mà thưa rằng : kệ ấy thiệt Tú làm ; bằng như Ngài nói chẳng được, thì uổng cho ta ở chùa mấy năm, thọ người lễ bái mà tu theo đạo gì !”

33.– Trong đêm ấy, chừng lối canh ba Thần-Tú chẳng cho người biết, tự mình cầm đèn, chép kệ trên vách, nơi chái nhà phía Nam mà bày tỏ chỗ thấy của tâm mình.

34.– Kệ rằng :

Thân là cây Bồ-Đề.

Tâm như đài minh cảnh,

Lúc nào cũng lau chùi,

­Chớ để nhơ bụi dính.(1)

35.– Tú chép kệ rồi trở về phòng, chẳng ai biết cả. Tú lại suy nghĩ : nếu Ngũ-Tổ rạng ngày thấy kệ mà hoan hỷ, thời tức là ta với pháp có duyên ; bằng ngài nói chẳng kham, thì thiệt tự ta còn mê, nghiệp chướng đời trước quá nặng, không thể đắc pháp, thật là ý Thánh khó lường ! – Tú cứ lo nghĩ ở luôn trong phòng, mà nằm ngồi chẳng yên, suốt đêm năm canh như vậy.

36.– Tổ vẫn biết Thần-Tú chưa vào được cửa đạo, nên chẳng thấy tự tánh.

37.– Sáng ngày Tổ đòi Lư-Cung-Phụng đến chái nhà phía Nam, để vẽ đồ tường vào vách, chợt thấy bài kệ rồi ngài nói : “Thôi ! Cung-Phụng chẳng cần vẽ nữa ; thiệt làm nhọc lòng nhà ngươi từ phương xa đến.”

38.– Bởi vì trong kinh (Kim-Cang) nói : “Phàm những cái có sắc tướng đều là giả dối cả.” (Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng.) – Nhưng chỉ lưu lại kệ nầy cho người trì tụng, y theo lời kệ nầy tu, có sự lợi ích lớn ; nhơn bảo trong hàng môn nhơn thắp hương lễ kính, đều tụng kệ nầy ngỏ đặng thấy tánh. – Môn nhơn tụng kệ, ai cũng đều khen : Thiệt hay !

39.– Canh ba Tổ đòi Thần-Tú vào hỏi : “Kệ ấy phải người làm chăng ?”

40.– Tú thưa : “Thiệt của Tú làm, song không dám vọng cầu Tổ vị, chỉ mong Hòa-thượng từ bi, coi thử đệ-tử có chút trí-huệ gì không ?”

41.– Tổ nói : “Ngươi làm kệ nầy chưa thấy được bổn-tánh, chỉ đến ngoài cửa, chưa vào được trong ; kiến-giải như vậy, mà cầu Vô-thượng Bồ-đề trót không thể đặng.

42.– “Vô-thượng Bồ-đề cần phải ở dưới câu nói mà biết được bổn tâm, thấy được bổn-tánh, gốc nó chẳng sanh, chẳng diệt, hết thảy trong lúc nào cũng niệm-niệm tự thấy, muôn pháp vốn không trở trệ. – Một cái chơn thì tất cả đều chơn, muôn cảnh vẫn tự như-như, cái tâm như-như tức là chơn thiệt. – Chỗ thấy được như thế, tức là cái tự-tánh Vô-thượng Bồ-đề.

43.– “Vậy ngươi hãy lui ra suy nghĩ trong một đôi ngày, làm lại kệ khác đem cho ta xem ; nếu kệ của ngươi được vào cửa đạo, thì ta sẽ phó y-pháp cho ngươi.”

44.– Thần-Tú lễ Tổ bước ra, trải qua mấy ngày mà làm chẳng thành kệ, trong lòng hoảng hốt, Thần-Tú chẳng yên, dường như giấc mộng, đi ngồi không vui.

45.– Cách hai ngày sau, có tên đồng-tử đi ngang qua chỗ đối-phường (chỗ giã gạo) rao tụng kệ ấy, – Huệ-Năng nầy vừa nghe, biết rằng kệ ấy chưa thấy được bổn-tánh. – Tuy chưa mông ơn chỉ dạy, nhưng đã biết được đại ý, mới hỏi đồng-tử rằng : “Tụng kệ chi đó vậy ?”

46.– Đồng-tử nói : “Ngươi thiệt người lạp-lão, chẳng biết chi ! – Đại-sư có nói : người đời sanh-tử là việc lớn muốn được truyền phó y-pháp, nên ngài dạy trong môn nhơn làm kệ trình xem ; bằng ai ngộ được đại-ý, thì ngài phó y-pháp cho mà nối ngôi Tổ thứ sáu.

47.– “Thần-Tú là bực Thượng-tọa, có chép bài kệ “Vô tướng” trên vách Nam-lang, Đại-sư dạy ai cũng đều tụng, y theo lời kệ ấy tu thì khỏi sa vào ác đạo ; y theo lời kệ ấy tu thì có sự lợi ích lớn.”

48.– Huệ-Năng nầy nói : “Nầy thượng-nhơn ! – Ta dây đạp chày trót tám tháng chưa từng đi đến pháp-đường ; vậy nhờ thượng-nhơn dẫn ta đến trước bài kệ mà lễ bái.”

49.– Đồng-tử mới dẫn ta đi đến.

50.– Huệ-Năng nói : “Huệ-Năng nầy vốn chẳng biết chữ, vậy xin thượng-nhơn đọc giùm.”

51.– Khi đó có quan Biệt-giá Giang-Châu, họ Trương tên Nhựt-Dụng bèn cất tiếng đọc lớn. – Huệ-Năng nầy nghe rồi và nói : “Tôi cũng có một bài kệ, xin quan Biệt-giá biên giùm cho.”

52.– Quan Biệt-giá nói : “Ngươi cũng biết làm kệ nữa sao ? – Thiệt là việc ít có !”

53.– Huệ-Năng nầy nói với quan Biệt-giá rằng : “Muốn học đạo Vô-thượng Bồ-đề, chẳng nên khinh người sơ học, người ở về bực hạ hạ mà có trí bực thượng-thượng ; còn về người bực thượng-thượng cũng có khi không có ý trí chi.”

54.– Quan Biệt-giá nói : ”Ngươi hãy đọc kệ, ta sẽ chép giùm cho ; ngươi nếu đắc pháp, phải độ ta trước, chớ nên quên lời.”

55.– Huệ-Năng đọc kệ rằng :

Bồ-đề đâu phải thọ.

Minh-cảnh có chi đài,

Xưa nay­ không một vật,

Ch­ỗ nào vướng trần ai.(2)

 56.– Kệ biên rồi, đồ chúng thảy đều thất-kinh, ai cũng khen ngợi và nói với nhau rằng : “Lạ thay ! – Thiệt chẳng nên lấy hình-dạng bề ngoài mà coi người ; nếu biết thì lẽ nào lâu nay sai khiến vị nhục thân Bồ-tát.”

57.– Ngũ-Tổ thấy chúng-nhơn kinh quái sợ người mưu hại, bèn lấy chiếc giày chà hết bài kệ rồi nói : “Kệ nầy cũng chưa thấy tánh.”

Chúng-nhơn nghe nói đều lấy làm phải.

58.– Qua ngày sau, Tổ lén đến chỗ đối-phường, thấy Huệ-Năng nầy đương giã gạo, mới nói rằng : “Người cầu đạo phải như vậy sao !” – Rồi hỏi : ”Gạo đã trắng chưa ?”

59.– Huệ-Năng nầy thưa : “Gạo trắng đã lâu, nhưng còn thiếu cái giừng.”

60.– Tổ lấy gậy gõ nơi cối ba lần rồi bỏ đi.

61.– Huệ-Năng nầy liền lãnh hội được ý Tổ, đến khi trống trở canh ba thì vào thất.

62.– Tổ lấy áo ca-sa choàng đắp lên mình Huệ-Năng nầy, không có người thấy, rồi nói kinh Kim-Cang cho Huệ-Năng nghe tới câu : “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm“, thì Huệ-Năng nghe liền tỏ ngộ hết thảy muôn pháp chẳng lìa tánh mình, nên bạch Tổ rằng :

Chẳng dè tự-tánh gốc vẫn thanh-tịnh,

Chẳng dè tự-tánh gốc chẳng sanh diệt,

Chẳng dè tự-tánh gốc sẵn đầy đủ,

Chẳng dè tự-tánh gốc không động lay,

Chẳng dè tự-tánh sanh được muôn pháp.

63.– Tổ biết Huệ-Năng ngộ được bổn-tánh, mới dạy rằng : “Chẳng biết bổn-tâm, học pháp không ích ; bằng biết được bổn-tâm, thấy được bổn-tánh, mới gọi là Đại trượng phu, là Thiên-nhơn-sư là Phật.”

64.– Canh ba thọ pháp người đều chẳng hay, Tổ lại truyền pháp đốn-giáo và y-bát mà rằng : “Ngươi làm Tổ đời thứ sáu, tự mình phải khéo hộ niệm, rộng độ các chúng hữu-tình, lưu bố đời sau, chớ để đứt dứt.”

65.– Hãy nghe kệ ta đây :

Có tình gieo giống xuống,

Nhơn đất quả bèn sanh,

Không tình cũng không giống,

Không tánh cũng không sanh.(3)

 66.– Tổ lại bảo rằng : “Xưa Đức Đạt-Ma đại-sư mới qua xứ nầy, người chưa biết đâu là tin, nên truyền cái y nầy để làm tin-thể, đời-đời vưng theo phép tắc, lấy tâm truyền tâm, để cho ai nấy đều tự tỏ ngộ và tự hiểu biết.

67.– “Từ xưa Phật-Phật chỉ truyền bổn-thể, Sư-Sư mật phú bổn-tâm, y nầy là mối tranh nhau, tới đời ngươi chớ nên truyền nữa ; vì nếu truyền y nầy nữa, thì thân mạng nguy-hiểm như sợi tơ treo, ngươi phải kíp đi, kẻo sợ có người mưu hại.”

68.– Huệ-Năng bạch rằng : “Nên đi xứ nào ?”

69.– Tổ nói : “Gặp ấp Hoài thì ở, gặp ấp Hội thì ẩn.”

70.– Trong lúc canh ba, lãnh được y-bát rồi, Ngũ-Tổ đưa ta đến trạm Cửu-Giang ; Tổ bảo Huệ-Năng nầy lên thuyền, thì Huệ-Năng liền nắm cái chèo.

71.– Tổ nói : ”Đáng nên ta độ ngươi.“

72.– Huệ-Năng nầy thưa : “Khi mê thì thầy độ, ngộ rồi thì tự mình độ lấy mình ; tiếng “độ” tuy có một mà chỗ dùng khác nhau.

73.– “Huệ-Năng nầy sanh ở bên phương, tiếng nói không chánh, nhờ thầy phú pháp, nay ngộ được rồi, thì phải lấy tự-tánh tự-độ.”

74.– Tổ nói : “Như vậy ! – Như vậy ! Phật pháp sau nầy do ngươi mở rộng, ngươi nay khá đi gắng sức qua hướng Nam, song chớ nên vội nói, là sợ cái nạn Phật pháp nổi lên.”

75.– Huệ-Năng từ giã Tổ rồi, cất bước qua hướng Nam, trọn hai tháng mới tới non Đại-Dủ.

76.– Khi Ngũ-Tổ trở về, trọn mấy ngày chẳng ra giảng đường, đồ-chúng nghi vào hỏi : “Hòa-thượng có chút bịnh, chút buồn chi không ?”

77.– Tổ nói : “Bịnh vẫn không mà y-pháp đã về hướng Nam rồi.”

78.– Đồ chúng hỏi : “Ai là người được truyền thọ ?”

79.– Tổ nói : “Năng ấy được.”

80.– Chúng mới rõ biết.

81.– Những kẻ muốn đạt y bát đuổi theo có hơn vài trăm người, mà trong bọn ấy có một ông tăng họ Trần, tên Huệ-Minh trước kia là tứ-phẩm tướng-quân, tánh hạnh nóng nảy, cố lòng theo kiếm, làm đầu cho mọi người mà đuổi theo kịp Huệ-Năng.

82.– Huệ-Năng nầy liệng y bát trên hòn đá và rằng : “Y nầy là vật biểu tín (làm tin), há lấy sức người mà giành đặng sao !” Nói rồi, liền ẩn mình trong đám cỏ rậm.

83.– Huệ-Minh đi đến, xách y dở lên mà chẳng nhúc-nhích, mới lên tiếng kêu rằng : “Hành-giả ! – Hành-giả ! – Tôi đây vì pháp mà đến, chớ chẳng phải vì y mà đến.”

84.– Huệ-Năng bước ra ngồi, trên bàn thạch.

85.– Huệ-Minh đảnh lễ và thưa : “Xin hành-giả thuyết pháp cho tôi nghe.”

86.– Huệ-Năng nói : “Ngươi đã vì pháp đến đây, thì phải dẹp hết các duyên, chớ sanh một niệm, thì ta nói cho ngươi nghe.” – Huệ-Minh tịnh tâm giây lâu, Huệ-Năng nói tiếp : “Đừng nghĩ thiện, đừng nghĩ ác, chánh trong lúc ấy, cái đó là cái “Diện-mục bổn-lai” (4) của Minh thượng-tọa.”

87.– Huệ-Minh nghe nói ngộ liền, lại hỏi : “Ngoài lời nói kín và ý kín nãy giờ đây, còn có ý kín gì nữa không ?”

88.– Huệ-Năng nói : “Những cái ta cùng ngươi nói đó, tức không phải kín ; nếu ngươi biết tự soi lại, thì cái kín ấy ở bên ngươi.”

89.– Minh thưa : “Huệ-Minh nầy tuy ở Huỳnh-Mai đã lâu mà thiệt chưa tự rõ được diện-mục của mình ; nay nhờ ơn chỉ dạy, cũng ví như người uống nước nóng nguội, thì mình tự biết. – Vậy thì hành giả ngày nay chính là thầy của Huệ-Minh nầy vậy.”

90.– Huệ-Năng nói : “Ngươi đã như thế, thì ta cùng ngươi đồng thờ một thầy Huỳnh-Mai, tự mình phải hộ trì cho khéo.”

91.– Minh lại hỏi : “Huệ-Minh sau nầy nên tới xứ nào ?”

92.– Huệ-Năng đáp : “Gặp Viên thì dừng, gặp Minh thì ở.”

93.– Minh đảnh lễ từ biệt.

94.– Minh khi về đến chơn núi, kêu bọn đuổi đó mà nói rằng : “Ta đây đã theo tới chỗ cao vọi kia mà không thấy dấu-tích đâu cả, vậy bọn ngươi phải do đàng khác mà theo kiếm.” – Chúng kia đều tưởng là thiệt.

95.– Sau Huệ-Minh đổi tên là Đạo-Minh, vì tránh chữ Huệ là chữ đầu tên của thầy.

96.– Huệ-Năng sau về đến Tào-Khê lại bị quân dữ theo đuổi, bèn lánh nạn ở trong bọn thợ săn nơi Tứ-hội, trường trải mười lăm năm, hằng khi cùng bọn thợ săn tùy tiện mà thuyết pháp.

97.– Bọn thợ săn thường bảo Huệ-Năng giữ coi miệng lưới, mỗi lần thấy loài thú mắc vào, thì đều mở lưới thả hết. – Mỗi khi đến giờ ăn, thì lấy rau nấu kèm theo nồi luộc thịt để dùng qua bữa, hoặc có ai thấy lạ mà hỏi, thì ta nói : “Ta chỉ ăn thứ rau nấu bên thịt thôi !”

98.– Một ngày kia suy nghĩ, đã tới thời kỳ nên ra hoằng pháp, không thể trốn ở đây trọn đời.

99.– Nghĩ như vậy rồi, mới tìm đến chùa Pháp-Tánh ở Quảng-Châu, vừa gặp Ấn-Tông pháp-sư đương giảng kinh Niết-Bàn, nhơn có hai sư tăng tranh luận nhau về nghĩa phong phang (gió và phướng), người thì nói : ”gió động”, người thì nói : ”phướng động”, cãi mãi không thôi.

100.– Huệ-Năng bước tới mà rằng : “Chẳng phải gió động, cũng chẳng phải phướng động, chính là tâm của hai nhơn-giả động.”

101.– Chúng đều kinh hãi.

102.– Ấn-Tông mời ta ngồi trên, rồi gạn hỏi những nghĩa kín-nhiệm, thì thấy Huệ-Năng nầy lời nói giản dị, nghĩa lý xác đáng mà chẳng do theo văn-tự.

103.– Ấn-Tông mới thưa : “Hành-giả quyết định không phải là người thường, lâu nay tôi cũng nghe y-pháp của Tổ Huỳnh-Mai đã về hướng Nam, có lẽ về hành-giả chăng ?”

104.– Huệ-Năng đáp : “Ta đâu dám !”

105.– Tông khi ấy đảnh lễ, rồi xin đem y-bát của Tổ truyền lại đó cho đại chúng xem.

106.– Tông lại hỏi : “Lời phú-chúc của Tổ Huỳnh-Mai chỉ trao bằng cách nào ?”

107.– Huệ-Năng nầy đáp : “Chỉ trao vốn không, mà chỉ luận về kiến-tánh, chớ chẳng luận đến thiền-định và giải-thoát.”

108.– Tông hỏi : “Vì sao chẳng luận đến thiền-định và giải-thoát ?”

109.– Huệ-Năng nầy đáp : “Vì hai pháp ấy chẳng phải Phật-pháp ; Phật-pháp chính là pháp “chẳng hai”.”

110.– Tông hỏi tiếp : “Thế nào gọi là pháp ”chẳng hai” của Phật-pháp ?”

111.– Huệ-Năng đáp : “Pháp-sư giảng kinh Niết-Bàn, rõ được Phật-tánh, ấy là pháp “chẳng hai” của Phật-pháp.

112.– “Như ông Cao-Quý-Đức-Vương-Bồ-tát bạch Phật rằng : ”Những người phạm giới tứ-trọng, (5) tạo tội ngũ-nghịch(6) cùng những người nhứt-xiển-đề (7) thì dứt mất thiện-căn Phật-tánh phải chăng ?”

113.– “Phật nói : Thiện-căn có hai : một là thường, hai là vô thường ; mà Phật-tánh chẳng phải thường và chẳng phải vô-thường, vậy nên chẳng dứt, ấy gọi là “chẳng hai”. – Lại một là thiện, hai là chẳng thiện, mà Phật-tánh chẳng phải thiện và chẳng phải chẳng thiện, ấy gọi là : pháp “chẳng hai”.

114.– “Năm uẩn (8) với mười tám giới (9) từ nơi phàm phu mà thấy thành hai, mà người trí-giả thì rõ suốt, tánh nó “không hai”, cái tánh “không hai” ấy, tức là Phật-tánh.

115.– “Ấn-Tông nghe ta nói, chấp tay vui mừng rồi nói : Tôi đây giảng kinh dường như ngói gạch, nhân giả luận nghĩa chẳng khác vàng ròng !”

116.– Huệ-Năng mới mở ra pháp-môn Đông-Sơn ở dưới gốc Bồ-đề. – Huệ-Năng nầy trước xa do nơi Đông-Sơn đắc pháp, chịu biết bao nhiêu cay đắng sanh mạng nguy hiểm như sợi tơ treo. – Ngày nay được cùng Sử-quân, quan liêu, và các tăng ni đạo tục, cùng nhau, nhóm hiệp nơi đây, nếu chẳng phải tiền duyên lụy kiếp thì cũng là trong đời quá-khứ cúng dường các Phật đồng cấy căn lành, nên mới được nghe pháp Đốn-giáo và cái nguyên-nhơn đắc pháp như trên.

117.– Đốn-giáo ấy là Tiên-thánh truyền lại, chẳng phải tự trí của Huệ-Năng nầy. – Muốn nghe pháp Đốn-giáo của Tiên-Thánh đều phải tịnh tâm, nghe rồi mà ai ai cũng tự dứt bỏ những điều nghi-hoặc, thì đối với Thánh nhơn đời trước không khác gì.

 118.– Cả chúng nghe pháp vui mừng, rồi đảnh lễ xin lui.

 


(1) Hiện nay phần nhiều người nghiên cứu Đàn-kinh thường hay hủy báng bài kệ của ngài Thần-Tú trên đây, mà không rõ vì ý kệ ấy chưa thấy được bản tánh, cho nên Ngũ-Tổ không truyền phú y-bát cho ngài. Nhưng Tổ cũng có nói : Lưu truyền bài kệ ấy lại cho người tụng trì nếu y theo kệ ấy mà tu thì khỏi đọa vào ác đạo và được sự lợi ích lớn ; nói rồi Tổ bảo trong môn nhơn đều phải thắp hương lễ bái mà tụng bài kệ ấy cả.

Thế thì biết những hạng người không được bực thượng căn lợi khí như ngài Huệ-Năng mà nếu chẳng y theo kệ ấy làm chỗ hạ thủ công phu thì không khỏi lạc vào cuồng thiền mà có khi phải đọa nặng.

(2) Vì bài kệ của thầy Thần-Tú trên kia đã nói : “Thân Bồ-đề, tâm như minh cảnh”, mà Bồ-đề còn có cây tức là chưa lìa khỏi thân tướng, minh cảnh còn có đài, tức là chưa lìa khỏi tâm tướng ; tướng chưa lìa thì tánh chưa thấy được. Cho nên bài kệ nầy ngài nói : “Bồ-đề đâu phải thọ, minh cảnh có chi đài”, ấy là lìa hết thân tướng và tâm tướng rồi, thì còn có cái gì mà sợ trần ai ô nhiễm.

Vả lại tướng thân và tướng tâm ấy, là do nơi chúng-sanh từ vô thỉ nhẫn nại mê chơn theo vọng rồi nhận lầm bốn đại (đất, nước, gió, lửa) giả hiệp làm nên tướng tự thân và chấp bậy cái bóng vọng duyên của sáu trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) làm tướng tự-tâm mà cho rằng có đó thôi ; nhưng xét kỹ ra, gốc nó đã giả hiệp, thì đâu phải thiệt thân và gốc nó đã là cái bóng vọng duyên, thì đâu phải là thiệt tâm ; cho nên nói : Xưa nay không môt vật”.

(3) Bốn câu kệ nầy, thì hai câu trên là nói : đem hạt giống Phật gieo vào cõi đất lòng của loài hữu tình thì sau chắc sanh được bồ-đề diệu quả, tức là ý nói : Ngài đem cái tâm-ấn của “Phật-Phật tương truyền” mà truyền lại cho Lục-Tổ là người có đại-thừa căn trí, thì Lục-Tổ ngày sau chính là người kế thừa Phật vị vậy.

Còn hai câu dưới là nói : Những loài vô tình như cây đá, ngói gạch, thì không có giống Phật đã đành ; bằng loài hữu tình mà nếu không phải đại-thừa chủng-tánh, thì bồ-đề diệu quả cũng không do đâu sanh được. – Vậy nên tâm-ấn của Phật không phải vọng truyền.

(4) Câu : “diện-mục bổn-lai” nầy chính là câu nói tột bực về đạo pháp của bên Thiền môn.

Nghĩa “bổn-lai” cũng như nghĩa ”vô-thỉ dĩ lai”, tức là cái thanh thanh tịnh tịnh trước khi chưa có hư không thế giới, chưa có chư-Phật chúng-sanh, mà cứ suy tính mãi lên cho đến hằng sa kiếp số về trước, cũng không biết đâu làm cho cùng giáp của nó ; cho nên “diện-mục” không dễ thấy được. Nhưng cái không thể ấy, không phải là nó ở đâu xa cách, hay ở đâu quá kín mà khó thấy ; thiệt ra chỉ vì chúng-sanh đời đời kiếp kiếp mãi ở trong vòng phân biệt tư-duy của vọng thức mà mê quên nó đi nên lúc nào cũng chỉ thấy cái mày mặt của cha mẹ vô-minh sở sanh mà không thấy được cái chơn tướng của nó đó thôi.

Nếu như ai cũng tự mình hồi quang phản chiếu, dứt hết các duyên, dừng khởi một niệm gì hoặc thiện hoặc ác, thì lúc ấy chơn tướng nó hiện bày ra một cách chói trời lòa đất, không giống với một vật gì trong vũ trụ vạn hữu là chẳng phải có.

(5) “Tứ-trọng” là bốn thứ tội nặng : 1. tội sát sanh ; 2. tội trộm cướp ; 3. tội dâm dục ; 4. tội nói dối.

(6) “Ngũ-nghịch” là năm thứ tội ác rất trái nghịch với lý : 1. giết cha ; 2. giết mẹ ; 3. giết bực A-La-Hán ; 4. phá sự hòa hiệp của tăng chúng ; 5. dùng tâm ác làm cho thân Phật ra máu.

Trong năm tội ấy thì hai tội trên là trái ơn sanh dưỡng, còn ba tội dưới là phá hư ruộng phước điền, cho nên kêu là : nghịch.

(7) “Nhứt-xiển-đề” là tiếng Phạm, Tàu dịch : Bất tín (chẳng tín) nghĩa là : chẳng tin luật nhơn quả và chẳng tin lý nghiệp báo, chính là người không có tánh thành Phật.

Trong kinh Lăng-Già nói : Nhứt xiển đề-đề có hai thứ : một là những người cực ác dứt mất hết căn lành mà không được thành Phật ; hai là những bực Đại bi Bồ-tát, vì muốn cứu độ cho hết thảy chúng-sanh mà không chịu thành Phật.

Những thầy Tỳ-khưu phạm tội tứ-trọng, thì theo luật phải tẩn xích ra ngoài biển Phật-pháp, không được ở chung với trong hàng tăng chúng. Còn những người phạm tội ngũ-nghịch, thì đọa vào Địa ngục Vô gián, chịu sự thống khổ kiếp kiếp đời đời.

Nhưng xứng tánh mà nói thì tứ trọng, ngũ nghịch và nhứt xiển đề là tội tánh, thiện căn là Phật tánh ; mà tội tánh với Phật tánh không phải hai vật, tội tánh như sóng, Phật tánh như nước, khi bị gió thổi động thì toàn thể nước thành ra sóng, đến lúc dứt hết gió rồi thì toàn thể sóng tức là nước.

Cái lý Phật tánh với tội tánh cũng như vậy. Trong khi chơn như Phật tánh tùy theo nhiễm duyên của sáu trần, tạo nghiệp thọ báo mà thành ra tội tánh, đến lúc nghiệp dứt báo không, thì tội tánh ấy tức là chơn như Phật tánh, chớ không phải cái gì khác.

Cho nên trong kinh Duy-Ma-Cật nói : Có hai người Tỳ-khưu một người phạm tội dâm và một người phạm tội sát, tự lấy làm hổ thẹn, không dám đến bạch Phật, mới cùng nhau tới ngài Ưu-Ba-Ly cầu xin giải chỗ nghi hối cho đặng khỏi lỗi, thì ngài Ưu-Ba-Ly cứ theo luật pháp mà kết. Khi ấy có ngài Duy-Ma-Cật đi đến nói với Ưu-Ba-Ly rằng : Ông đừng thêm tội cho hai người Tỳ-khưu, cứ trừ dứt thẳng chớ làm rối tâm người ; vì tội tánh kia chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, và chẳng ở giữa, như lời Phật nói : Vì tâm nhơ, nên chúng-sanh nhơ ; Vì tâm sạch nên chúng-sanh sạch ; tâm cũng chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, và chẳng ở giữa, tâm đã như vậy, thì tội cấu cũng vậy ; cho đến các pháp cũng vậy, chẳng cái gì ra ngoài lý như hoạn. Nếu biết các pháp đều sanh diệt chẳng trụ, như đồ mỵ thuật, như chớp điện nhoáng, và nếu biết các pháp đều thấy một cách giả dối, như trăng trong nước, như tượng trong gương, đều do nơi vọng tưởng sanh ra cả ; biết được vậy mới gọi là : phụng luật, và mới gọi là thiện giải.

Sau khi ngài Duy-Ma nói thế, rồi thì hai người Tỳ-khưu dứt sự nghi hối (nghi ngờ và ăn năn) và phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác liền.

Lại trong kinh Pháp Hoa nói : Đề-Bà-Đạt-Đa tuy phạm ba tội nghịch : 1. lừa dối năm trăm thầy Tỳ-khưu mà phá chúng hòa hiệp ; 2. liệng viên đá lớn mà thân Phật chảy máu và bảo vua A-Xà Thế-Vương cho voi uống rượu say rồi thả ra đạp Phật với để thuốc độc trong mười móng ngón tay, đặng thừa thi lễ dưới chơn Phật mà hại Phật, (ba tội nầy hiệp lại làm một) ; – và 3. tay cầm cú mà đánh giết bà Ba-Sắc Tỳ-khưu-ni đương sống mà đọa vào Địa ngục Vô gián ; nhưng Phật thọ ký cho ông sau sẽ thành Phật, hiệu là : Thiên-Vương Như-Lai.

Lại ngài Trúc-Đạo-Sanh ở đời nhà Tấn, trong khi truyền bá cái thuyết ”Xiển-đề thành Phật”, thì lúc ấy kinh Đại-Niết-Bàn chưa truyền sang Tàu, các nhà cựu học đều cho thuyết của ngài nói là tà thuyết, cùng nhau tẩn xích ngài. – Sau ngài vào núi Hổ-Khưu dụng đá làm thính đồ, còn ngài thì ngồi giữa giảng kinh Niết-Bàn ; khi ngài giảng đến chỗ “Xiển-đề có Phật tánh”, thì ngài hỏi chúng đáp rằng : “Theo lời ta nói đó có hiệp với tâm Phật không ?” – Hỏi rồi chúng đá đều gặc đầu mà tỏ dấu thừa nhận cả thảy.

Xem thế thì biết Phật-Phật Tổ-Tổ, tuy thời kỳ ứng hóa có trước có sau, mà chỗ thuyết pháp độ sanh như đồng một khuôn mẫu.

(8) Năm uẩn cũng gọi là : năm ấm, tức là : sắc, thọ, tưởng, hành, thức ; vì nó chứa nhóm sự tội lỗi, nên gọi là : “uẩn”, và cũng vì nó che lấp chơn tánh, nên gọi là “ấm”.

(9) Mười tám giới là : sáu căn (nhãn-căn, nhĩ-căn, tỷ-căn, thiệt-căn, thân-căn, ý-căn), sáu trần (sắc-trần, thinh-trần, hương-trần, vị-trần, xúc-trần, pháp-trần) và sáu thức (nhãn-thức, nhĩ thức, tỷ-thức, thiệt-thức, thân-thức, ý-thức).

­“Uẩn“ và ”giới” cũng chẳng ngoài “sắc” và ”tâm” hai pháp cho nên tự nơi cái thấy phân biệt của phàm phu thì thấy có hai mà tự nơi cái thấy viên dung của người trí giả thì biết hết thảy tâm phần của thức A-lại-da biến hiện ; mà thức A-lại-da lại là do mê tâm chơn như mà thành ra, cho nên nói : Tánh nó không hai, và cái tánh không hai ấy tức là chơn như Phật-tánh.

Nhưng phải biết cái pháp “không hai” nói đây, chẳng được hiểu lầm rằng : Không hai tức là có một, vì đã lìa cả tâm pháp và sắc pháp, thì kiến phần và tướng phần đã không có ; – mà kiến phần và tướng phần đã không có chi gọi là : A-lại-da ; – mà A-lại-da đã không có, thì cũng chẳng có chi gọi là : chơn như nữa.

Cho nên trong kinh Duy-Ma-Cật nói : Ngài Văn-Thù hỏi : “Thế nào là Bồ-tát vào được pháp môn chẳng hai ?” – Ngài Duy-Ma-Cật nín thinh. – Ngài Văn-Thù khen rằng : “Hay rằng : Hay thật ! – Hay thật !”

Nhẫn đến văn-tự và ngữ-ngôn cũng không có, vậy mới thiệt vào được pháp-môn chẳng hai. – Thế là văn-tự ngữ-ngôn còn không có, thì còn cái gì là uẩn, là giới, là sắc, là tâm, là kiến, là tướng, là A-lại-da, là chơn như nữa.

Duy có một điều khác nhau là : đồng hỏi một “pháp-môn chẳng hai” mà ngài Duy-Ma-Cật thì nín thinh, còn ngài Lục-Tổ đây thì lại giải nói, không khỏi để một nghi-án cho người học Phật đời sau ; nhưng thiệt ra thì chỗ “nói với nín, nín với nói“ của hai ngài tưởng không khác, mà vì một bên thì đối với ngài Văn-Thù là bực đại trí Bồ-tát và một bên thì đối với ngài Ấn-Tông là người còn ở trong học-địa, cho nên ngài Duy-Ma nín thinh mà ngài Lục-Tổ giải nói là vậy.

 

 

Xem mục lục