Nói thân tan rã, là nói về sự chết hay khi hấp hối. Kinh khởi đầu với một người hỏi Đức Phật rằng phải nhìn thấy gì (kiến) và giữ giới (sila) như thế nào để được bình an – người bình an còn gọi là người tối thắng. Luận thư đời sau (theo bản dịch của Bhikkhu Bodhi) giải thích rằng duyên khởi kinh là do Đức Phật nhận thấy một số chư thiên trong hội chúng khởi tâm thắc mắc, “Nên làm gì trước khi thân này tan rã?” Đức Phật mới dùng thần thông tạo ra hình ảnh một vị Phật đi cùng với 1,250 tỳ khưu tụ hội trên không trung, và Đức Phật Thích Ca dùng thần thông để vị Phật (trên không, do thần thông tạo ra) đặt câu hỏi để Ngài nói bài kinh này. Vị Phật trên không đó được ngài Bodhi dịch là “a mind-created buddha” – nghĩa là, một vị “hóa Phật do tâm tạo” hay “huyễn Phật do tâm tạo” bỗng hiện trên bầu trời và nêu câu hỏi cho Đức Phật Thích Ca trả lời, thuyết kinh. Phải chăng hình ảnh hóa Phật này là một Đức Phật A Di Đà hay một Đức Phật Dược Sư?
Kinh này đặc biệt, hầu hết, không dạy là phải làm gì. Mà tập trung dạy là không, dạy là chớ, dạy là đừng. Nghe văn phong, có thể nghĩ tới Bát Nhã. Vì có vẻ như làm gì cũng sai, và không làm bất cứ gì mới là đúng. Duy có lời Đức Phật dạy: luôn luôn tịch lặng và tỉnh thức. Tức là chỉ và quán, quân bình. Đây cũng là chỗ để suy nghĩ, bởi vì rất nhiều nhà sư và học giả thế giới từ thế kỷ 19 tới giờ nhấn mạnh vào quán (vipassana) hơn là chỉ (samatha). Đức Phật còn gọi người giải thoát là người Bình An, có vẻ nhấn mạnh yếu tố tịch tĩnh hơn là quán chiếu.
Đối chiếu, cũng sẽ thấy rất nhiều lời dạy của Thiền Tông trong này. Kinh Sn 4.10 tuy ngắn, nhưng gói trọn nhiều lời dạy của Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Nhân Tông, Huệ Năng, Lâm Tế, Dogen, Hakuin… Nếu tóm gọn một lời, theo Thiền Tông sẽ là: Tỉnh tỉnh lặng lặng sống với tâm không biết. Cũng là Tâm vô tâm; kinh này gọi là không nương tựa gì, dù là nương tựa giáo thuyết. Thậm chí, Đức Phật nhấn mạnh, hãy xa lìa tất cả kiến. Trong khi Thiền Tông gọi là Thấy Tánh (Tánh Không, còn gọi là Thực Tướng Vô Tướng, hay Y Tha Tánh Duyên Khởi), trong kinh này Đức Phật gọi là nhận ra Pháp.
Ý đó, ghi trong bài Kệ 856, y hệt như trong Kinh Kim Cang, bản dịch Bodhi:
He has no dependences – having known the Dhamma, he is independent.
(Dịch: Người này không nương tựa gì [vô sở trụ] – nhận ra Pháp, người này độc lập.)
Nơi đây vắng bật những cái đã biết, đã học trong quá khứ hay đã mơ mộng về tương lai, và cũng không bận tâm với khoảnh khắc hiện tại; do vậy không có gì để so sánh thấp cao hay ngang bằng. Chỉ có cái tâm tỉnh thức lặng lẽ hiện tiền, người này sống với những cái chưa từng biết, và do vậy từng khoảnh khắc đều hiện ra mới tinh. Với tâm như thế, vắng bặt tất cả tham sân si mạn nghi. Tâm y hệt như lá sen, không giọt nước nào trụ lại. Vì là tỉnh thức với tâm không biết, nên trước mắt thấy rỗng rang vắng bặt tất cả sắc thọ tưởng hành thức.
Kinh này gồm các bài kệ từ 848 tới 861.
848
(Câu hỏi)
Nhìn thấy thế nào và hành xử thế nào
một người sẽ được gọi là bình an?
Tôi xin hỏi, và thưa Ngài Gotama,
xin dạy cho biết về người tối thắng.
849
(Đức Phật đáp)
Người đã không còn tham ái
trước khi thân tan rã
không dựa vào những gì trong quá khứ
không toan tính tư lường trong hiện tại
cũng không ước muốn gì ở tương lai.
850
Không còn giận dữ, sợ hãi
không còn khoe khoang, hối tiếc
họ là người trí, nói với điềm tĩnh
không lời nào ngã mạn, dao động
851
không mong muốn gì cho tương lai
không sầu muộn gì cho quá khứ
cô tịch giữa các xúc (từ mắt tai mũi lưỡi thân ý)
không bị dẫn đi bởi các kiến (quan điểm, lý thuyết).
852
không dính mắc, không lừa gạt
không tham muốn, không keo kiệt
không thô bạo, không kình chống
cũng không dùng lời tổn thương
853
không chạy theo các niềm vui
không tự hào, không ngã mạn
không dễ tin người, không mê đắm gì
luôn luôn dịu dàng, thông minh
854
rèn luyện không vì muốn được gì
không phiền hà khi thiếu thốn
không lòng tham nào khởi lên
cũng không chạy tìm các thức ăn ngon
855
Luôn luôn tỉnh thức và tịch lặng
Do vậy, không hề nghĩ gì về mình
là bằng ai, hơn ai, hay thua ai
không hề chút gì là tự hào
856
Với người không dựa vào bất cứ gì
nhận biết ra Pháp, người này độc lập.
Không chút tham muốn nào còn trong tâm
dù [tham] hữu hay vô, dù [tham] trở thành hay không trở thành.
857
Ta gọi người như thế là Bình An
người không bận tâm với thọ lạc
người, do vậy, không còn bị trói buộc
và đã vượt qua mọi dính mắc.
858
Người đó không có con trai hay gia súc
không có đồng ruộng hay đất đai
Với người này, không gì được tìm thấy
để họ cất giữ hay quăng bỏ.
859
không bận tâm những lời người khác
cùng với các ẩn tu, các Phạm hạnh
bình phẩm về họ,
người này không dao động vì bất kỳ lời ai nói.
860
Không tham và không keo kiệt,
người tịch tĩnh này tự nói là
mình cao hơn, ngang bằng, hay thấp hơn
Xa lìa mọi so sánh, đối chiếu
người này không còn khởi tâm so sánh gì nữa.
861
Không lấy gì trên đời làm của mình
không buồn vì những gì mình không có
không dính gì tới bất kỳ giáo thuyết nào
người đó thực sự được gọi là Bình An.
Hết Kinh Sn 4.10