XXXII. PHẨM KHEN BÁT-NHÃ
02
 Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát tám giải thoát mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa;              chẳng được dẫn phát tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà              nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát tám giải thoát mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa;              chẳng được dẫn phát tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ mà              nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?               Này Xá Lợi Tử! Vì tám giải thoát không              làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại,              không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn              phát tám giải thoát mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì tám              thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ không làm, không nghỉ,              không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không              bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát tám thắng xứ,              chín định thứ đệ, mười biến xứ, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.              Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát bốn niệm trụ mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa;              chẳng được dẫn phát bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực,              bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà nên dẫn phát              Bát-nhã-ba-la-mật-đa.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát bốn niệm trụ mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa;              chẳng được dẫn phát bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực,              bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo mà nên dẫn phát              Bát-nhã-ba-la-mật-đa?               Này Xá Lợi Tử! Vì bốn niệm trụ không              làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại,              không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn              phát bốn niệm trụ mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì bốn chánh              đoạn cho đến tám chi thánh đạo không làm, không nghỉ, không sanh,              không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có              tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát bốn chánh đoạn cho đến              tám chi thánh đạo, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.              Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát pháp môn giải thoát không mà nên dẫn phát              Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát pháp môn giải thoát vô              tướng, vô nguyện mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát pháp môn giải thoát không mà nên dẫn phát              Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát pháp môn giải thoát vô              tướng, vô nguyện mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?               Này Xá Lợi Tử! Vì pháp môn giải thoát              không không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành,              không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát              chẳng được dẫn phát pháp môn giải thoát không mà nên dẫn phát              Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện              không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không              hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện, mà nên dẫn              phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.              Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát năm loại mắt mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa;              chẳng được dẫn phát sáu phép thần thông mà nên dẫn phát              Bát-nhã-ba-la-mật-đa.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát năm loại mắt mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa;              chẳng được dẫn phát sáu phép thần thông mà nên dẫn phát              Bát-nhã-ba-la-mật-đa?               Này Xá Lợi Tử! Vì năm loại mắt không              làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại,              không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn              phát năm loại mắt mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì sáu phép              thần thông không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không              thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại              Bồ-tát chẳng được dẫn phát sáu phép thần thông, mà nên dẫn phát              Bát-nhã-ba-la-mật-đa.              Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát mười lực Phật mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa;              chẳng được dẫn phát bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt,              đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà nên              dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát mười lực Phật mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa;              chẳng được dẫn phát bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt,              đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng mà nên              dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?               Này Xá Lợi Tử! Vì mười lực Phật không              làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại,              không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn              phát mười lực Phật mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì bốn điều              không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không làm, không nghỉ,              không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không              bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát bốn điều              không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, mà nên dẫn phát              Bát-nhã-ba-la-mật-đa.              Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát pháp không quên mất mà nên dẫn phát              Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát tánh luôn luôn xả mà nên              dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát pháp không quên mất mà nên dẫn phát              Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát tánh luôn luôn xả mà nên              dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?               Này Xá Lợi Tử! Vì pháp không quên mất              không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không              hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát pháp không quên mất mà nên dẫn phát              Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì tánh luôn luôn xả không làm, không nghỉ,              không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được, không              bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát tánh luôn              luôn xả, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.              Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát trí nhất thiết mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa;              chẳng được dẫn phát trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà nên dẫn              phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát trí nhất thiết mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa;              chẳng được dẫn phát trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng mà nên dẫn              phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?               Này Xá Lợi Tử! Vì trí nhất thiết không              làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại,              không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn              phát trí nhất thiết mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì trí đạo              tướng, trí nhất thiết tướng không làm, không nghỉ, không sanh, không              diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự              tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát trí đạo tướng, trí nhất              thiết tướng, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.              Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát tất cả pháp môn Đà-la-ni  mà nên dẫn phát              Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát tất cả pháp môn Tam-ma-địa              mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát tất cả pháp môn Đà-la-ni  mà nên dẫn phát              Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng được dẫn phát tất cả pháp môn              Tam-ma-địa  mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?               Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả pháp môn              Đà-la-ni không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành,              không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát              chẳng được dẫn phát tất cả pháp môn Đà-la-ni mà nên dẫn phát              Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì tất cả pháp môn Tam-ma-địa không làm, không              nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không được,              không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát tất cả              pháp môn Tam-ma-địa, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.              Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát quả Dự-lưu mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng              được dẫn phát quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà nên dẫn phát              Bát-nhã-ba-la-mật-đa.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát quả Dự-lưu mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; chẳng              được dẫn phát quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán mà nên dẫn phát              Bát-nhã-ba-la-mật-đa?               Này Xá Lợi Tử! Vì quả Dự-lưu không              làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại,              không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn              phát quả Dự-lưu mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa; vì quả              Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán không làm, không nghỉ, không sanh,              không diệt, không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có              tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát quả Nhất-lai, Bất-hoàn,              A-la-hán, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.              Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát quả vị Ðộc-giác mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.                           Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát quả vị Ðộc-giác mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?                           Này Xá Lợi Tử! Vì quả vị Ðộc-giác              không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không              hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát quả vị Ðộc-giác, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.                           Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát tất cả hạnh đại Bồ-tát mà nên dẫn phát              Bát-nhã-ba-la-mật-đa.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát tất cả hạnh đại Bồ-tát mà nên dẫn phát              Bát-nhã-ba-la-mật-đa?               Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả hạnh đại              Bồ-tát không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành,              không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát              chẳng được dẫn phát tất cả hạnh đại Bồ-tát, mà nên dẫn phát              Bát-nhã-ba-la-mật-đa.               Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật mà nên dẫn phát              Bát-nhã-ba-la-mật-đa.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật mà nên dẫn phát              Bát-nhã-ba-la-mật-đa?               Này Xá Lợi Tử! Vì quả vị giác ngộ cao              tột của chư Phật không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt,              không thành, không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh nên              đại Bồ-tát chẳng được dẫn phát quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật,              mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.               Lại nữa, Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát tất cả pháp mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.                           Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát chẳng              được dẫn phát tất cả pháp mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa?                           Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả pháp không              làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành, không hoại,              không được, không bỏ, không có tự tánh nên đại Bồ-tát chẳng được dẫn              phát tất cả pháp, mà nên dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa.              Khi ấy, Xá Lợi Tử lại bạch Phật: Bạch              Thế Tôn! Đại Bồ-tát dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế cùng hiệp              với pháp nào?               Phật dạy: Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ-tát              dẫn phát Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế chẳng hiệp với tất cả pháp. Vì              chẳng hiệp nên được gọi là Bát-nhã-ba-la-mật-đa.              Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như              thế không cùng hiệp với tất cả những pháp nào?               Này Xá Lợi Tử! Bát-nhã-ba-la-mật-đa              như thế, chẳng cùng hiệp với pháp thiện, chẳng cùng hiệp với pháp              phi thiện, chẳng cùng hiệp với pháp hữu tội, chẳng cùng hiệp với              pháp vô tội, chẳng cùng hiệp với pháp hữu lậu, chẳng cùng hiệp với              pháp vô lậu, chẳng cùng hiệp với pháp hữu vi, chẳng cùng hiệp với              pháp vô vi, chẳng cùng hiệp với pháp tạp nhiễm, chẳng cùng hiệp với              pháp thanh tịnh, chẳng cùng hiệp với pháp nhiễm ô, chẳng cùng hiệp              với pháp bất nhiễm ô, chẳng cùng hiệp với pháp thế gian, chẳng cùng              hiệp với pháp xuất thế gian, chẳng cùng hiệp với pháp sanh tử, chẳng              cùng hiệp với pháp Niết-bàn. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì              Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, đối với tất cả pháp, không có sở đắc.              Lúc bấy giờ, trời Ðế Thích bạch Phật:              Bạch Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế sao chẳng hiệp với trí              nhất thiết trí?               Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Đúng vậy!              Đúng vậy! Bát-nhã-ba-la-mật-đa này cũng chẳng hiệp với trí nhất              thiết trí. Vì do cái này đối với cái kia chẳng thể nắm bắt được.              Bạch Thế Tôn! Vì sao              Bát-nhã-ba-la-mật-đa đối với trí nhất thiết trí không hiệp cũng              không đắc?               Này Kiều Thi Ca! Chẳng phải              Bát-nhã-ba-la-mật-đa đối với trí nhất thiết trí có hiệp có đắc đúng              như danh, như tướng, như tác dụng của nó.               Bạch Thế Tôn! Vì sao              Bát-nhã-ba-la-mật-đa đối với trí nhất thiết trí cũng có hiệp có đắc?                           Này Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa              đối với trí nhất thiết trí không thọ, không thủ, không trụ, không              đoạn, không chấp, không xả, đúng như danh, tướng v.v... hiệp đắc như              vậy mà không hiệp đắc.               Này Kiều Thi Ca! Bát-nhã-ba-la-mật-đa              như thế, đối với tất cả pháp cũng không thọ, không thủ, không trụ,              không đoạn, không chấp, không xả, đúng như danh, tướng v.v… hiệp đắc              như vậy mà không hiệp đắc.              Khi ấy, trời Ðế Thích lại bạch Phật:              Bạch Thế Tôn! Thật hiếm có! Bát-nhã-ba-la-mật-đa như thế, vì tất cả              pháp không làm, không nghỉ, không sanh, không diệt, không thành,              không hoại, không được, không bỏ, không có tự tánh mà hiện tại, tuy              có hiệp có đắc nhưng không hiệp không đắc.              Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch              Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát khi tu hành Bát-nhã-ba-la-mật-đa,              khởi tưởng thế này: Bát-nhã-ba-la-mật-đa cùng hiệp với tất cả pháp;              Bát-nhã-ba-la-mật-đa chẳng cùng hiệp với tất cả pháp thì đại Bồ-tát              ấy vứt bỏ hết Bát-nhã-ba-la-mật-đa; xa lìa hết Bát-nhã-ba-la-mật-đa.              Phật dạy: Thiện Hiện! Lại có nhân              duyên các đại Bồ-tát vứt bỏ Bát-nhã-ba-la-mật-đa; xa lìa              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, đó là khi đại Bồ-tát tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, khởi tưởng thế này: Bát-nhã-ba-la-mật-đa như              thế không có sở hữu, chẳng phải chơn thật, chẳng kiên cố, chẳng tự              tại, nên đại Bồ-tát ấy vứt bỏ hết Bát-nhã-ba-la-mật-đa, xa lìa hết              Bát-nhã-ba-la-mật-đa.              Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch              Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin              pháp nào?               Phật dạy: Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin sắc; chẳng tin thọ,              tưởng, hành, thức.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin sắc; chẳng tin thọ, tưởng,              hành, thức?               Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán sắc chẳng thể nắm bắt được; quán thọ,              tưởng, hành, thức chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin sắc; chẳng tin thọ, tưởng,              hành, thức.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhãn xứ; chẳng tin nhĩ,              tỷ, thiệt, thân, ý xứ.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhãn xứ; chẳng tin nhĩ, tỷ,              thiệt, thân, ý xứ?               Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được; quán nhĩ,              tỷ, thiệt, thân, ý xứ chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhãn xứ; chẳng tin nhĩ,              tỷ, thiệt, thân, ý xứ.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin sắc xứ; chẳng tin thanh,              hương, vị, xúc, pháp xứ.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin sắc xứ; chẳng tin thanh,              hương, vị, xúc, pháp xứ?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán sắc xứ chẳng thể nắm bắt được; quán              thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên              đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin sắc xứ; chẳng              tin thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhãn giới; chẳng tin sắc              giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên              sanh ra.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhãn giới; chẳng tin sắc              giới, nhãn thức giới và nhãn xú cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên              sanh ra?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán nhãn giới chẳng thể nắm bắt được; quán              sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm              bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì              chẳng tin nhãn giới; chẳng tin sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc              làm duyên sanh ra.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhĩ giới; chẳng tin thanh              giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên              sanh ra.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin nhĩ giới; chẳng tin thanh              giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên              sanh ra?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán nhĩ giới chẳng thể nắm bắt được; quán              thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể              nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì              chẳng tin nhĩ giới; chẳng tin thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc              làm duyên sanh ra.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tỷ giới; chẳng tin hương              giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh              ra.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tỷ giới; chẳng tin hương              giới, tỷ thức giới và tỷ xúc cùng các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh              ra?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán tỷ giới chẳng thể nắm bắt được; quán              hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm              bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì              chẳng tin tỷ giới; chẳng tin hương giới cho đến các thọ do tỷ xúc              làm duyên sanh ra.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin thiệt giới; chẳng tin vị              giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm              duyên sanh ra.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin thiệt giới; chẳng tin vị              giới, thiệt thức giới và thiệt xúc cùng các thọ do thiệt xúc làm              duyên sanh ra?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán thiệt giới chẳng thể nắm bắt được; quán              vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm              bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì              chẳng tin thiệt giới; chẳng tin vị giới cho đến các thọ do thiệt xúc              làm duyên sanh ra.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thì chẳng tin thân giới; chẳng tin xúc              giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên              sanh ra.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa, thì chẳng tin thân giới; chẳng tin xúc              giới, thân thức giới và thân xúc cùng các thọ do thân xúc làm duyên              sanh ra?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán thân giới chẳng thể nắm bắt được; quán              xúc giới cho đến các thọ do thân xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm              bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì              chẳng tin thân giới, chẳng tin xúc giới cho đến các thọ do thân xúc              làm duyên sanh ra.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin ý giới; chẳng tin pháp              giới, ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra.                           Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin ý giới; chẳng tin pháp giới,              ý thức giới và ý xúc cùng các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra?                            Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán ý giới chẳng thể nắm bắt được; quán pháp              giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng thể nắm bắt              được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng              tin ý giới; chẳng tin pháp giới cho đến các thọ do ý xúc làm duyên              sanh ra.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin địa giới; chẳng tin thủy,              hỏa, phong, không, thức giới.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin địa giới; chẳng tin thủy,              hỏa, phong, không, thức giới?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán địa giới chẳng thể nắm bắt được; quán              thủy, hỏa, phong, không, thức giới chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy              nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin địa giới;              chẳng tin thủy, hỏa, phong, không, thức giới.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin vô minh; chẳng tin hành,              thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu,              than, khổ, ưu, não.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin vô minh; chẳng tin hành,              thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu,              than, khổ, ưu, não?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán vô minh chẳng thể nắm bắt được; quán hành              cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não chẳng thể nắm bắt được. Vì              vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin vô              minh; chẳng tin hành cho đến lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin bố thí Ba-la-mật-đa;              chẳng tin tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã              Ba-la-mật-đa.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin bố thí Ba-la-mật-đa; chẳng              tin tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa?                           Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán bố thí Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt              được; quán tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát-nhã              Ba-la-mật-đa chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin              Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn,              tịnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật-đa.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp không nội; chẳng tin              pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không              lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi,              pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn,              pháp không không đổi khác, pháp không bổn tánh, pháp không tự tướng,              pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể              nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không              không tánh tự tánh.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp không nội, chẳng tinh              pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không, pháp không              lớn, pháp không thắng nghĩa, pháp không hữu vi, pháp không vô vi,              pháp không rốt ráo, pháp không không biên giới, pháp không tản mạn,              pháp không không đổi khác, pháp không bổn tánh, pháp không tự tướng,              pháp không cộng tướng, pháp không tất cả pháp, pháp không chẳng thể              nắm bắt được, pháp không không tánh, pháp không tự tánh, pháp không              không tánh tự tánh?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán pháp không nội chẳng thể nắm bắt được;              quán pháp không ngoại cho đến pháp không không tánh tự tánh chẳng              thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa              thì chẳng tin pháp không nội, chẳng tin pháp không ngoại cho đến              pháp không không tánh tự tánh.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin chơn như; chẳng tin pháp              giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình              đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư              không, cảnh giới bất tư nghì.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin chơn như; chẳng tin pháp              giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình              đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư              không, cảnh giới bất tư nghì?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán chơn như chẳng thể nắm bắt được; quán              pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng thể nắm bắt được. Vì              vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin chơn              như, chẳng tin pháp giới cho đến cảnh giới bất tư nghì.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin Thánh đế khổ; chẳng tin              Thánh đế tập, diệt, đạo.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin Thánh đế khổ; chẳng tin Thánh              đế tập, diệt, đạo?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán Thánh đế khổ chẳng thể nắm bắt được; quán              Thánh đế tập, diệt, đạo chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại              Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin Thánh đế khổ;              chẳng tin Thánh đế tập, diệt, đạo.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin bốn tịnh lự; chẳng tin              bốn vô lượng, bốn định vô sắc.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin bốn tịnh lự; chẳng tin bốn vô              lượng, bốn định vô sắc?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán bốn tịnh lự chẳng thể nắm bắt được; quán              bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại              Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin bốn tịnh lự; chẳng              tin bốn vô lượng, bốn định vô sắc.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tám giải thoát; chẳng tin              tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tám giải thoát; chẳng tin tám              thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán tám giải thoát chẳng thể nắm bắt được;              quán tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ chẳng thể nắm bắt              được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng              tin tám giải thoát; chẳng tin tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười              biến xứ.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin bốn niệm trụ; chẳng tin              bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác,              tám chi thánh đạo.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin bốn niệm trụ; chẳng tin bốn              chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám              chi thánh đạo ?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán bốn niệm trụ chẳng thể nắm bắt được; quán              bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo chẳng thể nắm bắt được. Vì              vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin bốn              niệm trụ; chẳng tin bốn chánh đoạn cho đến tám chi thánh đạo.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp môn giải thoát              không; chẳng tin pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.                            Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp môn giải thoát không;              chẳng tin pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán pháp môn giải thoát không chẳng thể nắm              bắt được; quán pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện chẳng thể nắm              bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì              chẳng tin pháp môn giải thoát không; chẳng tin pháp môn giải thoát              vô tướng, vô nguyện.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin năm loại mắt; chẳng tin              sáu phép thần thông.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin năm loại mắt; chẳng tin sáu              phép thần thông?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán năm loại mắt chẳng thể nắm bắt được; quán              sáu phép thần thông chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin năm loại mắt; chẳng tin              sáu phép thần thông.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin mười lực Phật; chẳng tin              bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại              hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin mười lực Phật; chẳng tin bốn              điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ,              đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán mười lực Phật chẳng thể nắm bắt được;              quán bốn điều không sợ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng thể              nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì              chẳng tin mười lực Phật; chẳng tin bốn điều không sợ cho đến mười              tám pháp Phật bất cộng.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp không quên mất;              chẳng tin tánh luôn luôn xả.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp không quên mất; chẳng              tin tánh luôn luôn xả?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán pháp không quên mất chẳng thể nắm bắt              được; quán tánh luôn luôn xả chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại              Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin pháp không quên              mất; chẳng tin tánh luôn luôn xả.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin trí nhất thiết; chẳng tin              trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin trí nhất thiết; chẳng tin trí              đạo tướng, trí nhất thiết tướng?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán trí nhất thiết chẳng thể nắm bắt được;              quán trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng chẳng thể nắm bắt được. Vì              vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin trí              nhất thiết; chẳng tin trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả pháp môn Đà-la-ni;              chẳng tin tất cả pháp môn Tam-ma-địa.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả pháp môn Đà-la-ni;              chẳng tin tất cả pháp môn Tam-ma-địa?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nắm              bắt được; quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nắm bắt được. Vì              vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả              pháp môn Đà-la-ni; chẳng tin tất cả pháp môn Tam-ma-địa.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả Dự-lưu; chẳng tin quả              Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả Dự-lưu; chẳng tin quả              Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán quả Dự-lưu chẳng thể nắm bắt được; quán              quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên              đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả Dự-lưu;              chẳng tin quả Nhất-lai, Bất-hoàn, A-la-hán.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả vị Ðộc-giác.                            Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả vị Ðộc-giác?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán quả vị Ðộc-giác chẳng thể nắm bắt được.              Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả              vị Ðộc-giác.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả hạnh đại Bồ-tát.                           Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả hạnh đại Bồ-tát?                           Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể nắm bắt              được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng              tin tất cả hạnh đại Bồ-tát.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả vị giác ngộ cao tột              của chư Phật.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả vị giác ngộ cao tột của              chư Phật?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật              chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nên đại Bồ-tát khi tin              Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin quả vị giác ngộ cao tột của chư              Phật.              Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ-tát              khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả pháp.               Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ-tát khi              tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả pháp?               Này Thiện Hiện! Đại Bồ-tát khi tu hành              Bát-nhã-ba-la-mật-đa, quán tất cả pháp chẳng thể nắm bắt được. Vì              vậy nên đại Bồ-tát khi tin Bát-nhã-ba-la-mật-đa thì chẳng tin tất cả              pháp.              Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch              Thế Tôn! Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát gọi là đại              Ba-la-mật-đa.               Phật dạy: Này Thiện Hiện! Ông dựa vào              ý gì mà nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa?              Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn!              Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát đối với sắc chẳng làm cho lớn,              chẳng làm cho nhỏ; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho              lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với sắc chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm              cho phân tán; đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho nhóm              tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với sắc chẳng làm cho có hạn lượng,              chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với thọ, tưởng, hành, thức              cũng chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng;              đối với sắc chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với thọ,              tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối              với sắc chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với              thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho              không có sức.               Bạch Thế Tôn! Con dựa vào ý này nên              nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.              Lại nữa, bạch Thế Tôn!              Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát, đối với nhãn xứ chẳng làm cho              lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng              chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với nhãn xứ chẳng làm cho              nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ              cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với nhãn xứ              chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối              với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng chẳng làm cho có hạn lượng,              chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với nhãn xứ chẳng làm cho              rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng              chẳng làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với nhãn xứ chẳng làm cho              có sức, chẳng làm cho không có sức; đối với nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý              xứ cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.                            Bạch Thế Tôn! Con dựa vào ý này nên              nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.              Lại nữa, bạch Thế Tôn!              Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát, đối với sắc xứ chẳng làm cho              lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng              chẳng làm cho lớn, chẳng làm cho nhỏ; đối với sắc xứ chẳng làm cho              nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp              xứ cũng chẳng làm cho nhóm tụ, chẳng làm cho phân tán; đối với sắc              xứ chẳng làm cho có hạn lượng, chẳng làm cho không có hạn lượng; đối              với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng làm cho có hạn lượng,              chẳng làm cho không có hạn lượng; đối với sắc xứ chẳng làm cho rộng,              chẳng làm cho hẹp; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng chẳng              làm cho rộng, chẳng làm cho hẹp; đối với sắc xứ chẳng làm cho có              sức, chẳng làm cho không có sức; đối với thanh, hương, vị, xúc, pháp              xứ cũng chẳng làm cho có sức, chẳng làm cho không có sức.                            Bạch Thế Tôn! Con dựa vào ý này nên              nói Bát-nhã-ba-la-mật-đa của đại Bồ-tát là đại Ba-la-mật-đa.
