XXX. PHẨM SO SÁNH CÔNG ĐỨC
 50
 Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên thuyết              tịnh lự Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu              tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tất cả pháp môn Đà-la-ni hoặc              thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa              hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni và              tự tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không; tất cả pháp môn              Tam-ma-địa và tự tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không. Tự              tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự              tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa ấy cũng chẳng phải là tự tánh.              Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với              tịnh lự Ba-la-mật-đa này, tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nắm bắt              được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được; tất              cả pháp môn Tam-ma-địa chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô              thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn              không có tất cả pháp môn Đà-la-ni v.v... có thể nắm bắt được, huống              là có cái thường và vô thường kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự              như thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tất cả pháp môn Đà-la-ni              hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa hoặc              lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni và tự tánh của              tất cả pháp môn Đà-la-ni là không; tất cả pháp môn Tam-ma-địa và tự              tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không. Tự tánh của tất cả              pháp môn Đà-la-ni ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của tất cả              pháp môn Tam-ma-địa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là              tự tánh thì tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự              Ba-la-mật-đa này, tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nắm bắt được,              thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được; tất cả pháp môn              Tam-ma-địa chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng              thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có tất cả pháp môn              Đà-la-ni v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia!              Nếu người có khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tất cả pháp môn Đà-la-ni              hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa              hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni và tự              tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không; tất cả pháp môn Tam-ma-địa              và tự tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không. Tự tánh của tất              cả pháp môn Đà-la-ni ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của tất              cả pháp môn Tam-ma-địa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải              là tự tánh thì tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự              Ba-la-mật-đa này, tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nắm bắt được,              thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được; tất cả pháp môn              Tam-ma-địa chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng              chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả pháp              môn Đà-la-ni v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô              ngã kia! Nếu người có khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự              Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tất cả pháp môn Đà-la-ni              hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên quán tất cả pháp môn Tam-ma-địa              hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì tất cả pháp môn Đà-la-ni và tự              tánh của tất cả pháp môn Đà-la-ni là không; tất cả pháp môn Tam-ma-địa              và tự tánh của tất cả pháp môn Tam-ma-địa là không. Tự tánh của tất              cả pháp môn Đà-la-ni ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của tất              cả pháp môn Tam-ma-địa ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải              là tự tánh thì tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự              Ba-la-mật-đa này, tất cả pháp môn Đà-la-ni chẳng thể nắm bắt được              thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được; tất cả pháp              môn Tam-ma-địa chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia              cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có tất              cả pháp môn Đà-la-ni v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái              tịnh và bất tịnh kia! Nếu người có khả năng tu tịnh lự như thế là tu              tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh lự              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên thuyết              tịnh lự Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu              tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả hoặc              thường, hoặc vô thường; chẳng nên quán Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả,              Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả hoặc              thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả và tự              tánh của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả là không; Nhất-lai hướng, Nhất-lai              quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả và              tự tánh của Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả là không. Tự tánh              của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh              của Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả ấy cũng chẳng phải là tự              tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối              với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng thể nắm              bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được;              Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả đều chẳng thể nắm bắt được thì              cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì              trong đó, còn không có Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả v.v... có thể nắm              bắt được, huống là có cái thường và vô thường kia! Nếu ngươi có khả              năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả              hoặc lạc, hoặc khổ, chẳng nên quán Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả,              Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả hoặc lạc,              hoặc khổ. Vì sao? Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả và tự tánh của Dự-lưu              hướng, Dự-lưu quả là không; Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả, Bất-hoàn              hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả và tự tánh của              Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả là không. Tự tánh của Dự-lưu              hướng, Dự-lưu quả ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của Nhất-lai              hướng cho đến A-la-hán quả ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng              phải là tự tánh thì tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự              Ba-la-mật-đa này, Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng thể nắm bắt được,              thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được; Nhất-lai hướng              cho đến A-la-hán quả đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ              kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có              Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái              lạc và khổ kia! Nếu người có khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh              lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả              hoặc ngã, hoặc vô ngã; chẳng nên quán Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả,              Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả hoặc ngã,              hoặc vô ngã. Vì sao? Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả và tự tánh của              Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả là không; Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả,              Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả và tự              tánh của Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả là không. Tự tánh của              Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của              Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả ấy cũng chẳng phải là tự tánh.              Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với              tịnh lự Ba-la-mật-đa này, Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng thể nắm bắt              được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được; Nhất-lai              hướng cho đến A-la-hán quả đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã,              vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn              không có Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả v.v... có thể nắm bắt được, huống              là có cái ngã và vô ngã kia! Nếu người có khả năng tu tịnh lự như              thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả              hoặc tịnh, hoặc bất tịnh; chẳng nên quán Nhất-lai hướng, Nhất-lai              quả, Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả hoặc              tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả và tự tánh              của Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả là không; Nhất-lai hướng, Nhất-lai quả,              Bất-hoàn hướng, Bất-hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả và tự              tánh của Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả là không. Tự tánh của              Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của              Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả ấy cũng chẳng phải là tự tánh.              Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với              tịnh lự Ba-la-mật-đa này, Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả chẳng thể nắm bắt              được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được;              Nhất-lai hướng cho đến A-la-hán quả đều chẳng thể nắm bắt được thì              cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong              đó, còn không có Dự-lưu hướng, Dự-lưu quả v.v... có thể nắm bắt được,              huống là có cái tịnh và bất tịnh kia! Nếu người có khả năng tu tịnh              lự như thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh lự              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam tử,              thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên thuyết              tịnh lự Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi nên tu              tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tất cả quả vị Độc-giác hoặc              thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì tất cả quả vị Độc-giác và tự tánh              của tất cả quả vị Độc-giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị              Độc-giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì              tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, tất              cả quả vị Độc-giác chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường              kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có              tất cả quả vị Độc-giác có thể nắm bắt được, huống là có cái thường              và vô thường kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự như thế là tu              tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tất cả quả vị Độc-giác              hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì tất cả quả vị Độc-giác và tự tánh của              tất cả quả vị Độc-giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị Độc-giác              ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là              tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, tất cả quả              vị Độc-giác chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng              chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có tất cả quả              vị Độc-giác có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia! Nếu              người có khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tất cả quả vị Độc-giác              hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì tất cả quả vị Độc-giác và tự tánh              của tất cả quả vị Độc-giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị              Độc-giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì              tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, tất              cả quả vị Độc-giác chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia              cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả              quả vị Độc-giác có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã              kia! Nếu người có khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự              Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tất cả quả vị Độc-giác              hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì tất cả quả vị Độc-giác và tự              tánh của tất cả quả vị Độc-giác là không. Tự tánh của tất cả quả vị              Độc-giác ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì              tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, tất              cả quả vị Độc-giác chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia              cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có tất              cả quả vị Độc-giác có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất              tịnh kia! Nếu người có khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự              Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh lự              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết tịnh lự Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tất cả hạnh đại Bồ-tát              hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát và tự              tánh của tất cả hạnh đại Bồ-tát là không. Tự tánh của tất cả hạnh              đại Bồ-tát ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh              thì tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này,              tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô              thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn              không có tất cả hạnh đại Bồ-tát có thể nắm bắt được, huống là có cái              thường và vô thường kia! Nếu ngươi có khả năng tu tịnh lự như thế là              tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tất cả hạnh đại Bồ-tát              hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát và tự tánh của              tất cả hạnh đại Bồ-tát là không. Tự tánh của tất cả hạnh đại Bồ-tát              ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là              tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, tất cả hạnh              đại Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng              thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có tất cả hạnh đại              Bồ-tát có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia! Nếu              người có khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tất cả hạnh đại Bồ-tát              hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát và tự tánh              của tất cả hạnh đại Bồ-tát là không. Tự tánh của tất cả hạnh đại              Bồ-tát ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì              tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, tất              cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia              cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có tất cả              hạnh đại Bồ-tát có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã              kia! Nếu người có khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự              Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán tất cả hạnh đại Bồ-tát              hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì tất cả hạnh đại Bồ-tát và tự              tánh của tất cả hạnh đại Bồ-tát là không. Tự tánh của tất cả hạnh              đại Bồ-tát ấy tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh              thì tức là tịnh lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này,              tất cả hạnh đại Bồ-tát chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh              kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có              tất cả hạnh đại Bồ-tát có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và              bất tịnh kia! Nếu người có khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh lự              Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh lự              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết tịnh lự Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tột              của chư Phật hoặc thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ              cao tột của chư Phật và tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư              Phật là không. Tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật ấy              tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh              lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, quả vị giác ngộ              cao tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô              thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn              không có quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể nắm bắt được,              huống là có cái thường và vô thường kia! Nếu ngươi có khả năng tu              tịnh lự như thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tột              của chư Phật hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao tột              của chư Phật và tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật là              không. Tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật ấy tức chẳng              phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự              Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, quả vị giác ngộ cao              tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng              chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có quả vị              giác ngộ cao tột của chư Phật có thể nắm bắt được, huống là có cái              lạc và khổ kia! Nếu người có khả năng tu tịnh lự như thế là tu tịnh              lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tột              của chư Phật hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ cao              tột của chư Phật và tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật              là không. Tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật ấy tức              chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh lự              Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, quả vị giác ngộ cao              tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia              cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có quả vị              giác ngộ cao tột của chư Phật có thể nắm bắt được, huống là có cái              ngã và vô ngã kia! Nếu người có khả năng tu tịnh lự như thế là tu              tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tịnh lự Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán quả vị giác ngộ cao tột              của chư Phật hoặc tịnh, hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì quả vị giác ngộ              cao tột của chư Phật và tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư              Phật là không. Tự tánh của quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật ấy              tức chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tịnh              lự Ba-la-mật-đa. Đối với tịnh lự Ba-la-mật-đa này, quả vị giác ngộ              cao tột của chư Phật chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh              kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có              quả vị giác ngộ cao tột của chư Phật có thể nắm bắt được, huống là              có cái tịnh và bất tịnh kia! Nếu người có khả năng tu tịnh lự như              thế là tu tịnh lự Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tịnh lự              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Khi ấy, trời Đế Thích lại bạch Phật:              Bạch Thế Tôn! Các thiện nam tử, thiện nữ nhơn v.v... nói tinh tấn              Ba-la-mật-đa vô sở đắc như thế nào mà gọi là nói tinh tấn              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Nếu thiện              nam tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề,              tuyên thuyết tinh tấn Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử!              Ngươi nên tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán sắc hoặc thường,              hoặc vô thường; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc thường,              hoặc vô thường. Vì sao? Vì sắc và tự tánh của sắc là không; thọ,              tưởng, hành, thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự              tánh của sắc ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của thọ, tưởng,              hành, thức ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh              thì tức là tinh tấn Ba-la-mật-đa. Đối với tinh tấn Ba-la-mật-đa này,              sắc chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng              thể nắm bắt được; thọ, tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được              thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao?              Vì trong đó, còn không có sắc v.v... có thể nắm bắt được, huống là              có cái thường và vô thường kia! Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn              như thế là tu tinh tấn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán sắc hoặc lạc, hoặc khổ,              chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì              sắc và tự tánh của sắc là không; thọ, tưởng, hành, thức và tự tánh              của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sắc ấy tức chẳng              phải là tự tánh; tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng chẳng              phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn              Ba-la-mật-đa. Đối với tinh tấn Ba-la-mật-đa này, sắc chẳng thể nắm              bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được; thọ,              tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia              cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có sắc              v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia! Nếu              ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán sắc hoặc ngã, hoặc vô              ngã; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì              sao? Vì sắc và tự tánh của sắc là không; thọ, tưởng, hành, thức và              tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sắc ấy tức              chẳng phải là tự tánh; tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng              chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn              Ba-la-mật-đa. Đối với tinh tấn Ba-la-mật-đa này, sắc chẳng thể nắm              bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được; thọ,              tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã              kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có              sắc v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia!              Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn              Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán sắc hoặc tịnh, hoặc bất              tịnh; chẳng nên quán thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịnh, hoặc bất              tịnh. Vì sao? Vì sắc và tự tánh của sắc là không; thọ, tưởng, hành,              thức và tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức là không. Tự tánh của sắc              ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức ấy              cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là              tinh tấn Ba-la-mật-đa. Đối với tinh tấn Ba-la-mật-đa này, sắc chẳng              thể nắm bắt được, thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt              được; thọ, tưởng, hành, thức đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái              tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó,              còn không có sắc v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và              bất tịnh kia! Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh              tấn Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết tinh tấn Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán nhãn xứ hoặc thường,              hoặc vô thường; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc              thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì nhãn xứ và tự tánh của nhãn xứ là              không; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ và tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt,              thân, ý xứ là không. Tự tánh của nhãn xứ ấy tức chẳng phải là tự              tánh; tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ ấy cũng chẳng phải là              tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba-la-mật-đa.              Đối với tinh tấn Ba-la-mật-đa này, nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được              thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được; nhĩ, tỷ,              thiệt, thân, ý xứ đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô              thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn              không có nhãn xứ v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái thường              và vô thường kia! Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu              tinh tấn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán nhãn xứ hoặc lạc, hoặc              khổ, chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc lạc, hoặc khổ.              Vì sao? Vì nhãn xứ và tự tánh của nhãn xứ là không; nhĩ, tỷ, thiệt,              thân, ý xứ và tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là không. Tự              tánh của nhãn xứ ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của nhĩ, tỷ,              thiệt, thân, ý xứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là              tự tánh thì tức là tinh tấn Ba-la-mật-đa. Đối với tinh tấn              Ba-la-mật-đa này, nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ              kia cũng chẳng thể nắm bắt được; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đều              chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm              bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có nhãn xứ v.v... có thể              nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng              tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán nhãn xứ hoặc ngã, hoặc              vô ngã; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc ngã, hoặc vô              ngã. Vì sao? Vì nhãn xứ và tự tánh của nhãn xứ là không; nhĩ, tỷ,              thiệt, thân, ý xứ và tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là              không. Tự tánh của nhãn xứ ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của              nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng              phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba-la-mật-đa. Đối với tinh tấn              Ba-la-mật-đa này, nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô              ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đều              chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm              bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn xứ v.v... có thể nắm              bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia! Nếu ngươi có khả năng              tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán nhãn xứ hoặc tịnh, hoặc              bất tịnh; chẳng nên quán nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ hoặc tịnh, hoặc              bất tịnh. Vì sao? Vì nhãn xứ và tự tánh của nhãn xứ là không; nhĩ,              tỷ, thiệt, thân, ý xứ và tự tánh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là              không. Tự tánh của nhãn xứ ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của              nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng              phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba-la-mật-đa. Đối với tinh tấn              Ba-la-mật-đa này, nhãn xứ chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất              tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đều              chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm              bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có nhãn xứ v.v... có thể              nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia! Nếu ngươi có khả              năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết tinh tấn Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán sắc xứ hoặc thường,              hoặc vô thường; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc              thường, hoặc vô thường. Vì sao? Vì sắc xứ và tự tánh của sắc xứ là              không; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tự tánh của thanh, hương,              vị, xúc, pháp xứ là không. Tự tánh của sắc xứ ấy tức chẳng phải là              tự tánh; tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ ấy cũng chẳng              phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn              Ba-la-mật-đa. Đối với tinh tấn Ba-la-mật-đa này, sắc xứ chẳng thể              nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt              được; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đều chẳng thể nắm bắt được thì              cái thường, vô thường kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì              trong đó, còn không có sắc xứ v.v... có thể nắm bắt được, huống là              có cái thường và vô thường kia! Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn              như thế là tu tinh tấn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán sắc xứ hoặc lạc, hoặc              khổ, chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc lạc, hoặc              khổ. Vì sao? Vì sắc xứ và tự tánh của sắc xứ là không; thanh, hương,              vị, xúc, pháp xứ và tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là              không. Tự tánh của sắc xứ ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của              thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu              chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba-la-mật-đa. Đối với tinh              tấn Ba-la-mật-đa này, sắc xứ chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và              khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ              đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể              nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có sắc xứ v.v... có thể              nắm bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng              tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán sắc xứ hoặc ngã, hoặc              vô ngã; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc ngã, hoặc              vô ngã. Vì sao? Vì sắc xứ và tự tánh của sắc xứ là không; thanh,              hương, vị, xúc, pháp xứ và tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp              xứ là không. Tự tánh của sắc xứ ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự              tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ ấy cũng chẳng phải là tự              tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba-la-mật-đa.              Đối với tinh tấn Ba-la-mật-đa này, sắc xứ chẳng thể nắm bắt được,              thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được; thanh, hương,              vị, xúc, pháp xứ đều chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia              cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có sắc xứ              v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia! Nếu              ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán sắc xứ hoặc tịnh, hoặc              bất tịnh; chẳng nên quán thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ hoặc tịnh,              hoặc bất tịnh. Vì sao? Vì sắc xứ và tự tánh của sắc xứ là không;              thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ và tự tánh của thanh, hương, vị, xúc,              pháp xứ là không. Tự tánh của sắc xứ ấy tức chẳng phải là tự tánh;              tự tánh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ ấy cũng chẳng phải là tự              tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn Ba-la-mật-đa.              Đối với tinh tấn Ba-la-mật-đa này, sắc xứ chẳng thể nắm bắt được thì              cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm bắt được; thanh, hương,              vị, xúc, pháp xứ đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh              kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có              sắc xứ v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh              kia! Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn              Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết tinh tấn Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán nhãn giới hoặc thường,              hoặc vô thường; chẳng nên quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc              cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô              thường. Vì sao? Vì nhãn giới và tự tánh của nhãn giới là không; sắc              giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên              sanh ra và tự tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm              duyên sanh ra là không. Tự tánh của nhãn giới ấy tức chẳng phải là              tự tánh; tự tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên              sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì              tức là tinh tấn Ba-la-mật-đa. Đối với tinh tấn Ba-la-mật-đa này,              nhãn giới chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng              chẳng thể nắm bắt được; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm              duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường              kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có              nhãn giới v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô              thường kia! Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn              Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán nhãn giới hoặc lạc,              hoặc khổ, chẳng nên quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc cùng              các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì              nhãn giới và tự tánh của nhãn giới là không; sắc giới, nhãn thức              giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và tự              tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra là              không. Tự tánh của nhãn giới ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh              của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ấy cũng              chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn              Ba-la-mật-đa. Đối với tinh tấn Ba-la-mật-đa này, nhãn giới chẳng thể              nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được;              sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đều chẳng thể              nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì              sao? Vì trong đó, còn không có nhãn giới v.v... có thể nắm bắt được,              huống là có cái lạc và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn              như thế là tu tinh tấn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán nhãn giới hoặc ngã,              hoặc vô ngã; chẳng nên quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc              cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì              sao? Vì nhãn giới và tự tánh của nhãn giới là không; sắc giới, nhãn              thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra và              tự tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra              là không. Tự tánh của nhãn giới ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự              tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra ấy              cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là              tinh tấn Ba-la-mật-đa. Đối với tinh tấn Ba-la-mật-đa này, nhãn giới              chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm              bắt được; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra đều              chẳng thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm              bắt được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhãn giới v.v... có thể              nắm bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia! Nếu ngươi có khả              năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán nhãn giới hoặc tịnh,              hoặc bất tịnh; chẳng nên quán sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc              cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.              Vì sao? Vì nhãn giới và tự tánh của nhãn giới là không; sắc giới,              nhãn thức giới và nhãn xúc cùng các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh              ra và tự tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên              sanh ra là không. Tự tánh của nhãn giới ấy tức chẳng phải là tự              tánh; tự tánh của sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm duyên              sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì              tức là tinh tấn Ba-la-mật-đa. Đối với tinh tấn Ba-la-mật-đa này,              nhãn giới chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng              chẳng thể nắm bắt được; sắc giới cho đến các thọ do nhãn xúc làm              duyên sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia              cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có nhãn              giới v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh              kia! Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn              Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.              Lại nữa, Kiều Thi Ca! Nếu thiện nam              tử, thiện nữ nhơn v.v... vì người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tuyên              thuyết tinh tấn Ba-la-mật-đa, thì nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán nhĩ giới hoặc thường,              hoặc vô thường; chẳng nên quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc              cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc thường, hoặc vô              thường. Vì sao? Vì nhĩ giới và tự tánh của nhĩ giới là không; thanh              giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên              sanh ra và tự tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm              duyên sanh ra là không. Tự tánh của nhĩ giới ấy tức chẳng phải là tự              tánh; tự tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên              sanh ra ấy cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì              tức là tinh tấn Ba-la-mật-đa. Đối với tinh tấn Ba-la-mật-đa này, nhĩ              giới chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia cũng chẳng              thể nắm bắt được; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên              sanh ra đều chẳng thể nắm bắt được thì cái thường, vô thường kia              cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có nhĩ              giới v.v... có thể nắm bắt được, huống là có cái thường và vô thường              kia! Nếu ngươi có khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn              Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán nhĩ giới hoặc lạc, hoặc              khổ, chẳng nên quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các              thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc lạc, hoặc khổ. Vì sao? Vì nhĩ              giới và tự tánh của nhĩ giới là không; thanh giới, nhĩ thức giới và              nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của              thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không. Tự              tánh của nhĩ giới ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của thanh              giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải              là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn              Ba-la-mật-đa. Đối với tinh tấn Ba-la-mật-đa này, nhĩ giới chẳng thể              nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt được;              thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra đều chẳng              thể nắm bắt được, thì cái lạc và khổ kia cũng chẳng thể nắm bắt              được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có nhĩ giới v.v... có thể nắm              bắt được, huống là có cái lạc và khổ kia! Nếu ngươi có khả năng tu              tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán nhĩ giới hoặc ngã, hoặc              vô ngã; chẳng nên quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các              thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc ngã, hoặc vô ngã. Vì sao? Vì              nhĩ giới và tự tánh của nhĩ giới là không; thanh giới, nhĩ thức giới              và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra và tự tánh của              thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra là không. Tự              tánh của nhĩ giới ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự tánh của thanh              giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra ấy cũng chẳng phải              là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là tinh tấn              Ba-la-mật-đa. Đối với tinh tấn Ba-la-mật-đa này, nhĩ giới chẳng thể              nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt được;              thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra đều chẳng              thể nắm bắt được, thì cái ngã, vô ngã kia cũng chẳng thể nắm bắt              được. Vì sao? Vì trong đó còn không có nhĩ giới v.v... có thể nắm              bắt được, huống là có cái ngã và vô ngã kia! Nếu ngươi có khả năng              tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba-la-mật-đa.              Lại nói thế này: Thiện nam tử! Ngươi              nên tu tinh tấn Ba-la-mật-đa, chẳng nên quán nhĩ giới hoặc tịnh,              hoặc bất tịnh; chẳng nên quán thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc              cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra hoặc tịnh, hoặc bất tịnh.              Vì sao? Vì nhĩ giới và tự tánh của nhĩ giới là không; thanh giới,              nhĩ thức giới và nhĩ xúc cùng các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra              và tự tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh              ra là không. Tự tánh của nhĩ giới ấy tức chẳng phải là tự tánh; tự              tánh của thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra ấy              cũng chẳng phải là tự tánh. Nếu chẳng phải là tự tánh thì tức là              tinh tấn Ba-la-mật-đa. Đối với tinh tấn Ba-la-mật-đa này, nhĩ giới              chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể nắm              bắt được; thanh giới cho đến các thọ do nhĩ xúc làm duyên sanh ra              đều chẳng thể nắm bắt được thì cái tịnh, bất tịnh kia cũng chẳng thể              nắm bắt được. Vì sao? Vì trong đó, còn không có nhĩ giới v.v... có              thể nắm bắt được, huống là có cái tịnh và bất tịnh kia! Nếu ngươi có              khả năng tu tinh tấn như thế là tu tinh tấn Ba-la-mật-đa.              Này Kiều Thi Ca! Thiện nam tử, thiện              nữ nhơn v.v... ấy nói những điều đó là tuyên thuyết tinh tấn              Ba-la-mật-đa một cách chơn chánh.
