BỒ ĐỀ TÂM VÀ TRÍ HUỆ
Thái độ giác ngộ, Bồ đề tâm, có tình yêu thương (lòng bi) và lòng bi mẫn làm nền tảng của nó. Thái độ giác ngộ là hạt giống thiết yếu để đạt Phật quả. Do đó, nó là một chủ đề phải được tiếp cận với tư tưởng thanh tịnh: “Mong cho tôi đạt giác ngộ để làm lợi lạc lớn lao cho thế giới.”
Nếu chúng ta muốn đạt trạng thái giác ngộ viên mãn của Phật quả, trái ngược với giác ngộ nhỏ hơn của một A La Hán (niết bàn), thực hành sâu xa nhất của chúng ta phải là trưởng dưỡng Bồ đề tâm. Nếu thiền định về tính Không là thực hành sâu xa nhất, chúng ta có rủi ro của việc rớt vào niết bàn thay vì đạt Phật quả. Giáo lý này được chỉ dạy trong câu nói: “Khi cha là Bồ đề tâm, và mẹ là trí huệ, thì con là thuộc về đẳng cấp của các vị Phật.” Thời Ấn Độ cổ đại, con cái của những cuộc hôn nhân giữa các đẳng cấp sẽ nhận đẳng cấp của người cha, bất kể đẳng cấp của người mẹ là gì. Do đó, Bồ đề tâm giống như là người cha: nếu chúng ta trưởng dưỡng Bồ đề tâm, chúng ta bước vào đẳng cấp của các vị Phật.
Mặc dù Bồ đề tâm là nguyên nhân chính mang lại Phật quả, Bồ đề tâm như là người cha, phải hợp nhất với trí huệ, hoặc thiền định về tính Không, như là người mẹ để tạo ra đứa con có khả năng đạt quả Phật. Một cái không có cái kia không mang lại giác ngộ trọn vẹn - mặc dù Bồ đề tâm là năng lượng thiết yếu tạo ra Phật quả, thông qua các trạng thái của sự phát triển của nó, nó phải được kết hợp với thiền định về tính Không. Trong các Kinh Bát Nhã, Đức Phật thuyết một cách sâu rộng nhất về tính Không, chúng ta luôn được nhắc nhở thực hành thiền định về tính Không trong bối cảnh của Bồ đề tâm.
Tuy nhiên, những ảnh hưởng tâm linh của việc thọ nhận những giáo lý về Bồ đề tâm khá là giới hạn nếu chúng ta thiếu một nền tảng tâm linh nhất định. Hệ quả là phần nhiều các vị thầy nhắc đi nhắc lại rằng đầu tiên, chúng ta phải trưởng dưỡng các thực hành sơ bộ khác nhau trong chính bản thân mình trước khi tiếp cận giới luật cao hơn này. Nếu chúng ta muốn học đại học, đầu tiên, chúng ta phải học đọc và viết. Đương nhiên, trong khi chỉ đơn thuần lắng nghe về thiền định về tình yêu thương, lòng bi mẫn và Bồ đề tâm thật sự để lại một dấu ấn tích cực trong dòng tâm thức của chúng ta, để cho giáo lý này thật sự tạo ra một sự chuyển hoá bên trong rõ ràng, đầu tiên, chúng ta phải thiền định sâu xa về các sơ bộ như là thân người quý báu, vô thường và cái chết, bản tính của nghiệp và sinh tử, Quy y và các tu tập cao hơn về giới luật, thiền định và trí huệ (giới, định và huệ).
Bồ đề tâm chính xác là gì? Nó là tâm có đặc tính rõ rệt bởi ước nguyện này: “Vì lợi ích của tất cả chúng sinh hữu tình, tôi phải đạt giác ngộ trọn vẹn.” Khá dễ dàng tự lặp lại những lời này, Bồ đề tâm sâu xa hơn thế rất nhiều. Nó là một phẩm tính mà chúng ta trưởng dưỡng một cách có hệ thống trong tâm mình. Chỉ đơn thuần giữ suy nghĩ “Tôi phải đạt giác ngộ vì lợi ích của những người khác” trong tâm mà không trưởng dưỡng những nguyên nhân tiên quyết, những giai đoạn và những nền tảng căn bản của nó thì sẽ không sinh ra Bồ đề tâm. Bởi vậy, Đức Atisha tôn kính đã từng hỏi: “Bạn có biết ai có Bồ đề tâm mà không sinh khởi từ thiền định về tình yêu thương và lòng bi mẫn không?”
NHỮNG LỢI ÍCH CỦA BỒ ĐỀ TÂM
Đâu là những lợi ích của việc phát khởi Bồ đề tâm? Nếu chúng ta biết những phẩm tính của thức ăn ngon, chúng ta sẽ có dự định kiếm được, chuẩn bị và ăn nó. Tương tự như vậy, khi chúng ta nghe về những phẩm tính lớn lao của Bồ đề tâm, chúng ta sẽ tìm kiếm để học hỏi những phương pháp và những thực hành để phát khởi nó.
Lợi ích trực tiếp của việc phát khởi Bồ đề tâm trong dòng tâm của chúng ta là chúng ta bước vào cỗ xe vĩ đại (Đại thừa) hướng tới Phật quả và có danh hiệu của Bồ tát, một người con của chư Phật. Không quan trọng là chúng ta nhìn như thế nào, mặc cái gì, giàu có và quyền năng đến đâu, liệu chúng ta có những năng lực huyền diệu và thiên nhãn hay không, hoặc uyên bác như thế nào, ngay khi chúng ta phát khởi Bồ đề tâm, chúng ta trở thành các vị Bồ tát, bất kể các phẩm tính khác của chúng ta là gì, nếu chúng ta không có Bồ đề tâm, chúng ta không phải là các vị Bồ tát. Thậm chí, một chúng sinh có Bồ đề tâm mà tái sinh thành thân con vật cũng được tôn trọng bởi tất cả các vị Phật như là một vị Bồ tát.
Các vị hiền nhân vĩ đại của cỗ xe bé hơn (Tiểu thừa) có vô số những phẩm tính tốt đẹp nhưng về mặt bản chất, một người đã phát triển, dù chỉ trong những giai đoạn đầu của Bồ đề tâm cũng vượt thoát các vị này. Điều này cũng tương tự trong cách mà con trai của một vị chuyển luân vương, người mặc dù chỉ là một em bé mới sinh không có phẩm tính tri thức hoặc năng lực gì, được chấp nhận danh hiệu cao hơn bất kỳ học giả hay bộ trưởng nào trong toàn cõi nước.
Về mặt lợi ích tương đối và quy ước, tất cả hạnh phúc và tốt đẹp hiện hữu đều đến từ Bồ đề tâm. Các vị Phật được sinh ra từ các vị Bồ tát nhưng các vị Bồ tát đến từ Bồ đề tâm. Như là một kết quả của các vị Phật và Bồ tát, những làn sóng vĩ đại của năng lượng giác ngộ lan toả khắp vũ trụ, tác động lên các chúng sinh hữu tình để tạo ra thiện nghiệp. Thiện nghiệp này sẽ mang lại cho họ nhiều lợi ích và hạnh phúc. Mặt khác, dòng phi thường của năng lượng giác ngộ làm cho giác ngộ toả ra từ thân trí huệ của các vị Phật nhưng bởi vì các vị Phật được sinh ra từ các vị Bồ tát và các vị Bồ tát được sinh ra từ Bồ đề tâm, nguồn tối thượng của hạnh phúc và tốt đẹp phổ quát chính là Bồ đề tâm.
LÀM THẾ NÀO ĐỂ PHÁT TRIỂN BỒ ĐỀ TÂM?
Làm thế nào để phát triển Bồ đề tâm? Có hai phương pháp chính. Phương pháp đầu tiên, sáu nguyên nhân và một kết quả, áp dụng sáu loại thiền định nhân quả - nhận biết rằng tất cả chúng sinh hữu tình đều từng là mẹ của chính mình, lòng nhân hậu của một người mẹ, đền đáp lòng nhân hậu, tình yêu thương và lòng bi mẫn ấy và tư tưởng phi thường của trách nhiệm phổ quát - để tạo ra một kết quả: Bồ đề tâm. Phương pháp thứ hai là thiền định về việc chúng ta trực tiếp thay thế việc yêu mến bản thân thành yêu mến những người khác.
Để thực hành một trong hai phương pháp này để phát triển Bồ đề tâm, đầu tiên, chúng ta phải phát triển một cảm nhận về tính bình đẳng đối với tất cả chúng sinh đang sống. Chúng ta phải chuyển hoá cái thấy rằng một số chúng sinh là bạn bè thân thiết, những người khác là những kẻ thù mà chúng ta không thích hoặc ghét bỏ, và phần còn lại chỉ đơn thuần là những người xa lạ. Cho tới khi chúng ta đã phát triển được tính bình đẳng với tất cả chúng sinh, bất cứ thiền định nào mà chúng ta làm nhằm phát triển Bồ đề tâm đều sẽ không có hiệu quả. Ví dụ như, nếu chúng ta muốn vẽ một bức hoạ, đầu tiên, chúng ta phải loại bỏ tất cả những vết nứt, vết vón cục trên bề mặt của bức tường. Tương tự, chúng ta không thể tạo ra Bồ đề tâm tuyệt đẹp trong tâm cho tới khi nó đã được tịnh hoá khỏi những sự biến dạng của việc thấy những người khác như là bạn bè, kẻ thù hay người xa lạ.
THÁI ĐỘ PHÂN BIỆT
Cách mà chúng ta quy kết sự phân biệt này lên người khác khá là tự động và kết quả là, bất cứ khi nào chúng ta thấy một ai đó mà chúng ta gắn nhãn là “bạn bè”, tham luyến sinh khởi và chúng ta đối xử với lòng nhân hậu và ấm áp. Tại sao chúng ta dán nhãn người này là “bạn bè”? Bởi vì ở một cấp độ nào đó, người này mang lại lợi ích và hỗ trợ chúng ta. Ngược lại, bất cứ khi nào chúng ta tiếp xúc với ai đó mà chúng ta đã dán nhãn là “kẻ thù”, sân giận sinh khởi và chúng ta đối xử với thái độ giận dữ và lạnh nhạt. Lý do lại là bởi vì người đó đã từng làm hại hoặc khiến chúng ta sợ hãi theo một cách nào đó. Tương tự, khi chúng ta tiếp xúc với một người không giúp cũng không hại chúng ta, chúng ta áp dụng nhãn “người lạ” và không có những cảm xúc dành cho người ấy theo cách này hay cách khác.
Tuy nhiên, nếu chúng ta xem xét phương pháp phân biệt những người khác này, chúng ta sẽ nhanh chóng thấy ra rằng nó là một tiến trình cực kỳ bất ổn. Thậm chí trong đời này, những người từng được xem là những người bạn trở thành những kẻ thù và những kẻ thù thường trở thành bạn bè. Và trong vô số đời sống mà chúng ta đã từng có từ vô thỉ, trong khi trôi lăn theo vòng xoay của cuộc đời, không có một chúng sinh nào luôn luôn là bạn bè hoặc kẻ thù cả.
Người bạn tốt nhất của đời này có thể dễ dàng là kẻ thù đáng sợ nhất của chúng ta trong kiếp trước và ngược lại. Một người bạn đối xử tệ với chúng ta nhanh chóng trở thành một kẻ thù và một kẻ thù giúp đỡ chúng ta nhanh chóng trở thành một người bạn mới. Như vậy, ai là bạn, ai là thù? Thay vì đối xử với những người khác trên nền tảng của lợi ích hay tổn thất phù du mà họ mang lại cho chúng ta, chúng ta nên thiền định rằng tất cả đều đã từng gây tổn thất hoặc mang lại lợi ích cho chúng ta trong dòng chảy của vô số các đời quá khứ, và theo cách này, ngăn chặn những sự phân biệt giả tạm.
Nguyên nhân gốc rễ của tâm phân biệt này là thái độ tự yêu bản thân, tư tưởng khiến chúng ta cảm thấy bản thân mình quan trọng hơn những người khác. Như là một kết quả của việc tự yêu bản thân, chúng ta phát triển tham luyến với những ai giúp đỡ mình và sân hận với những ai mang lại cho chúng ta những vấn đề. Điều này, lại khiến chúng ta tạo ra vô số ác nghiệp khi cố gắng trợ giúp “những người giúp đỡ” và đánh bại “những kẻ gây hại”. Do đó, chúng ta mang lại nhiều đau khổ cho chính mình và những người khác, cả trong đời này và các đời tương lai, khi những hạt giống nghiệp của những hành động này chín muồi thành những kinh nghiệm khổ đau.
NHỮNG LỢI ÍCH CỦA YÊU THƯƠNG NHỮNG NGƯỜI KHÁC
Một giáo lý nói rằng: “ Tất cả hạnh phúc trong thế giới sinh khởi từ tình yêu thương dành cho những người khác; tất cả khổ đau sinh khởi từ việc tự yêu chính mình.” Tại sao lại như thế? Từ việc tự yêu mình dẫn đến ước nguyện đẩy mạnh bản thân hơn nữa, thậm chí là với tổn thất của người khác. Điều này dẫn đến tất cả những hành động giết hại, trộm cắp, không khoan dung và vân vân mà chúng ta thấy xung quanh mình. Không những phá hoại hạnh phúc trong đời này, những hành động xấu ác còn gieo những hạn giống nghiệp cho một tái sinh tương lai trong những cõi khổ - địa ngục, quỷ đói và súc sinh. Việc tự yêu mình gây ra tất cả mọi thứ từ mâu thuẫn trong gia đình tới chiến tranh thế giới và cho tất cả ác nghiệp được tạo ra từ đó.
Đâu là những kết quả của việc yêu thương những người khác? Nếu chúng ta yêu thương những người khác, chúng ta không làm hại hoặc lấy mạng họ - điều này mang lại tuổi thọ cho chúng ta. Khi chúng ta yêu thương những người khác, chúng ta cởi mở và thấu cảm với họ và sống trong vị tha, rộng lượng - đây là hạt giống nghiệp cho sự thịnh vượng trong tương lai của chúng ta. Nếu chúng ta yêu thương những người khác, thậm chí khi một ai đó làm hại hoặc gây ra những vấn đề cho chúng ta, chúng ta có thể an trụ trong tình yêu thương và kiên nhẫn - một hạt giống nghiệp cho một hình tướng xinh đẹp trong các đời sống tương lai. Nói ngắn ngọn, mọi thiện căn đều sinh khởi từ thiện nghiệp được tạo ra bằng việc yêu thương những người khác. Chính những điều kiện này mang lại niềm vui và hạnh phúc và, thêm vào đó, hoạt động như là những nguyên nhân cho sự thành tựu niết bàn và Phật quả.
Bằng cách nào? Để đạt niết bàn, chúng ta phải thành thạo ba sự tu tập cao hơn về giới luật, thiền định và trí huệ (giới, định và tuệ). Trong ba điều này, giới là quan trọng nhất bởi vì nó là nền tảng cho sự phát triển của hai cái còn lại. Tinh tuý của giới luật là ngăn chặn bất kỳ hành động nào gây hại cho những người khác. Nếu chúng ta yêu thương những người khác hơn bản thân mình, chúng ta sẽ không thấy giới luật này là khó khăn. Tâm chúng ta sẽ tĩnh lặng và an lạc, điều này dẫn tới định và tuệ.
Xem xét theo một cách khác, yêu thương những người khác là cách tiếp cận thích hợp và cao quý để nhận lấy. Trong đời sống này, mọi thứ đến với chúng ta trực tiếp và gián tiếp là từ sự tử tế của những người khác. Chúng ta mua thực phẩm từ những người khác ở chợ, quần áo chúng ta mặc và những ngôi nhà mà chúng ta ở đều phụ thuộc vào sự giúp đỡ của những người khác. Và để đạt những mục tiêu tối hậu của niết bàn và Phật quả, chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào những người khác, không có họ, chúng ta sẽ không thể thiền định về tình yêu thương, lòng bi mẫn, sự tin tưởng và vân vân và do đó, không thể phát sinh những kinh nghiệm tâm linh.
Hơn nữa, bất kỳ giáo lý thiền định nào mà chúng ta thọ nhận đều đến từ Đức Phật thông qua sự tử tế của nhiều chúng sinh hữu tình. Đức Phật thuyết pháp chỉ để giúp ích cho các chúng sinh hữu tình; nếu không có chúng sinh hữu tình, ngài đã không thuyết pháp. Do đó, trong Nhập Bồ Tát hạnh (Bodhicaryavatara), Đức Tịch Thiên nhận xét rằng, về mặt tử tế chúng sinh hữu tình bình đẳng với chư Phật. Đôi khi, một cách sai lầm, người ta có lòng tôn kính và sùng mộ với các vị Phật nhưng lại không thích các chúng sinh hữu tình. Chúng ta phải trân trọng các chúng sinh hữu tình một cách sâu sắc như là chúng ta tôn kính chư Phật.
Nếu chúng ta xem xét hạnh phúc và hoà hợp, chúng ta sẽ thấy nguyên nhân của nó là sự chăm lo vị tha. Nguyên nhân của bất hạnh và bất hoà là thái độ tự yêu mình.
Đức Phật đã từng là một người bình phàm như chúng ta. Sau đó, ngài từ bỏ tình yêu bản thân và thay thế nó với sự chăm lo vị tha và bước vào con đường hướng tới Phật quả. Bởi vì chúng ta vẫn còn bám vào tâm tự yêu mình, chúng ta bị rớt lại phía sau trong sinh tử, không lợi ích gì cho cả bản thân và những người khác.
Một trong Những Câu chuyện Tiền thân của Đức Phật - kể về các đời sống trước của ngài - kể câu chuyện về một tái sinh mà trong đó, Đức Phật là một con rùa lớn đã cảm thấy thương hại cho những nạn nhân của một vụ đắm tàu, và đưa họ vào bờ trên lưng mình. Khi tới bờ, con rùa đã kiệt sức và ngất đi, nhưng khi nó đang ngủ, nó bị hàng ngàn con kiến tấn công. Những vết cắn của đàn kiến nhanh chóng đánh thức con rùa nhưng nó thấy rằng nếu nó chuyển động, nó sẽ giết chết vô số con vật. Do đó, nó giữ nguyên và hiến tặng thân mình làm thức ăn cho các con côn trùng ấy. Đây là độ sâu xa mà Đức Phật đã yêu thương các chúng sinh đang sống. Nhiều các câu chuyện khác về các đời trước của Đức Phật cũng tương tự như vậy. Trong đó, ngài thể hiện tầm quan trọng của việc yêu thương những người khác. Cây Như Ý bao gồm 108 truyện như vậy.
Một cách cốt lõi, việc tự yêu mình là nguyên nhân của tất cả mọi kinh nghiệm không mong muốn và sự chăm lo vị tha là nguyên nhân của tất cả mọi hạnh phúc. Những khổ đau của các cõi thấp và cao, tất cả những tác động tới sự thực hành tâm linh và thậm chí những giới hạn vi tế của niết bàn đến từ việc tự yêu mình, trong khi mọi hạnh phúc của đời này và các đời sau đến từ tình yêu thương dành cho những người khác.
DẤN THÂN VÀO BỒ ĐỀ TÂM
Do đó, chúng ta nên tư duy một cách sâu sắc về những lợi ích của việc yêu thương những người khác và cố gắng phát triển một thái độ cởi mở, yêu thương hướng về tất cả chúng sinh hữu tình. Điều này không nên là một cảm xúc nội tâm mà là một thái độ được định tính bởi lòng bi mẫn vĩ đại - mong ước tách những người khác ra khỏi khổ đau của họ. Bất cứ khi nào chúng ta tiếp xúc với một chúng sinh đang đau khổ, chúng ta nên tương tác như một người mẹ nhìn thấy đứa con một của mình đang trong lửa cháy hoặc đã rớt xuống một dòng sông chảy xiết; tư tưởng chính của chúng ta cần phải là giúp đỡ những người khác. Với những người đang trong các tâm trạng đau khổ, chúng ta nên nghĩ: “Mong cho tôi có thể giúp họ ra khỏi những khổ đau của họ,” và với những ai đang trong các tâm trạng hạnh phúc, chúng ta nên nghĩ: “Mong cho tôi giúp họ giữ gìn hạnh phúc của họ.” Thái độ này cần phải được định hướng một cách như nhau tới tất cả chúng sinh. Một số người cảm thấy bi mẫn lớn lao dành cho những người thân và bạn bè đang gặp khó khăn, nhưng không có cảm xúc đối với những người mà họ khó chịu hoặc kẻ thù của họ. Đây không phải là lòng bi mẫn tâm linh; nó chỉ đơn thuần là một hình thức của tham luyến. Lòng bi mẫn chân thực không phân biệt các chúng sinh, nó hướng về tất cả một cách công bằng.
Tương tự, tình yêu thương chân chật là mong muốn hạnh phúc cho tất cả chúng sinh một cách không thiên vị; bất kể chúng ta yêu thích họ hay không. Tình yêu thương tâm linh là có hai loại chính: đơn thuần có tính bình đẳng và có ước nguyện chủ động để giữ gìn hạnh phúc của những người khác. Khi chúng ta thiền định lặp đi lặp lại về việc mà tất cả chúng sinh đã từng là cha mẹ và bạn bè của chúng ta trong các đời trước như thế nào, chúng ta sẽ nhanh chóng có tính bình đẳng hướng về tất cả mọi người. Từ từ, điều này phát triển thành một ước nguyện mạnh mẽ được thấy tất cả chúng sinh có hạnh phúc và các nguyên nhân của hạnh phúc. Đây là tình yêu thương không phân biệt vĩ đại.
Bằng cách thiền định một cách đúng đắn về tình yêu thương và bi mẫn, chúng ta sinh ra cái gọi là tám lợi ích lớn lao. Chúng cô đọng lại thành hai: hạnh phúc trong đời này và các đời tương lai cho cả chúng ta và những người khác và phát triển trên con đường tới Phật quả hoàn hảo và trọn vẹn. Thiền định như vậy mang lại tái sinh vào ba cõi trên như là con người hoặc chư thiên và tưới tẩm cho các hạt giống giác ngộ.
Nói ngắn gọn, chúng ta cần phải ước mong giúp mọi người giữ gìn hạnh phúc của họ và tách biệt họ khỏi khổ đau bất kể họ đã cư xử như là bạn hay thù với chúng ta. Hơn thế nữa, chúng ta phải phát triển một cảm quan về trách nhiệm với hạnh phúc của họ. Điều này được gọi là tư tưởng “đặc biệt” và “cao hơn” và được đánh đấu bởi cảm giác có trách nhiệm sâu sắc về hạnh phúc của những người khác. Nó giống như là nhận trách nhiệm đi chợ để mua đúng món mà người ấy cần thay vì chỉ ngồi mà suy nghĩ về nó sẽ tuyệt vời như thế nào nếu anh ấy có được điều anh ấy muốn. Chúng ta tự nhận trách nhiệm thực sự đáp ứng những yêu cầu của những người khác.
Sau đó, chúng ta nên tự hỏi mình: “Liệu tôi có khả năng làm lợi ích cho tất cả mọi người không?” Rõ ràng là không. Ai có khả năng ấy? Chỉ có một chúng sinh đã giác ngộ, một vị Phật có khả năng mang lại lợi ích trọn vẹn cho những người khác. Tại sao? Bởi vì những ai đã đạt Phật quả đều đã phát triển đầy đủ và hoàn toàn thoát khỏi những giới hạn; những người vẫn còn trong sinh tử không thể đưa những người khác tới niết bàn. Thậm chí các vị A La Hán Thanh Văn hoặc Bồ tát ở mười cấp độ cũng không thể làm lợi ích cho những người khác một cách trọn vẹn, bởi vì bản thân các vị còn có những giới hạn, nhưng các vị Phật một cách tự nhiên và tự động làm lợi ích cho tất cả chúng sinh với mỗi hơi thở của mình. Trạng thái giác ngộ được ví như là cái trống của Phạm Thiên, nó tự động phát ra những giáo lý cho thế gian, hoặc như là một đám mây tự nhiên tạo ra bóng mát và nước mang - tới - sự - sống bất cứ chỗ nào nó bay tới.
Để đáp ứng những nhu cầu của những người khác, chúng ta cần cố gắng đưa họ tới sự an lạc và trưởng thành trọn vẹn của Phật quả; để có thể làm điều này, trước tiên, bản thân chúng ta phải đạt Phật quả. Trạng thái Phật quả là kết quả của một sự tiến hoá của Bồ đề tâm. Bồ đề tâm được sinh ra từ tư tưởng đặc biệt về trách nhiệm phổ quát - tư tưởng chỉ mình làm lợi ích cho những người khác. Để uống nước, chúng ta phải có cả mong muốn uống nước và phải có cả ly nước. Ước nguyện làm lợi ích cho những người khác bằng việc đưa họ vào Phật quả giống như là mong muốn uống nước, và ước nguyện đạt giác ngộ nhằm làm lợi ích cho họ theo cách này giống như là ly đựng nước. Khi cả hai cùng hiện diện, chúng ta làm lợi lạc cho mình và những người khác.
Nếu chúng ta lắng nghe những thiền định phát khởi Bồ đề tâm và cố gắng thực hành chúng mà không thanh lọc tâm mình trước với những thiền định sơ bộ, không có vẻ gì là chúng ta sẽ có nhiều tiến bộ bên trong. Ví dụ, nếu chúng ta thiền định về lòng bi mẫn mà trước đó chưa đạt một số kinh nghiệm thiền định về bốn sự thật cao quý hoặc ít nhất là sự thật về khổ, chúng ta sẽ chỉ đơn thuần phát triển một kiến thức giả tạm. Làm thế nào chúng ta kinh nghiệm lòng bi mẫn trưởng thành, ước nguyện giải thoát tất cả chúng sinh hữu tình khỏi đau khổ, khi mà chúng ta không biết những cấp độ sâu xa hơn của đau khổ đã thấm khắp tâm thức của con người? Làm sao mà chúng ta có thể hiểu biết đau khổ của những người khác khi chúng ta không biết thậm chí là những cấp độ vi tế của thất vọng và căng thẳng tràn ngập khắp sự sống của chúng ta? Nhằm hiểu những vận hành của tâm mình, chúng ta phải biết mọi khía cạnh của đau khổ; chỉ khi đó, chúng ta mới ở vị trí thấu cảm với thân tâm của những người khác. Chúng ta phải có lòng bi mẫn với chính mình trước khi chúng ta có nó cho những người khác.
Thông qua thiền định về đau khổ, chúng ta có thể sinh khởi một sự từ bỏ nhất định hoặc sự ổn định tâm linh nhất định. Sự ổn định này cần phải được chăm sóc và trưởng dưỡng bởi nhiều phương pháp khác nhau đã được dạy trong những giai đoạn khởi đầu và giữa của sự tu tập, vốn là hai bước chính trong việc tiếp cận các thiền định về Bồ đề tâm. Khi chúng ta tiến bộ trong những thiền định về bản tính khổ đau của đời sống và các nguyên nhân của nó, chúng ta bắt đầu tìm kiếm con đường dẫn đến sự chuyển hoá sự bất toàn này. Chúng ta thiền định về tính quý báu và những cơ hội hiếm có của thân người. Điều này khiến chúng ta trân trọng hoàn cảnh của mình. Sau đó, chúng ta thiền định về vô thường và cái chết. Điều này giúp chúng ta chuyển hoá sự bám nắm vào những mặt tươi đẹp của đời sống và hướng tâm chúng ta tìm kiếm trí huệ tâm linh.
Bởi vì trí huệ tâm linh không đến từ sách vở hoặc không có nguyên nhân, những nguyên nhân của nó phải được trưởng dưỡng. Điều này có nghĩa là tu tập một cách đúng đắn dưới một vị thầy tâm linh đầy đủ phẩm tính và phát khởi những thực hành như là đã được hướng dẫn.
Chỉ đơn thuần lắng nghe về Bồ đề tâm là rất có ích bởi vì nó cung cấp một hạt giống cho sự phát triển tinh thần giác ngộ (Bồ đề tâm nguyện). Tuy nhiên, việc trưởng dưỡng hạt giống này cho tới thành quả đòi hỏi sự thực hành nghiêm túc. Chúng ta phải tiến bộ qua những kinh nghiệm bên trong thực sự về những thiền định đã nói ở trên, và để làm điều này, chúng ta cần có liên hệ mật thiết với một thiền sư, người có khả năng hướng dẫn và giám sát sự tiến triển của chúng ta. Để sự hiện diện của thầy có lợi ích lớn nhất, chúng ta phải học những thái độ đúng đắn và hành động đúng đắn để trưởng dưỡng một mối liên hệ thầy - trò hiệu quả. Sau đó, từng bước một, các hạt giống của Bồ đề tâm mà thầy đã gieo trồng trong chúng ta có thể phát triển trọn vẹn và mở ra bông sen của giác ngộ trong chúng ta.
Đây chỉ là mô tả ngắn gọn về Bồ đề tâm và các phương pháp phát triển nó. Nếu nó truyền một sự hứng khởi về chủ đề này trong bạn, tôi sẽ rất vui lòng. Nền tảng của Bồ đề tâm - tình yêu thương và lòng bi mẫn - là một năng lực mang lại mọi lợi ích cho cả bản thân và những người khác, và nếu nó có thể chuyển hoá thành chính Bồ đề tâm, mỗi hành động của bạn sẽ trở thành một hạt nhân cho Phật quả toàn tri. Thậm chí nếu bạn có thể thực hành, dù là nó có hơi khơi gợi một chút thái độ tự yêu mình của bạn, tôi cũng thấy vui lòng. Không phát khởi Bồ đề tâm trước, Phật quả hoàn toàn nằm ngoài tầm với; một khi Bồ đề tâm đã bắt đầu tăng trưởng, giác ngộ toàn hảo chỉ là vấn đề thời gian.
Bạn phải cố gắng thiền định đều đặn về vô thường và cái chết, và sau đó, trở thành một người thực hành tâm linh ở phạm vi ban đầu. Sau đó, bạn cần phát triển những thiền định về bản tính không như ý của sinh tử và những tu tập cao hơn [giới, định, huệ] và từ đó trở thành một hành giả ở phạm vi trung bình. Cuối cùng, bạn cần phát sinh tình yêu thương, bi mẫn, trách nhiệm phổ quát và Bồ đề tâm và từ đó, bước vào con đường của hành giả ở phạm vị cao, Đại thừa, - người lấy Phật quả trọn vẹn làm đích đến. Dựa vào hướng dẫn của một vị thầy tâm linh, bạn cần trưởng dưỡng những hạt giống của Bồ đề tâm trong mối liên hệ với tính Không, và vì lợi ích của tất cả những chúng sinh đang sống, nhanh chóng chứng ngộ Phật quả. Điều này có thể không phải là một công việc dễ dàng, nhưng nó có sự toàn hảo tối thượng là thành quả của nó.
Bước quan trọng nhất trong sự phát triển tâm linh là cái đầu tiên: quyết định tránh những xấu ác và trưởng dưỡng tính tốt trong dòng tâm của bạn. Trên nền tảng của giới căn bản này, mọi phẩm tính tâm linh đều trở nên có thể, thậm chí là sự hoàn hảo cuối cùng của Phật quả.
Mỗi chúng ta đều có tiềm năng làm việc này, mỗi chúng ta đều có thể trở thành một chúng sinh hoàn hảo. Tất cả những gì chúng ta phải làm là hướng năng lượng của mình về sự học hỏi và sau đó, thực hành các giáo lý một cách hăng say. Do Bồ đề tâm là tinh tuý cốt lõi của tất cả các giáo lý của Đức Phật, chúng ta cần thực hiện mọi nỗ lực để chứng ngộ nó.
The Song of Victory is an extemporaneous vajra doha sung by His Holiness Jigme Phuntsok Rinpoche, in which His Holiness addressed four piths — the non-dual wisdom in the context of Mahayana
KHÔNG SÁT SANH Thiện PhúcKhông Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc
Chớ theo pháp hạ liệt,Chớ sống mặc, buông lung,Chớ tin theo tà kiến,Chớ tăng trưởng tục trần _167Nỗ lực, chớ phóng dật,Hãy sống theo chánh hạnh!Người chánh hạnh hưởng lạc,Cả đời này,
Vấn đề này tùy tình hình mỗi người, mỗi nhà mà sắp xếp giải quyết. Nều nhà ở quá chật hoặc ở ký túc xá công cộng, có nhiều người cùng chung
Có, Phật giáo đích xác tin ở công dụng của sám hối.Phật giáo tin rằng, trừ những tội cực nặng đã phạm như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, đại vọng ngữ
QUAN HỆ THẦY TRÒ Theo Tinh thần Kinh Kế thừa Chánh pháp Thầy, vầng mây bậc, thong dong, núi cao biển rộng Con, cánh nhạn chiều, chân trời sải cánh, dõi theo Thầy,
Giữ giới là lựa chọn tự do Giới luật của Phật giáo có nghĩa là: “Anh đừng tự làm thương tổn mình, anh đừng tự làm hại mình”. 1. Tự do của lệ thuộc
Đạo Phật là gì Lama Zopa and Lama Yeshe Khi bạn tìm hiểu về đạo Phật tức là bạn đang tìm hiểu về con người thật của mình, về bản chất của tâm trí
Vô minh bẩm sinh & Vô minh văn hóa(VHPG) Mọi kinh nghiệm của chúng ta, kể cả giấc mộng, khởi lên từ vô minh. Đây là một tuyên bố làm hoảng hốt