Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 24
Lại  nữa, Thiện Dũng Mãnh! Bồ tát Ma ha tát nếu năng đối pháp giác biết được  như thế, mới nên gọi là chơn thật Bồ tát. Nói Bồ tát ấy, nghĩa là thêm  lời năng tùy giác hữu tình không thật không sanh. Lại Bồ tát ấy đối tất  cả pháp cũng năng như thật như Phật mà biết được. Sao là Bồ tát như Phật  mà biết? Nghĩa là như thật biết tánh tất cả pháp không thật không sanh,  cũng không hư dối. Lại các Bồ tát đối tánh các pháp chẳng như sở chấp  của ngu phu dị sanh sở đắc, như thật mà biết nên gọi Bồ tát. Vì cớ sao?  Thiện Dũng Mãnh! Bởi vì Bồ tát ấy, không điều chấp trước, không sở phân  biệt, không điều chứa nhóm, không sở đắc vậy.
Lại, Thiện Dũng  Mãnh! Chẳng phải các Như Lai Chánh Ðẳng Giác đối tánh Bồ đề có chút sở  đắc, vì tất cả pháp chẳng thể đắc vậy. Ðối pháp không đắc, nói gọi Bồ  đề. Bồ đề chư Phật phải nói như thế mà chẳng như nói, vì lìa các tướng  vậy.
Lại, Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát phát tâm Bồ đề khởi  nghĩ như vầy: Ta với ngày nay phát tâm Bồ đề. Ðây là Bồ đề, ta nay vì  tới Bồ đề đây nên phát tâm tu hành. Các Bồ tát này hữu sở đắc nên chẳng  gọi Bồ tát. Chỉ có thể gọi là cuồng loạn Tát đỏa. Vì cớ sao? Thiện Dũng  Mãnh! Bởi Bồ tát kia quyết định chấp có tánh phát khởi vậy, quyết định  chấp có tâm sở phát vậy, quyết định chấp có tánh Bồ đề vậy. Nếu các Bồ  tát phát tâm Bồ đề có sở chấp đắm, chỉ có thể gọi là đối tâm Bồ đề hữu  chấp Tát đỏa, chẳng gọi chơn tịnh phát tâm Bồ tát. Bởi kia tạo tác phát  tâm Bồ đề, vậy nên lại gọi tạo tác Tát đỏa, chẳng gọi Bồ tát. Bởi kia  gia hạnh phát tâm Bồ đề, vậy nên lại gọi gia hạnh Tát đỏa, chẳng gọi Bồ  tát. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Các Bồ tát kia bởi có chỗ lấy phát tâm  Bồ đề, chỉ có thể gọi là phát tâm Tát đỏa, chẳng gọi Bồ tát.
Lại,  Thiện Dũng Mãnh! Không kẻ thật năng phát tâm Bồ đề, vì tâm Bồ đề chẳng  thể phát vậy, vì Bồ đề không sanh, cũng không tâm vậy. Các Bồ tát kia  chỉ chấp phát tâm, chẳng rõ nghĩa tâm Bồ đề không sanh.
Lại,  Thiện Dũng Mãnh! Nếu sanh tánh bình đẳng, tức thật tánh bình đẳng. Nếu  thật tánh bình đẳng, tức tánh tâm bình đẳng. Nếu tánh tâm bình đẳng tức  là Bồ đề. Nếu đối trong đây có tánh như thật, tức đối trong đây không sở  phân biệt. Nếu có phân biệt tâm và Bồ đề, kia bèn chấp trước tâm và Bồ  đề. Do hai thứ đây, phát tâm Bồ đề phải biết chẳng gọi kẻ chơn phát tâm.
Lại,  Thiện Dũng Mãnh! Bồ đề cùng tâm chẳng phải mỗi có khác, chẳng ở trong  tâm có thật Bồ đề, chẳng trong Bồ đề được có thật tâm, Bồ đề cùng tâm  như thật như lý đều chẳng thể nói đây giác đây tâm. Bởi như thật giác Bồ  đề cùng tâm đều chẳng thể đắc, không sanh chẳng sanh, nên gọi Bồ tát,  cũng gọi Ma ha tát và như thật hữu tình. Sở dĩ vì sao? Vì như thật biết  chẳng thật có tánh. Như thật biết gì chẳng thật có tánh? Là các thế gian  đều chẳng thật có, chẳng thật sở nhiếp, chẳng thật có sanh, chỉ giả an  lập.
Sao là thế gian chẳng thật có sanh chỉ giả an lập? Chẳng  thật có ấy, vì không thật sanh vậy. Vì không thật sanh và chẳng thật có,  nên nói các pháp không thật không tánh. Do như thật biết chẳng thật có  tánh, nên cũng có thể nói như thật hữu tình. Ðối trong thật có cũng  chẳng thật có, nên lại có thể nói tùy như thật hữu tình. Mặc dù tác  thuyết này mà chẳng như nói. Sở dĩ vì sao? Vì lý như thật chẳng phải có  chút hữu tình hoặc Ma ha tát. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì chứng vào  Ðại thừa gọi Ma ha tát vậy.
Lại, Thiện Dũng Mãnh! Sao gọi Ðại  thừa? Nghĩa là Nhất thiết trí nói gọi Ðại thừa. Sao gọi Nhất thiết trí?  Nghĩa là có bao các trí hoặc trí hữu vi, hoặc trí vô vi, hoặc trí thế  gian, hoặc trí xuất thế gian, hoặc trí năng chứng vào như thế thảy gọi  Ma ha tát. Sở dĩ vì sao? Vì năng xa lìa tưởng đại hữu tình gọi Ma ha  tát. Lại năng xa lià nhóm đại vô minh gọi Ma ha tát. Lại năng xa lià  nhóm đại chư hành gọi Ma ha tát. Lại năng xa lià nhóm đại vô tri gọi Ma  ha tát. Lại năng xa lià nhóm đại chúng khổ gọi Ma ha tát.
Lại,  Thiện Dũng Mãnh! Nếu năng xa lìa được tưởng đại hữu tình gọi Ma ha tát.  Kia đối tất cả pháp tâm tâm sở, tuy vô sở đắc mà năng biết rõ được bản  tánh của tâm. Kia đối Bồ đề và phần pháp Bồ đề, tuy vô sở đắc mà năng  biết rõ được bản tánh Bồ đề. Kia do trí đây chẳng đối nội tâm thấy có Bồ  đề, cũng chẳng lìa tâm thấy có Bồ đề. Chẳng đối trong Bồ đề thấy có  thật tâm, cũng chẳng lìa Bồ đề thấy có thật tâm. Như vậy trừ khiển,  không sở tu tập, không sở trừ khiển, đối sở tu tập và sở trừ khiển đều  không sở đắc, không sở nương cậy, không sở chấp đắm. Mặc dù chẳng thấy  có tâm tánh Bồ đề, mà năng phát khởi được tâm Ðại Bồ đề.
Nếu năng  phát tâm Bồ đề như thế, mới khá gọi là chơn thật Bồ tát. Kia dù như thế  phát tâm Bồ đề mà đối Bồ đề không sở dẫn phát. Vì cớ sao? Thiện Dũng  Mãnh! Vì kia đã an trụ Ðại Bồ đề vậy. Nếu không sở chấp trước được như  trọn chẳng thấy có tâm vô Bồ đề sanh diệt sai khác, cũng chẳng thấy có  kẻ phát tâm hướng tới Ðại Bồ đề, không thấy không chấp không sở phân  biệt, phải biết đã trụ Vô thượng Bồ đề. Nếu không sở chấp trước khởi  thắng giải và tâm giải thoát được như thế, phải biết gọi là chơn thật Bồ  tát.
Lại, Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát chẳng lìa tưởng tâm và tưởng Bồ đề phát tâm Bồ đề, kia xa Bồ đề, chẳng phải gần Bồ đề.
Lại,  Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ tát chẳng thấy Bồ đề có xa có gần, phải  biết kia gần Vô thượng Bồ đề, cũng gọi kẻ chơn phát tâm Bồ đề. Ta nương  nghĩa đây mật ý nói rang: Nếu kẻ năng tự biết không hai tướng, kia như  thật biết tất cả Phật pháp. Sở dĩ vì sao? Vì năng chứng hội ngã và hữu  tình đều không tự tánh, tức năng biết khắp các pháp không hai. Do năng  biết khắp các không hai, định năng thấu suốt được ngã và hữu tình cùng  khắp tất cả pháp đều lấy vô tánh mà làm tự tánh, lý không sai khác. Nếu  năng biết rõ các pháp không hai, tức năng biết rõ được tất cả Phật pháp.  Nếu năng biết khắp các pháp không hai, tức năng biết khắp được tất cả  Phật pháp. Nếu năng biết khắp ngã, tức biết khắp ba cõi.
Lại,  Thiện Dũng Mãnh! Nếu biết khắp ngã, kia bèn năng đến được bờ kia các  pháp. Vì sao gọi là bờ kia các pháp? Nghĩa là thật tánh bình đẳng tất cả  pháp. Nếu chẳng được đấy, cũng chẳng chấp đấy, nếu chẳng được bờ kia,  cũng chẳng chấp bờ kia, kia gọi kẻ biến tri đáo bỉ ngạn. Mặc dù tác  thuyết này mà chẳng như nói.
Lại, Thiện Dũng Mãnh! Chúng các Bồ  tát nên tới các bậc Bồ tát như thế, nên chứng các bậc Bồ tát như thế,  phải biết tức là Bồ tát Bát nhã Ba la mật đa. Nghĩa là với trong ấy  không có chút pháp khá tới khá chứng, vì với trong ấy chẳng thể thi  thiết có đi tới đến vậy.
Bấy giờ, Khánh Hỷ bèn thưa Phật rằng: Các kẻ tăng thượng mạn hành hữu tướng đối Phật nói ra chớ ôm sợ hãi.
Khi  đó, Xá Lợi Tử bảo Khánh Hỷ rằng: Chẳng phải cảnh sở hành kẻ tăng thượng  mạn hành hữu tướng, kia sợ hãi nào? Sở dĩ vì sao? Vì kẻ ôm sợ hãi lìa  tăng thượng mạn, được bạn ác thu nhận, nghe pháp sâu thẳm chẳng thể so  lường được, sợ mất sở cầu bèn sanh sợ hãi.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Có  các kẻ vì muốn dứt tăng thượng mạn hành chánh hạnh mới có sợ hãi. Có các  kẻ vì muốn dứt tăng thượng mạn siêng tinh tiến cũng có sợ hãi. Sở dĩ vì  sao? Vì kia đã biết được lỗi tăng thượng mạn, cầu tánh không mạn và cầu  dứt mạn, nghe pháp thẳm sâu chẳng thể so lường được, sợ mất sở cầu bèn  sanh sợ hãi.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu có kẻ đối mạn chẳng đắc chẳng thấy, không ỷ không chấp, kẻ đối các pháp không e không sợ.
Lại  nữa, Khánh Hỷ! Như chẳng vì kẻ tăng thượng mạn thuyết pháp như thế, nên  kia đối sợ hãi này không dung. Có các kẻ vì muốn dứt tăng thượng mạn  siêng tu hành, nghe pháp như thế năng chánh biết rõ được cũng không sợ  hãi.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Danh tăng thượng mạn, phải biết hiển chỉ  tăng ích cho thắng pháp. Nếu có kẻ hiện hành tăng thượng mạn, kia tất  hiện hành tăng ích cho thắng pháp, vì hành tăng ích chẳng phải hành bình  đẳng. Kia nếu kẻ ưa hành hạnh bình đẳng, đối thâm pháp đây lòng ôm do  dự, chẳng sanh sợ hãi, cũng chẳng tín thọ.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Nếu  đối trong bình đẳng chẳng bình đẳng đều không sở đắc, hoặc đối trong  bình đẳng chẳng bình đẳng đều không sở ỷ, hoặc đối trong bình đẳng chẳng  bình đẳng đều không sở chấp, kia đối các pháp chẳng kinh chẳng e chẳng  sợ chẳng hãi.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Pháp sâu thẳm đây chẳng phải chỗ  hành của các ngu phu dị sanh. Pháp sâu thẳm đây chẳng phải cảnh giới  các ngu phu dị sanh. Pháp sâu thẳm đây chẳng phải chỗ biết các ngu phu  dị sanh. Vì vượt khỏi tất cả sở hành sở nhiếp sở giác của các ngu phu dị  sanh vậy. Có các kẻ hướng tới Thanh văn thừa, tuy hành thâm pháp mà  thâm pháp này chẳng phải sở hành của kia. Có các kẻ hướng tới Ðộc giác  thừa, tuy hành thâm pháp mà thâm pháp này chẳng phải sở hành của kia. Có  các kẻ hướng tới Bồ tát thừa, nếu hành hữu tướng, xa lìa bạn lành, bị  bạn ác thu, kia đối pháp không nhiễm đắm như thế cũng chẳng thể hành  được, vì chẳng phải cảnh kia vậy.
Khánh Hỷ phải biết: Chỉ trừ  Thanh văn thừa thảy và Bồ tát thừa được bạn lành thu nhiếp, thấy đế lý  cầu Ðại Bồ đề, đối thâm pháp đây năng sanh tin hiểu, đối thâm pháp đây  năng tùy thuận hành, đối thâm pháp đây năng thâm chứng hội.
Lại  nữa, Khánh Hỷ! Nếu các Bồ tát xa lìa các tướng, an trụ vô tướng, hành  không sai khác. Ðối pháp sâu thẳm ra khỏi các thứ lưới nghi phân biệt  chấp trước rốt ráo, tùy kia sở dục đều thành xong được. Ðối tâm Bồ đề  đều không sở đắc, đối tánh các pháp không hiểu sai khác, cũng lại chẳng  khởi hành sai khác, tùy có sở thú đều năng ngộ vào. Kia đối pháp môn sâu  thẳm như thế đều năng thọ trì, tâm không nghi ngờ. Sở dĩ vì sao? Vì kia  đối các pháp đều trụ tùy thuận, không gì trái nghịch. Nếu có đối pháp  khởi các lời hỏi gạn đều năng tùy thuận khởi các lời thù đáp, hòa hội  đây kia khiến chẳng trái nhau. Phật vì kia nên mới thuyết thâm pháp đây.
Bấy  giờ, Phật bảo cụ thọ Khánh Hỷ rằng: Ngươi nên thọ trì Xá Lợi Tử đã  thuyết. Kia thuyết như thế cùng Ta không khác. Khánh Hỷ phải biết: Kẻ  tăng thượng mạn đối pháp giáo đây chẳng thể ngộ vào được, vì chẳng phải  cảnh kia, chẳng phải bậc kia vậy.
Khánh Hỷ phải biết: Pháp giáo  như thế thuận tánh các pháp, thuận Phật Bồ đề, năng làm bạn giúp. Các  loại hữu tình tin hiểu thấp kém, đối Phật pháp sâu thẳm rộng lớn đây tâm  chẳng ngộ vào, chẳng năng thọ hành được.
Khánh Hỷ phải biết: Kẻ  tăng thượng mạn tin hiểu thấp kém, đối Phật Bồ đề và pháp sâu thẳm trái  nghịch mà trụ. Có các sở vi tùy thuộc tăng thương mạn, chẳng thể tín thọ  pháp sâu thẳm này được.
Khánh Hỷ phải biết: Nay chúng hội đây  thanh tịnh rất thắng, xa lìa tạp nhiễm, từng ở nhiều chỗ Phật phát thệ  nguyện rộng, vun trồng vô lượng căn lành thù thắng, phụng thờ vô biên  chư Phật quá khứ, đối pháp sâu thẳm đã lâu sanh tin hiểu, đối hạnh sâu  thẳm tu hành đã thục, nên nay Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác ủy tín chúng  đây không điều nghi ngờ, thuyết ra pháp môn thảy đều rõ ràng, không điều  hộ tiếc vì nói pháp yếu.
Khánh Hỷ phải biết: Nay chúng hội đây  thanh tịnh bền chắc, không như những thứ ngói sỏi, đất mặn thảy, đã từng  cúng dường nhiều trăm ngàn Phật, đối các Phật pháp an trụ vững vàng.
Khánh  Hỷ phải biết: Nói như ngói sỏi tức là thêm lời ngu phu dị sanh, đối  pháp sâu thẳm không nghĩa dung nạp. Nói đất mặn thảy, phải biết thêm lời  chỉ rõ các hữu tình tăng thượng mạn, vì chẳng thể sanh tưởng hạnh thẳm  sâu vậy.
Khánh Hỷ phải biết: Nay chúng hội đây lìa tăng thượng mạn, đã nhóm khởi căn lành rộng lớn, là đồ đựng pháp sâu thẳm.
Lại  nữa, Khánh Hỷ! Ví như Long Vương ở ao lớn Vô nhiệt, vì có nhân duyên  nên sanh vui mừng lớn, ở trong tự cung hưởng vui năm dục. Vì vui mừng  nên ở tự cung rưới xuống mưa lớn đủ tám công đức. Khi ấy, các Long tử  đều đến tự cung cũng lại mừng rỡ hưởng vui năm dục, hòa hợp dạo chơi,  giáng mưa cam lồ lớn.
Như vậy Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác vì các  chúng hội rưới trận mưa Ðại pháp. Khi ấy, có vô lượng chúng Bồ tát Ma ha  tát trưởng tử nghe rồi kiết tập, hoặc liền ở trong cõi Kham Nhẫn đây,  đối tự Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác vì các chúng hội rưới mưa Ðại pháp,  hoặc đến trong tự các cõi Phật kia đối các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác  đều đối tự chúng rưới mưa Ðại pháp.
Lại nữa, Khánh Hỷ! Như Long  vương ở biển, có lúc vui mừng ở trong tự cung rưới xuống mưa lớn. Có bao  các Long trụ lâu trong cung, tùy chỗ rưới xuống đều vui mừng lãnh thọ,  đối trận mưa đây khéo biết phân ngằn. Các Long tử kia cũng đều vui mừng  kham thọ Phụ vương đã rưới mưa lớn. Sở dĩ vì sao? Vì có các Long thảy  đối trận mưa ấy chẳng biết phân ngằn, cũng lại chẳng thể vui mừng nhẫn  thọ được.
Như vậy, Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác ở giữa hội đại  chúng mưa báu thâm pháp. Có chúng Ðại Bồ tát trưởng tử Phật đã lâu trồng  vô lượng căn lành thù thắng, đã sanh trưởng nơi pháp môn sâu thẳm, trọn  nên các thứ ý vui rộng lớn, kham thọ mưa Ðại pháp môn Như Lai, nghe rồi  vui mừng khéo biết phân ngằn. Vì nghĩa đây nên ngày nay Như Lai trong  chúng thanh tịnh Sư tử rống lớn, rưới mưa pháp lớn, làm nhiêu ích lớn.
Lại  nữa, Khánh Hỷ! Như Chuyển luân vương có nhiều các con, dòng mẹ thanh  tịnh, hình mạo đoan nghiêm. Có lúc Luân vương nhóm nhiều kho báu, đòi  khắp các con phân bố ban cho, tâm vương trọn không dối gạt thiên lệch.  Khi các Vương tử đã được nhiều của, bội đối Phụ vương rất sanh kính mến,  đều khởi nghĩ này: Ngày nay chúng ta cảm biết Phụ vương cho ta đồng  lợi.
Như vậy, Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác là chủ Ðại pháp, làm  vua Ðại pháp, tự nhiên chiêu tập các Phật chơn tử, đem kho Ðại pháp phân  bố ban cho, nơi tâm trọn không dối gạt thiên lệch. Khi các Phật tử đã  được diệu pháp, bội đối Như Lai rất sanh kính mến, đều khởi nghĩ này:  Ngày nay chúng ta cảm biết Như Lai cho ta đồng lợi. Nay chúng ta nên xí  nhiên tinh tiến, nối thịnh giống Phật khiến chẳng dứt tuyệt.
Lại  nữa, Khánh Hỷ! Pháp bảo như vầy sâu thẳm nhiệm mầu, chẳng phải hữu tình  khác chỗ năng tín thọ được. Kẻ kém tin hiểu, kẻ tăng thượng mạn, kẻ hành  ác kiến, kẻ hành hữu tướng, kẻ hành hữa đắc, kẻ bị ngã mạn phá hoại, kẻ  bị tham sân si xô đè, kẻ vượt đường mà đi, các loại như thế thảy gọi  hữu tình khác, đối pháp môn đây chẳng thể tín thọ được.
Khánh Hỷ  phải biết: Các loại hữu tình tin hiểu thấp kém chẳng thể quí mến của báu  Luân vương, cần con Luân vương mới sanh quí mến.
Khánh Hỷ phải  biết: Các loại hữu tình bần cùng thấp kém đâu tham Luân vương sở hữu voi  báu ngựa báu, ngọc báu nữ báu, tôi chủ kho báu, tướng chủ binh báu và  các thứ khác thượng diệu y phục, mạc ni chơn châu, kim ngân, san hô, phệ  lưu ly thảy của báu nhiều giá trị. Người bần cùng kia, giả sử gặp tự ôm  xấu hổ chẳng thể thọ dụng, nên lại chuyển mãi, chẳng biết giá trị đòi  giá rất thấp, tùy trả bèn bán, hoặc do đối của báu không soi xét biện  biệt, nên tâm bèn chán coi thường mà vứt bỏ đi!
Khánh Hỷ phải biết: Kẻ bần cùng kia chẳng những chẳng hiểu giá trị của báu, cũng lại chẳng biết danh tự của báu nữa.
Như  vậy, Khánh Hỷ! Chỉ có con Pháp thân Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, hoặc  các Thanh văn thảy, hoặc các Bồ tát đã thấy đế lý cầu Ðại Bồ đề, được  bạn lành chơn tịnh nhiếp trì, mới có thể tín thọ kho Pháp bảo này được.  Kia thâm kính mến, chẳng thể được Pháp bảo tương ưng suông, cũng năng  thọ dụng lý giáo chơn tịnh tương ưng Phật pháp, cũng năng tu hành đối  tất cả pháp không chấp không trước các hạnh Bồ tát.
Khánh Hỷ phải  biết: Các loại hữu tình bần cùng thấp kém, nghĩa là kẻ thiếu chánh  nghe, hoại chánh nghe, ngu si không mắt, đâu năng mong cầu kho báu Chánh  pháp được. Giả sử gặp được, chẳng biết kính trọng, đối hữu tình khác  khinh mà bán rẻ, hoặc tâm chán coi tiện mà vứt bỏ đi.
Lại nữa,  Khánh Hỷ! Nếu kẻ hàng thịt, hoặc kẻ gánh thây chết, hoặc thợ thuyền,  hoặc những kẻ bần tiện ác hoạt mạng, quyết chẳng thể cầu ngọc báu nhiều  giá trị. Giả sử gặp được chẳng tự thọ dụng, tùy được ít giá tức bán cho  người, hoặc lại chán mà coi thường vứt bỏ.
Khánh Hỷ phải biết:  Hạng hàng thịt thảy tức là thêm lời tất cả ngoại đạo, cũng là các chúng  đệ tử ngoại. Các kẻ bần tiện ác hoạt mạng tức thêm lời các ngu phu dị  sanh. Kia thường lún chìm ao bùn ác kiến, với tất cả thời hành hữu sở  đắc, ưa tướng troí buộc, hành hạnh hữu tướng, có các điều thú hướng vượt  đường mà đi, chẳng thể mong cầu của báu Thánh Pháp, giả sử gặp được  chẳng thể thọ dụng, hoặc rất chán bỏ, hoặc khinh cho người.
Khánh  Hỷ phải biết: Nếu các Phật tử hành chỗ Phật hành, vì muốn trụ trì Như  Lai mười lực, bốn vô sở úy thảy vô biên Phật pháp chẳng cho dứt mất, cầu  được kho thâm pháp như thế. Kia đối kho báu thâm pháp như thế, khởi  tưởng chơn bảo, hết lòng yêu chuộng, khéo năng tho dụng, tinh siêng giữ  gìn, khiến chẳng hư mất.
Khánh Hỷ phải biết: Chẳng phải Sư tử rống chó dã can học được, cần Sư tử con do Sư tử chúa sanh ra mới học được tiếng rống ấy.
Khánh  Hỷ phải biết: Nói chó dã can dụ các tà kiến ngu phu dị sanh, kia định  chẳng thể tinh siêng phương tiện học tiếng rống Chánh đẳng giác Ðại sư  tử. Cần các con Phật, sanh từ Chánh đẳng giác Tự nhiên trí mới năng tinh  siêng học tiếng rống Chánh đẳng giác Ðại sư tử. Con Phật như thế đối  của Chánh đẳng Vô thượng pháp khéo năng thọ dụng được.
Bấy giờ,  Xá Lợi Tử thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn, rất lạ! Như Lai Ứng Chánh Ðẳng  Giác năng nhóm chúng hội thanh tịnh như thế hiếm có! Như Lai Ứng Chánh  Ðẳng Giác năng nhóm chúng hội tối thắng như thế, chúng hội tự nhiên,  chúng hội khó đè, chúng hội in như kim cương không động không chuyển  không rối, vì thuyết Bát nhã Ba la mật đa.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Xá Lợi Tử: Ngươi khéo hay khen công đừc chúng hội.
Khi  ấy, Xá Lợi Tử bèn thưa Phật rằng: Công đức chúng hội tôi chẳng thể khen  nổi. Sở dĩ vì sao? Vì chúng hội nay đây trọn nên vô lượng vô biên công  đức như núi Diệu cao khen chẳng thể hết được.
Nơi đây Phật bảo Xá  Lợi Tử rằng: Nhưvậy, như vậy. Như ngươi vừa nói. Nay chúng hội đây trọn  nên vô biên công đức thù thắng thanh tịnh hiếm có. Chư Phật Thế Tôn  xưng nêu khen ngợi hãy chẳng thể hết, huống các hữu tình khác.
Lại,  Xá Lợi Tử! Chúng hội ngày nay chẳng sức Phật Thế Tôn đã khiến nhóm,  cũng chẳng Như Lai đối chúng hội đây có điều ưa thích mà khiến kia nhóm,  nhưng do tự lực căn lành của chúng ấy được nghe danh Ta mà đến nhóm  hội. Lại, đại chúng đây chẳng vì Phật đến, cũng chẳng phải thần thông  Như Lai đòi tới, chỉ do tự lực căn lành chúng ấy được giác phát mà đến  tới đây. Lại, lẽ phải là vậy, nếu Phật Thế Tôn khi muốn thuyết Diệu pháp  sâu thẳm như đây, định có các Ðại Bồ tát nhu thế từ các cõi Phật mà đến  nhóm hội.
Lại, Xá Lợi Tử! Chư Phật Thế Tôn hoặc quá khứ vị lai  hiện tại, hoặc mười phương cõi, sắp muốn khai thị Tạng pháp Bồ tát sâu  mầu nhiệm để dứt tất cả nghi, ắt co vô lượng vô biên chúng công đức  thanh tịnh tối thắng như thế nhóm hội. Nếu có vô lượng vô biên chúng  công đức thanh tịnh tối thắng như thế đến nhóm, ắt thuyết Tạng pháp Bồ  tát thẳm sâu mầu nhiệm như thế để dứt tất cả nghi ngờ.
Bấy giờ,  Thế Tôn bảo Thiện Dũng Mãnh Bồ tát Ma ha tát rằng: Ta ở chỗ chỗ vì chúng  các Bồ tát Ma ha tát tuyên nói Bát nhã Ba la mật đa khiến siêng tu học.  Chúng Bồ tát Ma ha tát sở học Bát nhã Ba la mật đa là sao? Nếu xa lìa  được thật tánh các pháp, đấy gọi Bát nhã Ba la mật đa. Bát nhã Ba la mật  đa như thế thẳm sâu mầu nhiệm thật chẳng thể nói. Nay theo chỗ hiểu  biết cảnh giới của các ngươi, văn cú của thế tục phương tiện diễn nói  Bát nhã Ba la mật đa sâu thẳm, khiến chúng các Bồ tát Ma ha tát nghe rồi  phương tiện tinh siêng tu học. 
Thiện Dũng Mãnh! Tức sắc uẩn  chẳng Bát nhã Ba la mật đa, tức thọ tưởng hành thức uẩn cũng chẳng Bát  nhã Ba la mật đa. Lìa sắc uẩn chẳng Bát nhã Ba la mật đa, lìa thọ tưởng  hành thức uẩn cũng chẳng Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng  Mãnh! Bờ kia sắc uẩn chẳng tức sắc uẩn, bờ kia thọ tưởng hành thức uẩn  cũng chẳng tức thọ tưởng hành thức uẩn. Như bờ kia sắc uẩn, sắc uẩn cũng  vậy; như bờ kia thọ tưởng hành thức uẩn, thọ tưởng hành thức uẩn cũng  vậy.
Thiện Dũng Mãnh! Trong đây, bờ kia sắc uẩn chẳng tức sắc uẩn  ấy, nói sắc uẩn lìa buộc; bời kia thọ tưởng hành thức uẩn cũng chẳng  tức thọ tưởng hành thức uẩn ấy, nói thọ tưởng hành thức uẩn lìa buộc.
Như  bờ kia sắc uẩn, sắc uẩn cũng vậy ấy, nói sắc uẩn tự tánh như thế, tức  nói sắc uẩn nhu sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc. Như bờ kia thọ tưởng  hành thức uẩn, thọ tưởng hành thức uẩn cũng vậy ấy, nói thọ tưởng hành  thức uẩn tự tánh như thế, tức nói thọ tưởng hành thức uẩn như sở hữu  tánh, bản tánh bất khả đắc.
Như sắc uẩn như sở hữu tánh, bản tánh  bất khả đắc, phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng lại nhu thế. Như thọ  tưởng hành thức uẩn như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc, phải biết Bát  nhã Ba la mật đa cũng lại như thế.
Thiện Dũng Mãnh! Tức nhãn xứ  chẳng Bát nhã Ba la mật đa, tức nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng chẳng Bát  nhã Ba la mật đa. Lìa nhãn xứ chẳng Bát nhã Ba la mật đa, lìa nhĩ tỷ  thiệt thân ý xứ cũng chẳng Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng  Mãnh! Bờ kia nhãn xứ chẳng tức nhãn xứ, bờ kia nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ  cũng chẳng tức nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Như bờ kia nhãn xứ, nhãn xứ cũng  vậy; như bờ kia nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng vậy.
Thiện  Dũng Mãnh! Trong đây, bờ kia nhãn xứ chẳng tức nhãn xứ ấy, nói nhãn xứ  lìa buộc; bờ kia nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng chẳng nhĩ tỷ thiệt thân ý  xứ ấy, nói nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ lìa buộc.
Như bờ kia nhãn xứ,  nhãn xứ cũng vậy ấy, nói nhãn xứ tự tánh như thế, tức nói nhãn xứ như sở  hữu tánh, bản tánh bất khả đắc. Như bờ kia nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ, nhĩ  tỷ thiệt thân ý xứ cũng vậy ấy, nói nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ tự tánh như  thế, tức nói nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ như sở hữu tánh, bản tánh bất khả  đắc.
Như nhãn xứ như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc, phải biết  Bát nhã Ba la mật đa cũng lại như thế. Như nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ như  sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc, phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng  lại như thế.
Thiện Dũng Mãnh! Tức sắc xứ chẳng Bát nhã Ba la mật  đa, tức thanh hương vị xúc pháp xứ cũng chẳng Bát nhã Ba la mật đa. Lìa  sắc xứ chẳng Bát nhã Ba la mật đa, lìa thanh hương vị xúc pháp xứ cũng  chẳng Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Bờ kia sắc xứ  chẳng tức sắc xứ, bờ kia thanh hương vị xúc pháp xứ cũng chẳng tức thanh  hương vị xúc pháp xứ. Như bờ kia sắc xứ, sắc xứ cũng vậy; như bờ kia  thanh hương vị xúc pháp xứ, thanh hương vị xúc pháp xứ cũng vậy.
Thiện  Dũng Mãnh! Trong đây bờ kia sắc xứ chẳng tức sắc xứ ấy, nói sắc xứ lìa  buộc. Bờ kia thanh hương vị xúc pháp xứ cũng chẳng tức thanh hương vị  xúc pháp xứ ấy, nói thanh hương vị xúc pháp xứ lìa buộc.
Nhu bờ  kia sắc xứ, sắc xứ cũng vậy ấy, nói sắc xứ tự tánh như thế, tức nói sắc  xứ như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc. Như bờ kia thanh hương vị xúc  pháp xứ, thanh hương vị xúc pháp xứ cũng vậy ấy, nói thanh hương vị xúc  pháp xứ tự tánh như thế, tức nói thanh hương vị xúc pháp xứ như sở hữu  tánh, bản tánh bất khả đắc.
Như sắc xứ như sở hữu tánh, bản tánh  bất khả đắc, phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng lại như thế. Như thanh  hương vị xúc pháp xứ như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc, phải biết  Bát nhã Ba la mật đa cũng lại như thế.
Thiện Dũng Mãnh! Tức nhãn  giới chẳng Bát nhã Ba la mật đa, tức nhĩ tỷ thiệt thân ý giới cũng chẳng  Bát nhã Ba la mật đa. Lìa nhãn giới chẳng Bát nhã Ba la mật đa, lìa nhĩ  tỷ thiệt thân ý giới cũng chẳng Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện  Dũng Mãnh! Bờ kia nhãn giới chẳng tức nhãn giới bời kia nhĩ tỷ thiệt  thân ý giới cũng chẳng tức nhĩ tỷ thiệt thân ý giới. Như bờ kia nhãn  giới, nhãn giới cũng vậy; như bờ kia nhĩ tỷ thiệt thân ý giới, nhĩ tỷ  thiệt thân ý giới cũng vậy.
Thiện Dũng Mãnh! Trong đây bờ kia  nhãn giới chẳng tức nhãn giới ấy, nói nhãn giới lìa buộc; bờ kia nhĩ tỷ  thiệt thân ý giới chẳng tức nhĩ tỷ thiệt thân ý giới ấy, nói nhĩ tỷ  thiệt thân ý giới lìa buộc.
Như bờ kia nhãn giới, nhãn giới cũng  vậy ấy, nói nhãn giới tự tánh như thế, tức nói nhãn giới như sở hữu  tánh, bản tánh bất khả đắc. Như bờ kia nhĩ tỷ thiệt thân ý giới, nhĩ tỷ  thiệt thân ý giới cũng vậy ấy, nói nhĩ tỷ thiệt thân ý giới tự tánh như  thế, tức nói nhĩ tỷ thiệt thân ý giới như sở hữu tánh, bản tánh bất khả  đắc.
Như nhãn giới như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc, phải  biết Bát nhã Ba la mật đa cũng lại như thế. Như nhĩ tỷ thiệt thân ý giới  như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc, phải biết Bát nhã Ba la mật đa  cũng lại như thế.
Thiện Dũng Mãnh! Tức sắc giới chẳng Bát nhã Ba  la mật đa, tức thanh hương vị xúc pháp giới cũng chẳng Bát nhã Ba la mật  đa. Lìa sắc giới chẳng Bát nhã Ba la mật đa, lìa thanh hương vị xúc  pháp giới cũng chẳng Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh!  Bờ kia sắc giới cũng chẳng tức sắc giới, bờ kia thanh hương vị xúc pháp  giới cũng chẳng tức thanh hương vị xúc pháp giới. Như bờ kia sắc giới,  sắc giới cũng vậy; như bờ kia thanh hương vị xúc pháp giới, thanh hương  vị xúc pháp giới cũng vậy.
Thiện Dũng Mãnh! Trong đây bờ kia sắc  giới chẳng từa sắc giới ấy, nói sắc giới lìa buộc; bờ kia thanh hương vị  xúc pháp giới chẳng tức thanh hương vị xúc pháp giới ấy, nói thanh  hương vị xúc pháp giới lìa buộc.
Như bờ kia sắc giới, sắc giới  cũng vậy ấy, nói sắc giới tự tánh như thế, tức nói sắc giới như sở hữu  tánh, bản tánh bất khả đắc. Như bờ kia thanh hương vị xúc pháp giới,  thanh hương vị xúc pháp giới cũng vậy ấy, nói thanh hương vị xúc pháp  giới tự tánh như thế, tức nói thanh hương vị xúc pháp giới như sở hữu  tánh, bản tánh bất khả đắc.
Như sắc giới như sở hữu tánh, bản  tánh bất khả đắc. phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng lại như thế. Như  thanh hương vị xúc pháp giới như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc, phải  biết Bát nhã Ba la mật đa cũng lại như thế.
Thiện Dũng Mãnh! Tức  nhãn thức giới chẳng Bát nhã Ba la mật đa, tức nhĩ tỷ thiệt thân ý thức  giới cũng chẳng Bát nhã Ba la mật đa. Lìa nhãn thức giới chẳng Bát nhã  Ba la mật đa, lìa nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới cũng chẳng Bát nhã Ba la  mật đa. Vì cớ sao? Thiện Dũng Mãnh! Bờ kia nhãn thức giới chẳng tức  nhãn thức giới, bờ kia nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới cũng chẳng tức nhĩ  tỷ thiệt thân ý thức giới. Như bờ kia nhãn thức giới, nhãn thức giới  cũng vậy; như bờ kia nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới, nhĩ tỷ thiệt thân ý  thức giới cũng vậy.
Thiện Dũng Mãnh! Trong đây bờ kia nhãn thức  giới chẳng tức nhãn thức giới ấy, nói nhãn thức giới lìa buộc; bờ kia  nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới chẳng tức nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới  ấy, nói nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới lìa buộc.
Như bờ kia nhãn  thức giới, nhãn thức giới cũng vậy ấy, nói nhãn thức giới tự tánh như  thế, tức nói nhãn thức giới như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc. Như  bờ kia nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới, nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới cũng  vậy ấy, nói nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới tự tánh nhu thế, tức nói nhĩ  tỷ thiệt thân ý thức giới như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc.
Như  nhãn thức giới như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc, phải biết Bát nhã  Ba la mật đa cũng lại như thế. Như nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới như sở  hữu tánh, bản tánh bất khả đắc, phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng lại  như thế.
Thiện Dũng Mãnh! Tức tất cả các pháp chẳng
Bát  nhã Ba la mật đa. Lìa tất cả pháp cũng chẳng Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ  sao? Thiện Dũng Mãnh! Bờ kia tất cả pháp chẳng tức tất cả pháp. Như bờ  kia tất cả pháp, tất cả pháp cũng vậy.
Thiện Dũng Mãnh! Trong đây  bờ kia tất cả pháp chẳng tức tất cả pháp ấy, nói tất cả pháp lìa buộc.  Như bờ kia tất cả pháp, tất cả pháp cũng vậy ấy, nói tất cả pháp tự tánh  như thế, tức nói tất cả pháp như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc.
Như tất cả pháp như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc, phải biết Bát nhã Ba la mật đa cũng lại như thế.
Lại  nữa, Thiện Dũng Mãnh! Bát nhã Ba la mật đa như thế chẳng nương sắc uẩn,  cũng chẳng nương thọ tưởng hành thức uẩn. Bát nhã Ba la mật đa như  chẳng nương nhãn xứm cũng chẳng nương nhĩ tỷ thiệt thân ý thức xứ. Bát  nhã Ba la mật đa như thế chẳng nương sắc xứ, cũng chẳng nương thanh  hương vị xúc pháp xứ. Bát nhã Ba la mật đa như thế chẳng nương nhãn  giới, cũng chẳng nương nhĩ tỷ thiệt thân ý giới. Bát nhã Ba la mật đa  như thế chẳng nương sắc giới, cũng chẳng nương thanh hương vị xúc pháp  giới. Bát nhã Ba la mật đa như thế chẳng nương nhãn thức giới, cũng  chẳng nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Bát nhã Ba la mật đa như thế đối  tất cả pháp đều không chỗ nương.
Lại nữa, Thiện Dũng Mãnh! Bát  nhã Ba la mật đa như thế chẳng ở trong sắc uẩn, chẳng ở ngoài sắc uẩn,  chẳng ở giữa hai, xa lìa mà trụ; cũng chẳng ở trong thọ tưởng hành thức  uẩn, chẳng ở ngoài thọ tưởng hành thức uẩn, chẳng ở giữa hai, xa lìa mà  trụ.
Bát nhã Ba la mật đa như thế chẳng ở trong nhãn xứ, chẳng ở  ngoài nhãn xứ, chẳng ở giữa hai, xa lìa mà trụ; cũng chẳng ở trong nhĩ  tỷ thiệt thân ý xứ, chẳng ở ngoài nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ, chẳng ở giữa  hai, xa lìa mà trụ.
Bát nhã Ba la mật đa như thế chẳng ở trong  sắc xứ, chẳng ở ngoài sắc xứ, chẳng ở giữa hai, xa lìa mà trụ; cũng  chẳng ở trong thanh hương vị xúc pháp xứ, chẳng ở ngoài thanh hương vị  xúc pháp xứ, chẳng ở giữa hai, xa lìa mà trụ.
Bát nhã Ba la mật  đa như thế chẳng ở trong nhãn giới, chẳng ở ngoài nhãn giới, chẳng ở  giữa hai, xa lìa mà trụ; cũng chẳng ở trong nhĩ tỷ thiệt thân ý giới,  chẳng ở ngoài nhĩ tỷ thiệt thân ý giới, chẳng ở giữa hai, xa lìa mà trụ.
Bát  nhã Ba la mật đa như thế chẳng ở trong sắc giới, chẳng ở ngoài sắc  giới, chẳng ở giữa hai, xa lìa mà trụ; cũng chẳng ở trong thanh hương vị  xúc pháp giới, chẳng ở ngoài thanh hương vị xúc pháp giới, chẳng ở giữa  hai, xa lìa mà trụ.
Bát nhã Ba la mật đa như thế chẳng ở trong  nhãn thức giới, chẳng ở ngoài nhãn thức giới, chẳng ở giữa hai, xa lìa  mà trụ; cũng chẳng ở trong nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới, chẳng ở ngoài  nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới, chẳng ở giữa hai, xa lìa mà trụ.
Bát nhã Ba la mật đa như thế chẳng ở trong tất cả pháp, chẳng ở ngoài tất cả pháp, chẳng ở giữa hai, xa lìa mà trụ;
Lại,  Thiện Dũng Mãnh! Bát nhã Ba la mật đa như thế cùng sắc uẩn chẳng tương  ưng chẳng phải chẳng tương ưng, cùng thọ tưởng hành thức uẩn cũng chẳng  tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng.
Bát nhã Ba la mật đa như  thế cùng nhãn xứ chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, cùng nhĩ tỷ  thiệt thân ý xứ cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng.
Bát  nhã Ba la mật đa như thế cùng sắc xứ chẳng tương ưng chẳng phải chẳng  tương ưng, cùng thanh hương vị xúc pháp xứ chẳng tương ưng chẳng phải  chẳng tương ưng.
Bát nhã Ba la mật đa như thế cùng nhãn giới  chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, cùng nhĩ tỷ thiệt thân ý  giới cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng.
Bát nhã Ba  la mật đa như thế cùng sắc giới chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương  ưng, cùng thanh hương vị xúc pháp giới chẳng tương ưng chẳng phải chẳng  tương ưng.
Bát nhã Ba la mật đa như thế cùng nhãn thức giới chẳng  tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng, cùng nhĩ tỷ thiệt thân ý thức  giới cũng chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng.
Bát nhã Ba la mật đa như thế cùng tất cả pháp chẳng tương ưng chẳng phải chẳng tương ưng.
Lại  nữa, Thiện Dũng Mãnh! Chơn như sắc uẩn tánh chẳng hư dối, tánh chẳng  biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật đa. Chơn như thọ  tưởng hành thức uẩn tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở  hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật đa.
Chơn như nhãn xứ tánh chẳng  hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật  đa. Chơn như nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến  khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật đa.
Chơn như sắc  xứ tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi  Bát nhã Ba la mật đa. Chơn như thanh hương vị xúc pháp xứ tánh chẳng hư  dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật  đa.
Chơn như nhãn giới tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác,  tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật đa. Chơn như nhĩ tỷ thiệt  thân ý giới tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu,  đấy gọi Bát nhã Ba la mật đa.
Chơn như sắc giới tánh chẳng hư  dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật  đa. Chơn như thanh hương vị xúc pháp giới tánh chẳng hư dối, tánh chẳng  biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật đa.
Chơn  như nhãn thức giới tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở  hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật đa. Chơn như nhĩ tỷ thiệt thân ý thức  giới tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi  Bát nhã Ba la mật đa.
Chơn như tất cả pháp tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh như sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật đa.
Lại  nữa, Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn ấy, tánh lìa sắc uẩn. Sở dĩ vì sao? Chẳng  phải trong sắc uẩn có tánh sắc uẩn. Ðây vô sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba  la mật đa. Thọ tưởng hành thức uẩn ấy, tánh lìa thọ tưởng hành thức uẩn.  Sở dĩ vì sao? Chẳng phải trong thọ tưởng hành thức uẩn có tánh thọ  tưởng hành thức uẩn. Ðây vô sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật đa.
Nhãn  xứ ấy, tánh lìa nhãn xứ. Sở dĩ vì sao? Chẳng phải trong nhãn xứ có tánh  nhãn xứ. Ðây vô sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật đa. Nhĩ tỷ thiệt thân  ý xứ ấy, tánh lìa nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Sở dĩ vì sao? Chẳng phải  trong nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ có tánh nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Ðây vô sở  hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật đa.
Sắc xứ ấy, tánh lìa sắc xứ. Sở  dĩ vì sao? Chẳng phải trong sắc xứ có tánh sắc xứ. Ðây vô sở hữu, đấy  gọi Bát nhã Ba la mật đa. Thanh hương vị xúc pháp xứ ấy, tánh lìa thanh  hương vị xúc pháp xứ. Sở dĩ vì sao? Chẳng phải trong thanh hương vị xúc  pháp xứ có tánh thanh hương vị xúc pháp xứ. Ðây vô sở hữu, đấy gọi Bát  nhã Ba la mật đa.
Nhãn giới ấy, tánh lìa nhãn giới. Sở dĩ vì sao?  Chẳng phải trong nhãn giới có tánh nhãn giới. Ðây vô sở hữu, đấy gọi  Bát nhã Ba la mật đa. Nhĩ tỷ thiệt thân ý giới ấy, tánh lìa nhĩ tỷ thiệt  thân ý giới. Sở dĩ vì sao? Chẳng phải trong nhĩ tỷ thiệt thân ý giới có  tánh nhĩ tỷ thiệt thân ý giới. Ðây vô sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật  đa.
Sắc giới ấy, tánh lìa sắc giới. Sở dĩ vì sao? Chẳng phải  trong sắc giới có tánh sắc giới. Ðây vô sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la  mật đa. Thanh hương vị xúc pháp giới ấy, tánh lìa thanh hương vị xúc  pháp giới. Sở dĩ vì sao? Chẳng phải trong thanh hương vị xúc pháp giới  có tánh thanh hương vị xúc pháp giới. Ðây vô sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba  la mật đa.
Nhãn thức giới ấy, tánh lìa nhãn thức giới. Sở dĩ vì  sao? Chẳng phải trong nhãn thức giới có tánh nhãn thức giới. Ðây vô sở  hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật đa. Nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới ấy,  tánh lìa nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Sở dĩ vì sao? Chẳng phải trong  nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới có tánh nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Ðây  vô sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật đa.
Tất cả pháp ấy, tánh  lìa tất cả pháp. Sở dĩ vì sao? Chẳng phải trong tất cả pháp có tánh tất  cả pháp. Ðây vô sở hữu, đấy gọi Bát nhã Ba la mật đa.
Lại nữa,  Thiện Dũng Mãnh! Tự tánh sắc uẩn lìa sắc uẩn, tự tánh thọ tưởng hành  thức uẩn lìa thọ tưởng hành thức uẩn. Tự tánh lìa đây, đấy gọi Bát nhã  Ba la mật đa.
Tự tánh nhãn xứ lìa nhãn xứ, tự tánh nhĩ tỷ thiệt  thân ý xứ lìa nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Tự tánh lìa đây, đấy gọi Bát nhã  Ba la mật đa.
Tự tánh sắc xứ lìa sắc xứ, tự tánh thanh hương vị  xúc pháp xứ lìa thanh hương vị xúc pháp xứ. Tự tánh lìa đây, đấy gọi Bát  nhã Ba la mật đa.
Tự tánh nhãn giới lìa nhãn giới, tự tánh nhĩ  tỷ thiệt thân ý giới lìa nhĩ tỷ thiệt thân ý giới. Tự tánh lìa đây, đấy  gọi Bát nhã Ba la mật đa.
Tự tánh sắc giới lìa sắc giới, tự tánh  thanh hương vị xúc pháp giới lìa thanh hương vị xúc pháp giới. Tự tánh  lìa đây, đấy gọi Bát nhã Ba la mật đa.
Tự tánh nhãn thức giới lìa  nhãn thức giới, tự tánh nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới lìa nhĩ tỷ thiệt  thân ý thức giới. Tự tánh lìa đây, đấy gọi Bát nhã Ba la mật đa. Tự tánh  tất cả pháp lìa tất cả pháp. Tự tánh lìa đây, đấy gọi Bát nhã Ba la mật  đa.
Lại nữa, Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không có tự tánh sắc uẩn,  thọ tưởng hành thức uẩn không có tự tánh thọ tưởng hành thức uẩn. Tự  tánh không đây, đấy gọi Bát nhã Ba la mật đa.
Nhãn xứ không có tự  tánh nhãn xứ, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ không có tự tánh nhĩ tỷ thiệt thân  ý xứ. Tự tánh không đây, đấy gọi Bát nhã Ba la mật đa.
Sắc xứ  không có tự tánh sắc xứ, thanh hương vị xúc pháp xứ không có tự tánh  thanh hương vị xúc pháp xứ. Tự tánh không đây, đấy gọi Bát nhã Ba la mật  đa.
Nhãn giới không có tự tánh nhãn giới, nhĩ tỷ thiệt thân ý  giới không có tự tánh nhĩ tỷ thiệt thân ý giới. Tự tánh không đây, đấy  gọi Bát nhã Ba la mật đa.
Sắc giới không có tự tánh sắc giới,  thanh hương vị xúc pháp giới không có tự tánh thanh hương vị xúc pháp  giới. Tự tánh không đây, đấy gọi Bát nhã Ba la mật đa.
Nhãn thức  giới không có tự tánh nhãn thức giới, nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới  không có tự tánh nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Tự tánh không đây, đấy  gọi Bát nhã Ba la mật đa.
Tất cả pháp không có tự tánh tất cả pháp. Tự tánh không đây, đấy gọi Bát nhã Ba la mật đa.
