Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 24
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Xá-lợi Tử: 
-  Thầy an trụ diệu trí như vậy, nghĩa là như thật biết Bồ-tát chấp trước  tịnh giới như vậy là có sự hủy phạm. Bồ-tát không chấp trước tịnh giới  như vậy là không có sự hủy phạm.
Xá-lợi Tử bạch Phật: 
-  Bạch Thế Tôn! Con tin sự tuyên thuyết diệu pháp của Như Lai Ứng Chánh  Ðẳng Giác nên khởi trí như vậy, chứ chẳng phải con tự suy nghĩ mà nói  được như thế. Theo con hiểu nghĩa lời Phật thuyết là nếu các Bồ-tát tạm  thời khởi tâm tán thán bậc Thanh văn, hoặc Ðộc giác, thì nên biết hủy  phạm tịnh giới Bồ-tát. Nếu các Bồ-tát tạm thời khởi tâm nhàm chán bậc  Thanh văn, hoặc Ðộc giác, thì nên biết hủy phạm tịnh giới Bồ-tát. 
Vì  sao? Vì nếu các Bồ-tát tán thán bậc Thanh văn, hoặc Ðộc giác, sanh tâm  ái nhiễm, chấp trước, không cầu đến trí nhất thiết trí, thì đối với giới  Bồ-tát có sự hủy phạm. Nếu các Bồ-tát nhàm chán bậc Thanh văn, hoặc Ðộc  giác, sanh tâm khinh miệt, tức bị chướng ngại sự cầu trí nhất thiết  trí, thì đối với giới Bồ-tát có sự hủy phạm.
Vì vậy, Bồ-tát đối  với nhị thừa không nên tán thán, cũng không nhàm chán. Nếu các Bồ-tát  đối với nhị thừa, tâm không cung kính hoặc sanh ái nhiễm, nên biết đều  là hành nơi phi xứ. Nếu các Bồ-tát hành nơi phi xứ, nên biết gọi là phạm  giới Bồ-tát, cũng gọi là chấp trước tịnh giới, không chứng đắc trí nhất  thiết trí. 
Thế nên, Bồ-tát đối với nhị thừa, chỉ nên xa lìa  không nên tán thán, cũng không hủy báng. Nếu các Bồ-tát đối với nhị thừa  không xa lìa, nhất định không chứng đắc sự cầu quả vị Vô thượng Chánh  đẳng Bồ-đề. 
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát duyên theo  cảnh năm dục lạc, khởi tâm thích thú, tuy gọi là tác ý phi lý nhưng  không phá hoại quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Vì sao? Vì tác ý phi  lý chỉ rơi vào phiền não. Do phiền não kia làm cho các Bồ-tát thọ sanh ở  các nơi. Từng giờ, từng giờ các chúng Bồ-tát thọ nhiều thân ở các cõi  kia. Từng lúc, từng lúc dần dần tu học viên mãn bố thí, tịnh giới, an  nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và vô lượng vô biên Phật  pháp khác. Từng giờ, từng giờ dần dần tu học viên mãn bố thí, tịnh giới,  an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và vô lượng vô biên  Phật pháp khác. Từng lúc, từng lúc các Bồ-tát này lần lần thân cận trí  nhất thiết trí. 
Bạch Thế Tôn! Vì vậy con cho rằng, phiền não đối  với các Bồ-tát có ân đức lớn. Nghĩa là tùy thuận theo trí nhất thiết  trí. Nếu các Bồ-tát quán sát phiền não có thể hỗ trợ cho việc dẫn đến  trí nhất thiết trí, thì phiền não có ân đức lớn với chúng Bồ-tát. Các  Bồ-tát nên biết, khi đạt đến sự chứng đắc thì mọi việc đều là phương  tiện thiện xảo. Như vậy, Bồ-tát phải biết là an trụ tịnh giới  Ba-la-mật-đa của Bồ-tát. Nên biết, các Bồ-tát đối với giới Bồ-tát không  có sự hủy phạm, cũng không chấp trước tịnh giới Bồ-tát.
Phật khen ngợi Xá-lợi Tử: 
-  Lành thay! Lành thay! Đúng vậy! Đúng vậy! Lời thầy nói rất hay. Có các  Bồ-tát đối với tịnh giới có sự chấp trước, có sự hủy phạm. Có các Bồ-tát  đối với tịnh giới không có sự chấp trước, không có sự hủy phạm. Thầy là  người trình bày rõ thật ngữ, pháp ngữ, là người khéo tùy theo pháp,  lãnh nhận và thuyết pháp.
Lại nữa, Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát an  trụ nơi tịnh giới Ba-la-mật-đa, suy nghĩ như vầy: Vô lượng hữu tình ở  mười phương vô lượng vô biên thế giới, do tăng trưởng oai lực sự trụ  tịnh giới Ba-la-mật-đa của ta, nên người không tịnh giới đều được tịnh  giới, người có ác giới đều được xa lìa. Và nhờ sự tăng trưởng oai lực  việc học tịnh giới Ba-la-mật-đa của ta, nên hộ trì các hữu tình đều được  lợi ích an lạc thù thắng. Đại Bồ-tát này biết thành tựu phương tiện  thiện xảo. 
Từng giờ, từng giờ Đại Bồ-tát tự tịnh giới  Ba-la-mật-đa, hồi hướng bố thí cho vô lượng hữu tình ở vô lượng vô biên  thế giới. Từng lúc, từng lúc dần dần tăng trưởng sự an trụ tịnh giới  Ba-la-mật-đa. Từng giờ, từng giờ dần dần tăng trưởng sự an trụ tịnh giới  Ba-la-mật-đa. Từng lúc, từng lúc lại hộ trì vô lượng tịnh giới  Ba-la-mật-đa. Từng giờ, từng giờ lại hộ trì vô lượng tịnh giới  Ba-la-mật-đa. Từng lúc, từng lúc lại hộ trì vô lượng vô số Phật pháp vi  diệu. Do đây mau đắc trí nhất thiết trí.
Lại nữa, Xá-lợi Tử! Nếu  Đại Bồ-tát nào an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa, lại nghĩ như vầy: Vô lượng  hữu tình ở mười phương vô lượng vô biên thế giới, do tăng trưởng oai  lực sự an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, nên người chưa phát tâm  Vô thượng Bồ-đề đều phát tâm. Người đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề đều  vĩnh viễn không thối chuyển. Nếu người có tâm hướng đến quả vị Vô thượng  Chánh đẳng Bồ-đề không thối chuyển, thì mau chóng viên mãn trí nhất  thiết trí. Đại Bồ-tát này dùng phương tiện thiện xảo duyên với các  Bồ-tát hồi hướng bố thí, tịnh giới Ba-la-mật-đa. Từng giờ, từng giờ hồi  hướng bố thí, tịnh giới Ba-la-mật-đa. Từng lúc, từng lúc không xa lìa  tâm trí nhất thiết. Từng giờ, từng giờ không xa lìa tâm trí nhất thiết.  Từng lúc, từng lúc dần dần thân cận trí nhất thiết trí. Đại Bồ-tát này  nhờ tăng trưởng oai lực thiện căn này, lại hộ trì vô lượng tịnh giới  Ba-la-mật-đa, làm cho dần dần tăng trưởng rộng lớn. Cũng hộ trì vô  lượng, vô số Phật pháp vi diệu, khiến dần dần được viên mãn.
Lại  nữa, Xá-lợi Tử! Nếu Đại Bồ-tát nào an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa, rồi  đem sự an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa của mình cho một Bồ-tát, thì phước  đức đạt được hơn hẳn phước đem cho những hữu tình phạm giới ở hằng hà sa  số thế giới, giúp họ thọ trì tịnh giới viên mãn. 
Nếu Đại Bồ-tát  an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa, rồi đem sự an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa  của mình, hồi hướng bố thí cho các hữu tình ở mười phương, giúp họ trụ  tịnh giới, xa lìa sự hủy phạm giới, thì đạt được vô lượng vô biên phước  đức. 
Nếu Đại Bồ-tát an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa, rồi đem sự an  trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa của mình bố thí cho một Bồ-tát, thì phước  đức đạt được hơn phước của Bồ-tát trên gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho  đến gấp muôn ức lần. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì Đại Bồ-tát này đem sự an trụ  tịnh giới Ba-la-mật-đa của mình bố thí cho một Bồ-tát, khiến cho vị ấy  hộ trì trí nhất thiết trí, giữ gìn trí nhất thiết trí, thì có thể hộ  trì, giữ gìn vô lượng hữu tình ở vô lượng vô biên thế giới, khiến được  an trụ tịnh giới, xa lìa các sự hủy phạm, như vậy dần dần được nhiều lợi  ích.
Ví như ngôi nhà lớn gồm mười gian mà chỉ có một cây cột. Vô  lượng chúng sanh sống ở trong đó, họ cùng nhau chơi giỡn, vui đùa hưởng  lạc. Có người bạo ác muốn chặt cây cột đó, khi ấy có người tốt bảo kẻ  xấu kia: 
“Trong nhà này có nhiều gia đình, cùng nhau chơi giỡn,  vui đùa, hưởng lạc. Nếu chặt cây này thì nhà sụp đổ, tổn hại vô lượng  mạng sống trong đó.” 
Như vậy, người tốt vì muốn lợi lạc vô lượng  hữu tình đang sống trong đó, ngăn chặn người ác kia, không cho chặt  cây. Lúc đó, có một người nam, khen ngợi người tốt: 
“Lành thay! Lành thay! Nay ông đã đem lại tuổi thọ và sự an lạc cho vô lượng chúng sanh.”
Như  vậy, Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên dùng bố  thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại  thừa và vô lượng vô biên Phật pháp khác dạy dỗ, trao truyền, giúp họ  chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho các hữu  tình. Nếu dùng công đức thiện căn của Ðộc giác và Thanh văn thừa dạy dỗ,  trao truyền, liền bị cản trở công đức thù thắng của vô lượng vô biên  hữu tình A-la-hán v.v...
Nếu có Bồ-tát muốn chứng quả vị Vô  thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên đem bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn,  tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại thừa và vô lượng vô biên Phật pháp  khác dạy dỗ, trao truyền, làm cho họ hộ trì trí nhất thiết trí, cũng  làm cho giữ gìn trí nhất thiết trí. Ðã làm cho hộ trì trí nhất thiết  trí, cũng làm cho giữ gìn trí nhất thiết trí, tức là đem công đức thù  thắng cho vô lượng vô biên hữu tình A-la-hán v.v…
Như vậy, Bồ-tát  muốn chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, nên đem bố thí, tịnh  giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa của Đại thừa và  vô lượng vô biên các Phật pháp khác dạy dỗ, trao truyền, tức là dạy dỗ,  trao truyền vô lượng vô biên hữu tình, giúp họ tu hành các diệu hạnh an  lạc.
Như vậy, Bồ-tát an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa, suy nghĩ như  vầy: Nhờ sự an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa của ta, nguyện cho các hữu  tình đều đầy đủ tịnh giới, xa lìa sự hủy phạm, nguyện đem thiện căn như  thế hồi hướng cho tất cả hữu tình đều được chánh niệm. Do chánh niệm nên  sanh hỷ lạc. Các hữu tình kia nghe lời nói này rồi, tâm xa lìa sự hủy  phạm, thọ trì tịnh giới.
Lại có Bồ-tát an trụ tịnh giới  Ba-la-mật-đa, khởi nhất tâm đem sự an trụ tịnh giới cho một Bồ-tát. Đối  với công đức trên thì hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến hơn gấp  muôn ức lần. 
Như vậy, Bồ-tát từng giờ, từng giờ vì hữu tình đem  sự an trụ giới hồi hướng, bố thí cho Bồ-tát. Từng lúc, từng lúc tịnh  giới Ba-la-mật-đa của Bồ-tát dần dần tăng trưởng, mau chóng chứng đắc  trí nhất thiết trí. Như vậy, Bồ-tát an trụ tịnh giới Ba-la-mật-đa, hồi  hướng, bố thí cho hữu tình, thì phước đức đạt được nhiều loại khác nhau.
Bấy giờ, Xá-lợi Tử bạch Phật: 
-  Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bồ-tát làm sao biết được Bồ-tát như thế trải qua  bao nhiêu số kiếp mới được xuất ly? Bồ-tát như vậy đã trải qua bao  nhiêu phát khởi Đại thừa?
Phật bảo Xá-lợi Tử: 
- Nên biết,  Bồ-tát như vậy phải dùng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự,  Bát-nhã ba-la-mật-đa dạy dỗ, trao truyền cho các hữu tình, khiến họ  phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tu hành các hạnh Bồ-tát  không điên đảo, mau chóng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm  lợi ích lớn cho các hữu tình. Nên biết, Bồ-tát như thế dùng bố thí, tịnh  giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, vì các hữu tình  mà hồi hướng, nguyện đắc trí nhất thiết trí. Suy nghĩ như vầy: 
Nguyện cầu sự tu bố thí Ba-la-mật-đa của ta, hồi hướng bố thí cho các hữu tình, khiến người tham lam đều biết bố thí. 
Nguyện cầu sự tu tịnh giới Ba-la-mật-đa của ta, hồi hướng bố thí cho các hữu tình, khiến người phạm giới đều được tịnh giới. 
Nguyện cầu sự tu an nhẫn Ba-la-mật-đa của ta, hồi hướng bố thí cho các hữu tình, khiến người sân giận đều được an nhẫn. 
Nguyện cầu sự tu tinh tấn Ba-la-mật-đa của ta, hồi hướng bố thí cho các hữu tình, khiến người giải đãi đều được tinh tấn. 
Nguyện cầu sự tu tĩnh lự Ba-la-mật-đa của ta, hồi hướng bố thí cho các hữu tình, khiến người tâm loạn đều được định (tĩnh lự). 
Nguyện cầu sự tu Bát-nhã ba-la-mật-đa của ta, hồi hướng bố thí cho các hữu tình, khiến người ác tuệ đều được diệu tuệ.
Xá-lợi Tử liền bạch Phật: 
-  Bạch Thế Tôn! Bồ-tát như thế đem thiện căn của mình hồi hướng bố thí  cho các hữu tình, phải trải qua bao nhiêu số kiếp tu hành Đại thừa mới  được xuất ly? 
Phật bảo Xá-lợi Tử: 
- Bồ-tát như vậy đem  thiện căn của mình hồi hướng bố thí cho các hữu tình, phải trải qua năm  trăm đại kiếp tu hành Đại thừa mới được xuất ly.
Lại nữa, Xá-lợi  Tử! Bồ-tát như vậy hoặc có thành tựu phương tiện thiện xảo, muốn mau  chứng đắc trí nhất thiết trí, tức là vị ấy trong hiền kiếp này, nguyện  thành Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, thuộc vào trong số ngàn đức Phật  chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Như Phật Từ Thị quán Không  các đường ác, thuyết pháp hội đầu tiên có trăm ngàn ức Thanh văn thành  A-la-hán. Lúc Ta là Bồ-tát đã ở trong hai ngàn kiếp tu hạnh Bồ-đề, cầu  chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích lớn cho các hữu  tình. 
Các Bồ-tát khác, nếu đầy đủ các tướng hành trạng như trên,  phải biết vị kia trải qua năm trăm đại kiếp tu học Đại thừa, nên được  xuất ly. Bồ-tát như thế, nên biết đã trụ nơi địa vị bất thối chuyển.
Xá-lợi Tử liền bạch Phật: 
-  Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát nghe thuyết giáo pháp tương ưng với  Ba-la-mật-đa như vậy, phải sanh tâm hoan hỷ. Vì sao? Vì nếu các Bồ-tát  nghe thuyết giáo pháp tương ưng với Ba-la-mật-đa, sanh tâm hoan hỷ, nhất  định không xa lìa chư Phật Thế Tôn. Chư Phật Thế Tôn cũng không bỏ vị  ấy.
Phật bảo Xá-lợi Tử: 
- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như  lời thầy nói. Nếu các Bồ-tát nghe thuyết giáo pháp tương ưng với  Ba-la-mật-đa, người ấy liên tục trụ tâm hoan hỷ sâu xa chỉ một ngày đêm,  thì biết các Bồ-tát này đã phát khởi tâm Đại thừa từ lâu. Nếu các  Bồ-tát nghe thuyết giáo pháp tương ưng với Ba-la-mật-đa như thế, người  ấy liên tục trụ tâm hoan hỷ sâu xa, trải qua hai ngày đêm, thì biết các  Bồ-tát này cũng phát khởi tâm Đại thừa từ lâu. Nếu các Bồ-tát nghe  thuyết giáo pháp tương ưng với Ba-la-mật-đa như thế, người ấy liên tục  trụ tâm hoan hỷ sâu xa, trải qua ba ngày đêm, lần lượt cho đến trải qua  bảy ngày đêm, thì biết các Bồ-tát này đã phát khởi tâm Đại thừa đã lâu,  cho đến rất lâu dài. 
Xá-lợi Tử bạch Phật: 
- Bạch Thế  Tôn! Theo như con hiểu nghĩa lời Phật thuyết thì các Bồ-tát này đã trải  qua trăm kiếp, hai trăm kiếp, ba trăm kiếp, lần lượt cho đến bảy trăm  kiếp phát tâm Đại thừa. Các Bồ-tát này tu hành Đại thừa, trải qua bảy  trăm kiếp nên được xuất ly. Các Bồ-tát này nhờ nhân duyên đây nên công  đức thiện căn dần dần được tăng trưởng. Các Bồ-tát này dùng phương tiện  thiện xảo nghe thuyết giáo pháp tương ưng với Ba-la-mật-đa như vậy, tuy  rất hoan hỷ nhưng không nhiễm trước. Các Bồ-tát này bản tánh thanh tịnh  nên nghe thuyết Đại thừa, tâm rất hoan hỷ. 
Phật bảo Xá-lợi Tử: 
-  Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời thầy nói. Thầy đã nương thần lực của  Phật mà thuyết giáo pháp tương ưng với Ba-la-mật-đa. Nếu các Đại Bồ-tát  thuyết đầy đủ các tướng hành trạng như trên, thì nên biết đã phát tâm  Đại thừa từ lâu. Các Đại Bồ-tát như vậy đã không thối chuyển tâm Bồ-đề.  Nếu các Bồ-tát nghe thuyết giáo pháp tương ưng với Ba-la-mật-đa như thế  mà không sanh tâm hoan hỷ, thì nên biết các Bồ-tát này phát tâm Đại thừa  chưa lâu. Ta đối với các Bồ-tát mới phát tâm Đại thừa như vậy, cũng vì  họ tuyên thuyết giáo pháp tương ưng với Ba-la-mật-đa, khiến họ siêng  năng tu học dần dần được chứng đắc trí nhất thiết trí.
Xá-lợi Tử bạch Phật: 
- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đều không lìa bỏ các Bồ-tát?
Phật bảo Xá-lợi Tử: 
-  Thầy cho rằng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác chỉ không xả bỏ các Bồ-tát  sao? Thầy không nên thấy như vậy. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì tất cả Như Lai  Ứng Chánh Ðẳng Giác đều không xả bỏ tất cả hữu tình. Tất cả Như Lai Ứng  Chánh Ðẳng Giác đều thương xót tất cả hữu tình sâu đậm, thường suy nghĩ  phải dùng phương tiện gì để giúp hữu tình kia xa lìa khổ sanh tử, được  giải thoát.
Lại nữa, Xá-lợi Tử! Các thầy nên biết, tâm của chư  Phật Thế Tôn bình đẳng như đối với tâm thuần tịnh của Phật phát khởi an  trụ từ bi và ban cho niềm vui, nhổ gốc khổ não. Thương xót tất cả hữu  tình một cách bình đẳng, vì muốn họ lìa khổ được vui.
Lại nữa,  Xá-lợi Tử! Nếu chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đối với tâm an trụ khác  nhau của chư Phật, đối với tâm an trụ khác nhau của các Bồ-tát, đối với  tâm an trụ khác nhau của các Ðộc giác, đối với tâm an trụ khác nhau của  bậc A-la-hán, đối với tâm an trụ khác nhau của bậc Bất-hoàn, đối với tâm  an trụ khác nhau của bậc Nhất lai, đối với tâm an trụ khác nhau của bậc  Dự lưu, đối với tâm an trụ khác nhau của vị tùy pháp hành, đối với tâm  an trụ khác nhau của vị tùy tín hành, đối với tâm an trụ khác nhau của  vị ngoài năm thần thông, đối với tâm an trụ khác nhau của vị thành tựu  giới biệt giải thoát, đối với tâm an trụ khác nhau của vị thành tựu mười  nghiệp thiện, đối với tâm an trụ khác nhau của vị thành tựu mười nghiệp  ác, đối với tâm an trụ khác nhau của kẻ ác, hạng bần tiện v.v…, tâm các  Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác cũng tùy theo ý thích sai khác đó mà hành  thì chẳng phải là Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác.
Lại nữa, Xá-lợi  Tử! Chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác như đối với tâm thuần tịnh của Phật,  phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ. 
Đối với Bồ-tát cũng lại như vậy, như đối với tâm thuần tịnh của Bồ-tát, phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ
Đối với Ðộc giác cũng lại như vậy, như đối với tâm thuần tịnh của Ðộc giác, phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ. 
Đối với A-la-hán cũng lại như vậy, như đối với tâm thuần tịnh của A-la-hán, phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ. 
Đối với Bất hoàn cũng lại như vậy, như đối với tâm thuần tịnh của Bất hoàn, phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ. 
Đối với bậc Nhất lai cũng lại như vậy, như đối với tâm thuần tịnh của Nhất lai, phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ. 
Đối với bậc Dự lưu cũng lại như vậy, như đối với tâm thuần tịnh của Dự lưu, phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ. 
Đối  với bậc tùy pháp hành cũng lại như vậy, như đối với tâm thuần tịnh của  bậc tùy pháp hành, phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ. 
Đối  với bậc tùy tín hành cũng lại như vậy, như đối với tâm thuần tịnh của  bậc tùy tín hành, phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ. 
Đối  với bậc ngoài năm thần thông cũng lại như vậy, như đối với tâm thuần  tịnh của bậc ngoài năm thần thông, phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu  khổ. 
Đối với vị thành tựu các giới biệt giải thoát cũng lại như  vậy, như đối với tâm thuần tịnh của vị thành tựu giới biệt giải thoát,  phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ. 
Đối với vị thành tựu  mười nghiệp thiện cũng lại như vậy, như đối với tâm thuần tịnh của vị  thành tựu mười nghiệp thiện, phát khởi an trụ từ bi, ban vui cứu khổ. 
Đối  với vị thành tựu mười nghiệp ác cũng lại như vậy, như đối với tâm thuần  tịnh của vị thành tựu mười nghiệp ác, phát khởi an trụ từ bi, ban vui  cứu khổ. 
Đối với kẻ ác, hạng bần tiện v.v… cũng lại như vậy. 
Do  đây nên tâm Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác không phân biệt, không tùy ý  thích mà thực hành, cho nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác. Vì vậy  chư Phật đầy đủ đại bi, trí tuệ, an trụ trong tất cả pháp tánh bình  đẳng, đối với các hữu tình đều không xả bỏ. 
Lại nữa, Xá-lợi Tử!  Ta hoàn toàn không thấy chư Phật Thế Tôn đối với cảnh sở duyên mà khởi  lên một chút điều ưa thích hay tức giận. Nếu các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng  Giác đối với cảnh sở duyên mà khởi lên ưa thích hay tức giận, điều này  thật phi lý. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì chư Phật Thế Tôn đối với sự thương  ghét, tất cả phiền não đều đã chấm dứt.
Lại nữa, Xá-lợi Tử! Tuy  nhiên chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đối với các Bồ-tát, chắc chắn  không bao giờ xả bỏ. Vì sao? Xá-lợi Tử! Vì sau khi chư Như Lai Ứng Chánh  Ðẳng Giác nhập Niết-bàn, có các Bồ-tát tinh tấn tu hành bố thí, tịnh  giới, an nhẫn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa, dần dần được viên mãn.  Tinh tấn tu học pháp nội Không, ngoại Không, nội ngoại Không, Không  Không, đại Không, thắng nghĩa Không, hữu vi Không, vô vi Không, tất cánh  Không, vô tế Không, tán Không, vô biến dị Không, bản tính Không, tự  tướng Không, cộng tướng Không, nhất thiết pháp Không, bất khả đắc Không,  vô tính Không, tự tính Không, vô tính tự tính Không, trí tuệ không điên  đảo dần dần viên mãn.
Tinh tấn tu học các pháp chơn như, pháp  giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình  đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không,  cảnh giới bất tư nghì, trí tuệ không điên đảo dần dần viên mãn.
Tinh  tấn tu học vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc,  danh sắc duyên lục xứ, lục xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái  duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử, trí tuệ  không điên đảo dần dần viên mãn. 
Tinh tấn tu học vô minh diệt  nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt,  danh sắc diệt nên lục xứ diệt, lục xứ diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên  thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu  diệt, hữu diệt nên sanh diệt, sanh diệt nên lão tử diệt, trí tuệ không  điên đảo dần dần viên mãn. 
Tinh tấn tu học Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, trí tuệ không điên đảo dần dần viên mãn. 
Tinh tấn tu học bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc dần dần viên mãn. 
Tinh  tấn tu học bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm  lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo dần dần viên mãn. 
Tinh tấn tu học pháp môn giải thoát Không, vô tướng, vô nguyện dần dần viên mãn. 
Tinh tấn tu học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ dần dần viên mãn. 
Tinh  tấn tu học Tịnh quán địa, Chủng tánh địa, Ðệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc  địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Ðộc giác địa, Bồ-tát địa, Như Lai địa, trí  tuệ không điên đảo dần dần viên mãn. 
Tinh tấn tu học Cực hỷ  địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm tuệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện  tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa dần  dần viên mãn. 
Tinh tấn tu học tất cả pháp môn Đà-la-ni, tất cả pháp môn Tam-ma-địa dần dần viên mãn. 
Tinh tấn tu học năm loại mắt, sáu phép thần thông dần dần viên mãn. 
Tinh  tấn tu học mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông  suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng dần  dần viên mãn. 
Tinh tấn tu học ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp dần dần viên mãn. 
Tinh tấn tu học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả dần dần viên mãn. 
Tinh tấn tu học trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng dần dần viên mãn. 
Tinh  tấn tu học Dự lưu hướng, Dự lưu quả, Nhất lai hướng, Nhất lai quả, Bất  hoàn hướng, Bất hoàn quả, A-la-hán hướng, A-la-hán quả, Ðộc giác nhân  đạo, Ðộc giác Bồ-đề, trí tuệ không điên đảo dần dần viên mãn. 
Tinh tấn tu học tất cả hạnh Đại Bồ-tát dần dần viên mãn. 
Tinh tấn tu học quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật dần dần viên mãn. 
Tinh  tấn tu học lìa giết hại sanh mạng, lìa lấy của chẳng cho, lìa hành dục  tà, lìa lời dối gạt, lìa lời thô ác, lìa lời chia rẽ, lìa lời tạp uế,  lìa tham dục, lìa giận dữ, lìa nghiệp đạo tà kiến, dần dần viên mãn. 
Tinh  tấn tu học, trình bày các pháp môn diệu trí, dần dần viên mãn. Đem ánh  sáng chánh pháp chiếu khắp các thế gian, độ thoát vô lượng vô biên hữu  tình, xa lìa khổ sanh tử, chứng đắc Niết-bàn an lạc. 
Chư Phật  Thế Tôn quán chiếu nghĩa như vậy, dạy dỗ, trao truyền Bồ-tát như thế. Do  nhân duyên này nên chắc chắn không bao giờ xả bỏ các Bồ-tát. Vì sau khi  chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác nhập Niết-bàn, các Bồ-tát sẽ chứng đắc  quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đem ánh sáng chánh pháp chiếu khắp  các thế gian, giúp thế gian tu hành đạt được lợi ích lớn. Cho nên đối  với Bồ-tát, chắc chắn không bao giờ xả bỏ.
Xá-lợi Tử liền bạch Phật: 
-  Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy. Bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy. Thật đúng  thánh giáo. Ðối với chư Như Lai sau khi Niết-bàn, ở mười phương thế giới  có Đại Bồ-tát chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, đem ánh sáng  chánh pháp chiếu khắp các thế gian. Ví như cây lớn có nhiều lá quả. Sau  khi cây lớn khô chết, cây nhỏ tiếp nối phát sanh, cọng, thân, nhánh dần  dần cao lớn, bóng mát che rộng một do-tuần. Vô lượng chúng sanh dừng  nghỉ dưới gốc cây, để tránh gió, mưa, nóng, lạnh v.v…, lại còn bẻ lá hái  quả dùng nữa. Những người có trí cùng nhau khen ngợi quả, lá, bóng mát  của cây lớn này cũng lợi ích cho hữu tình chẳng khác cây xưa. Chỉ có  người ngu không biết đến nương bóng mát này. 
Như vậy, Bồ-tát đối  với Phật Thế Tôn sau khi Niết-bàn, dần dần tu học bố thí, tịnh giới, an  nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và vô biên diệu pháp khác  của chư Phật, dần dần viên mãn, ở ba ngàn đại thiên thế giới, chứng đắc  quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, tiếp nối Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác  trước. Như thật lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình. Khiến các Phật sự  không đoạn tuyệt.
Nghĩa là vì vô biên các hữu tình dùng phương  tiện tuyên thuyết mười nghiệp thiện, khiến cho siêng năng tu học các  pháp môn, thí, giới, tu v.v... thoát nỗi khổ đường ác, được sanh trong  trời, người, hưởng thọ an vui thích thú. 
Hoặc vì vô biên các  loài hữu tình, dùng phương tiện tuyên thuyết uẩn, xứ, giới v.v... khiến  cho họ siêng năng tinh tấn, không thấy có ngã, hữu tình, sinh mạng, sự  sống, người nuôi dưỡng, trưởng thành, người, ý sanh, thanh niên, người  làm, người nhận, người biết, người thấy; quán sát bốn Thánh đế khổ, tập,  diệt, đạo, tu bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm  lực, bảy chi đẳng giác, tám chi thánh đạo, ba môn giải thoát và thiện  pháp khác, chấm dứt các phiền não, được nhập Niết-bàn.
Hoặc vì vô  biên các loài hữu tình dùng phương tiện tuyên thuyết tánh thường, vô  thường của sắc uẩn đều bất khả đắc; tánh thường, vô thường của thọ,  tưởng, hành, thức uẩn cũng bất khả đắc. 
Dùng phương tiện tuyên  thuyết tánh vui (lạc), không vui của sắc uẩn đều bất khả đắc. Tánh vui,  không vui của thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng bất khả đắc. 
Dùng  phương tiện tuyên thuyết tánh ngã, vô ngã của sắc uẩn đều bất khả đắc.  Tánh ngã, vô ngã của thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng bất khả đắc. 
Dùng  phương tiện tuyên thuyết tánh tịnh, bất tịnh của sắc uẩn đều bất khả  đắc. Tánh tịnh, bất tịnh của thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng bất khả  đắc.
Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh tịch tĩnh, không tịch  tĩnh của sắc uẩn đều bất khả đắc. Tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh của  thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng bất khả đắc. 
Dùng phương tiện  tuyên thuyết tánh viễn ly, không viễn ly của sắc uẩn đều bất khả đắc.  Tánh viễn ly, không viễn ly của thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng bất khả  đắc. 
Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh thường, vô thường của  nhãn xứ đều bất khả đắc. Tánh thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt,  thân, ý xứ cũng bất khả đắc. 
Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh  vui, không vui của nhãn xứ đều bất khả đắc. Tánh vui, không vui của nhĩ,  tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng bất khả đắc. 
Dùng phương tiện tuyên  thuyết tánh ngã, vô ngã của nhãn xứ đều bất khả đắc. Tánh ngã, vô ngã  của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng bất khả đắc. 
Dùng phương  tiện tuyên thuyết tánh tịnh, bất tịnh của nhãn xứ đều bất khả đắc. Tánh  tịnh, bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng bất khả đắc. 
Dùng  phương tiện tuyên thuyết tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh của nhãn xứ  đều bất khả đắc. Tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt,  thân, ý xứ cũng bất khả đắc. 
Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh  viễn ly, không viễn ly của nhãn xứ đều bất khả đắc. Tánh viễn ly, không  viễn ly của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng bất khả đắc.
Dùng  phương tiện tuyên thuyết tánh thường, vô thường của sắc xứ đều bất khả  đắc. Tánh thường, vô thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng bất  khả đắc. 
Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh vui, không vui của  sắc xứ đều bất khả đắc. Tánh vui, không vui của thanh, hương, vị, xúc,  pháp xứ cũng bất khả đắc. 
Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh  ngã, vô ngã của sắc xứ đều bất khả đắc. Tánh ngã, vô ngã của thanh,  hương, vị, xúc, pháp xứ cũng bất khả đắc. 
Dùng phương tiện tuyên  thuyết tánh tịnh, bất tịnh của sắc xứ đều bất khả đắc. Tánh tịnh, bất  tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng bất khả đắc. 
Dùng  phương tiện tuyên thuyết tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh của sắc xứ đều  bất khả đắc. Tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh của thanh, hương, vị, xúc,  pháp xứ cũng bất khả đắc. 
Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh  viễn ly, không viễn ly của sắc xứ đều bất khả đắc. Tánh viễn ly, không  viễn ly của thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng bất khả đắc. 
Dùng  phương tiện tuyên thuyết tánh thường, vô thường của nhãn giới đều bất  khả đắc. Tánh thường, vô thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng  bất khả đắc. 
Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh vui, không vui  của nhãn giới đều bất khả đắc. Tánh vui, không vui của nhĩ, tỷ, thiệt,  thân, ý giới cũng bất khả đắc. 
Dùng phương tiện tuyên thuyết  tánh ngã, vô ngã của nhãn giới đều bất khả đắc. Tánh ngã, vô ngã của  nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng bất khả đắc. 
Dùng phương tiện  tuyên thuyết tánh tịnh, bất tịnh của nhãn giới đều bất khả đắc. Tánh  tịnh, bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng bất khả đắc. 
Dùng  phương tiện tuyên thuyết tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh của nhãn giới  đều bất khả đắc. Tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh của nhĩ, tỷ, thiệt,  thân, ý giới cũng bất khả đắc. 
Dùng phương tiện tuyên thuyết  tánh viễn ly, không viễn ly của nhãn giới đều bất khả đắc. Tánh viễn ly,  không viễn ly của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới cũng bất khả đắc. 
Dùng  phương tiện tuyên thuyết tánh thường, vô thường của sắc giới đều bất  khả đắc. Tánh thường, vô thường của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới  cũng bất khả đắc. 
Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh vui, không  vui của sắc giới đều bất khả đắc. Tánh vui, không vui của thanh, hương,  vị, xúc, pháp giới cũng bất khả đắc. 
Dùng phương tiện tuyên  thuyết tánh ngã, vô ngã của sắc giới đều bất khả đắc. Tánh ngã, vô ngã  của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng bất khả đắc. 
Dùng  phương tiện tuyên thuyết tánh tịnh, bất tịnh của sắc giới đều bất khả  đắc. Tánh tịnh, bất tịnh của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng bất  khả đắc. 
Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh tịch tĩnh, không  tịch tĩnh của sắc giới đều bất khả đắc. Tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh  của thanh, hương, vị, xúc, pháp giới cũng bất khả đắc. 
Dùng  phương tiện tuyên thuyết tánh viễn ly, không viễn ly của sắc giới đều  bất khả đắc. Tánh viễn ly, không viễn ly của thanh, hương, vị, xúc, pháp  giới cũng bất khả đắc. 
Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh  thường, vô thường của nhãn thức giới đều bất khả đắc. Tánh thường, vô  thường của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng bất khả đắc. 
Dùng  phương tiện tuyên thuyết tánh vui, không vui của nhãn thức giới đều bất  khả đắc. Tánh vui, không vui của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng  bất khả đắc. 
Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh ngã, vô ngã của  nhãn thức giới đều bất khả đắc. Tánh ngã, vô ngã của nhĩ, tỷ, thiệt,  thân, ý thức giới cũng bất khả đắc. 
Dùng phương tiện tuyên  thuyết tánh tịnh, bất tịnh của nhãn thức giới đều bất khả đắc. Tánh  tịnh, bất tịnh của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng bất khả đắc. 
Dùng  phương tiện tuyên thuyết tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh của nhãn thức  giới đều bất khả đắc. Tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh của nhĩ, tỷ,  thiệt, thân, ý thức giới cũng bất khả đắc. 
Dùng phương tiện  tuyên thuyết tánh viễn ly, không viễn ly của nhãn thức giới đều bất khả  đắc. Tánh viễn ly, không viễn ly của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới  cũng bất khả đắc. 
Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh thường, vô  thường của Thánh đế khổ đều bất khả đắc. Tánh thường, vô thường của  Thánh đế tập, diệt, đạo cũng bất khả đắc. 
Dùng phương tiện tuyên  thuyết tánh vui, không vui của Thánh đế khổ đều bất khả đắc. Tánh vui,  không vui của Thánh đế tập, diệt, đạo cũng bất khả đắc. 
Dùng  phương tiện tuyên thuyết tánh ngã, vô ngã của Thánh đế khổ đều bất khả  đắc. Tánh ngã, vô ngã của Thánh đế tập, diệt, đạo cũng bất khả đắc. 
Dùng  phương tiện tuyên thuyết tánh tịnh, bất tịnh của Thánh đế khổ đều bất  khả đắc. Tánh tịnh, bất tịnh của Thánh đế tập, diệt, đạo cũng bất khả  đắc. 
Dùng phương tiện tuyên thuyết tánh tịch tĩnh, không tịch  tĩnh của Thánh đế khổ đều bất khả đắc. Tánh tịch tĩnh, không tịch tĩnh  của Thánh đế tập, diệt, đạo cũng bất khả đắc. 
Dùng phương tiện  tuyên thuyết tánh viễn ly, không viễn ly của Thánh đế khổ đều bất khả  đắc. Tánh viễn ly, không viễn ly của Thánh đế tập, diệt, đạo cũng bất  khả đắc. 
Dùng phương tiện tuyên thuyết vô lượng pháp môn như  vậy, khiến cho họ siêng năng tinh tấn. Dùng phương tiện thiện xảo quán  sát, xa lìa các pháp hý luận, không điên đảo. Dùng phương tiện tu hành  bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã ba-la-mật-đa và  vô lượng vô biên Phật pháp khác, chứng đắc trí nhất thiết trí rốt ráo. 
Các  loài hữu tình có trí tuệ hiểu biết, nghe pháp như vậy, bèn tinh tấn tu  hành, tùy theo sự hiểu biết sẽ được hương vị cam lồ, hoặc tạm thời, hoặc  vĩnh viễn được lợi ích an lạc. Chỉ có người ngu si và các ngoại đạo  không nghe thọ giáo pháp, nên bị chìm đắm và trầm luân trong các đường.  Chư Phật Thế Tôn quán nghĩa như vậy, hướng đến Bồ-tát dạy dỗ, trao  truyền. Vì sau khi chư Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác nhập Niết-bàn, các  Bồ-tát tu hạnh Bồ-tát dần dần viên mãn, chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh  đẳng Bồ-đề, đem ánh sáng chánh pháp soi sáng cho các thế gian. Ví như  bóng mát của cây to lớn, làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.
Xá-lợi Tử bạch Phật: 
-  Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu lời Phật dạy, dạy dỗ trao truyền cho hàng  Thanh văn thừa hoặc trăm, hoặc ngàn, cho đến vô số đều an trụ quả  A-la-hán, không bằng dùng phương tiện thiện xảo thuyết pháp yếu thâm sâu  cho một Bồ-tát. Đó là pháp tương ưng với sáu Ba-la-mật-đa, làm cho vị  ấy nghe rồi khởi niệm nhất tâm tương ưng với trí nhất thiết. Pháp yếu  như vậy đối với giáo pháp trên là tối, là thắng, là tôn, là cao, là  diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng. Vì sự phát tâm ấy đối với  công đức Thanh văn là tối thắng nhất.
Phật khen Xá-lợi Tử: 
-  Lành thay! Lành thay! Đúng như lời thầy nói. Thầy đúng thật là đệ tử  thông minh, sáng suốt của Phật. Nghĩa là khéo dạy dỗ trao truyền sự vô  úy cho hàng Bồ-tát thừa, khiến cho họ siêng năng tu hành hạnh Bồ-tát,  mau chóng chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, làm lợi ích an lạc  lớn cho các hữu tình.
Bấy giờ, Phật dạy A-nan-đà: 
- Thầy nên thọ trì sự tu tịnh giới Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát như Xá-lợi Tử đã thuyết, chớ để quên mất.
A-nan-đà bạch Phật: 
-  Bạch Thế Tôn! Con xin vâng lời Thế Tôn dạy. Con đã thọ trì sự tu tịnh  giới Ba-la-mật-đa của Đại Bồ-tát như ngài Xá-lợi Tử đã thuyết, chắc chắn  không để quên mất, làm cho các Bồ-tát chưa phát tâm Vô thượng Bồ-đề mau  chóng phát tâm. Vị nào đã phát tâm Vô thượng Bồ-đề vĩnh viễn không thối  chuyển. Nếu đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề đã không thối  chuyển, thì giúp cho mau chóng viên mãn trí nhất thiết trí. 
Khi  đức Bạc-già-phạm thuyết kinh này rồi, cụ thọ Xá-lợi Tử, cụ thọ Mãn Từ  Tử, cụ thọ A-nan-đà và các Thanh văn, Bồ-tát khác cùng tất cả trời,  rồng, Dược-xoa, người chẳng phải người v.v... nghe lời Phật thuyết đều  hớn hở vui mừng, tín thọ phụng hành.
